Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Các căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong bộ luật dân sự năm 2005...

Tài liệu Các căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong bộ luật dân sự năm 2005

.DOC
78
69
144

Mô tả:

Chương 1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN VÀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN 1.1. Khái niệm quyền sở hữu của cá nhân Tài sản và quyền sở hữu là một trong những cơ sở vật chất quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo cuộc sống của mỗi cá nhân và của cộng đồng. Sở hữu phát sinh và tồn tại cùng sự ra đời và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng còn hạn chế nhưng người nguyên thủy đã biết chiếm giữ hoa quả tự nhiên, chim thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Tuy nhiên, quyền sở hữu của cá nhân chỉ xuất hiện khi nhà nước và pháp luật ra đời, đó là khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai cấp. Để bảo vệ quyền lợi của mình, đặc biệt là lợi ích sở hữu đối với tư liệu sản xuất, để thiết lập trật tự xã hội, giai cấp thống trị đặt ra pháp luật, tức là thể chế hóa ý chí của mình thành ý chí của Nhà nước trong các văn bản pháp luật. Pháp luật về sở hữu ghi nhận và củng cố địa vị, lợi ích của giai cấp thống trị đối với việc chiếm giữ tư liệu sản xuất và các của cải vật chất trước các giai cấp khác trong quá trình sản xuất. Trong bất kỳ một Nhà nước nào, pháp luật về sở hữu nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung đều được sử dụng là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp cầm quyền. Quyền sở hữu của cá nhân phản ánh bản chất của mỗi chế độ xã hội bao gồm cả hai mặt kinh tế và pháp luật. Theo học thuyết Mác-Lênin, bản chất của sở hữu không phải là quan hệ của con người đối với vật mà là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tài sản. Vậy quyền sở hữu của cá nhân là gì? Quyền sở hữu của cá nhân được hiểu theo hai giác độ. Thứ nhất: Hiểu theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu của cá nhân là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về trình tự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và phương thức bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân về mặt dân sự. Trước đây, khi chưa có Bộ luật dân sự, quyền sở hữu của cá nhân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật đất đai, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, pháp lệnh hợp đồng dân sự ...Quyền sở hữu của cá nhân được coi như một nguyên tắc hiến định. Việc điều chỉnh các quan hệ sở hữu luôn là một nội dung không thể thiếu được đối với Hiến pháp của nhà nước ta. Từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ công hòa, sở hữu cá nhân đã được thừa nhận và bảo vệ. Điều 12 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Ngày 19/12/1979, Chính phủ ban hành Sắc lệnh 197 cho công bố và thi hành trên quy mô rộng Luật cải cách ruộng đất. Theo đó người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất, có quyền bán, cầm cố ruộng đất được chia. Ruộng đất thuộc sở hữu của cá nhân. Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành một số sắc lệnh bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân như Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong Dân luật; Sắc lệnh 85/SL ngày 20/2/1952 ban hành thể lệ trước bạ về mua bán, cho và đổi chác nhà cửa, ruộng đất ...Theo quy định của pháp luật thời kỳ này, chủ sở hữu chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân. Đến năm 1959, cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thế mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong kiến thống trị, nhà nước tạm thời còn bị chia làm hai miền. Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta đã sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới, và bản Hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1959 ra đời. Quan điểm của Nhà nước ta trong thời kỳ này về chế độ tư hữu được thể hiện một cách khá rõ trong Hiến pháp. Nhà nước bảo hộ quyền quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14); tư liệu sản xuất của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ (Điều 15); quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều 16). Bên cạnh việc bảo hộ đó, Hiến pháp năm 1959 cũng nghiêm cấm việc “lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước” (Điều 17). Đồng thời, Hiến pháp khẳng định sự cần thiết phải cải tạo các thành phần kinh tế từng bước chuyển chúng thành thành phần kinh tế của nhà nước hoặc tập thể. Từ các quy định mang tính nguyên tắc trong Hiến pháp, trong hệ thống pháp luật của nước ta đã có xuất hiện một số chế định, một số quy phạm pháp luật về quyền sở hữu của cá nhân mặc dù chưa phải là hoàn chỉnh và đầy đủ. Các văn bản pháp luật có liên quan đến sở hữu cá nhân đáng chú ý trong giai đoạn này là Thông tư số 48-TTg ngày 3/6/1963 về sở hữu đối với trâu bò; Thông tư số 228-TTg ngày 22/8/1975 về tiền gửi của chủ hợp doanh ở Ngân hàng nhà nước; Quyết định số 55-CP ngày 23/2/1980 về sở hữu ô tô con của tư nhân; Quyết định số 38-CP ngày 9/2/1979 về quản lý vàng bạc, đá quý. Những văn bản này về cơ bản được ban hành phù hợp với quan điểm chính thống về sở hữu tư nhân trong giai đoạn này. Khách thể của các quan hệ sở hữu cá nhân là những tài sản đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt hàng ngày của công dân như nhà cửa, cây cối, tiền và ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp. Phần lớn các văn bản này đều có quy định ràng buộc chủ sở hữu không được sử dụng tài sản này để kinh doanh và buôn bán trái phép, làm những việc có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Hiến pháp năm 1980, Bản Hiến pháp của nước Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, chế độ sở hữu tư nhân trở nên mờ nhạt. Nhà nước chủ trương sẽ thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Nhà nước chỉ bảo hộ quyền sở hữu của cá nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt còn quyền sở hữu tư liệu sản xuất chỉ được bảo hộ trong một số trường hợp lao động riêng lẻ và không được khuyến khích. Đồng thời nhà nước kiên quyết xóa bỏ những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản bằng cách quốc hữu hóa không bồi thường. Khác với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, theo Hiến pháp năm 1980, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Lý giải cho sự khác biệt đó là xuất phát từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhà nước ta: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Tại thời kỳ này tồn tại hai khái niệm đó là khái niệm sở hữu của công dân và sở hữu tư nhân. Quan điểm của Đảng ta cho rằng để có chủ nghĩa xã hội chỉ cần xây dựng một chế độ sở hữu mà trong đó chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể xác lập một cách tuyệt đối đối với tư liệu sản xuất còn sở hữu tư nhân từng bước bị xóa bỏ. Sở hữu công dân chỉ hạn chế trong phạm vi sở hữu về tư liệu tiêu dùng, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và những tư liệu sản xuất nhỏ phục vụ kinh tế gia đình. Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tư liệu sản xuất. Đây chính là sở hữu của nông dân cá thể, thợ thủ công và những người lao động riêng lẻ. Nó được coi là “mầm mống của chế độ người bóc lột người”, Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ các thành phần kinh tế như nông dân cá thể, thợ thủ công... tiến lên con đường làm ăn tập thể. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta vẫn duy trì quan điểm, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài mà không trao cho họ quyền sở hữu. Tuy nhiên, Nhà nước cho phép các hộ nông dân được chuyển quyền sử dụng đất khi chuyển sang làm nghề khác hoặc vì một lý do chính đáng. Quyền sử dụng đất đã được coi là một quyền tài sản và có thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân sự. Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước với đa hình thức sở hữu bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Ngoài việc tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của sở hữu toàn dân, Nhà nước ta khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và bảo vệ mọi hình thức sở hữu hợp pháp khác đặc biệt là sở hữu của cá nhân. Nhà nước tạo điều kiện để sở hữu tư nhân phát huy sức mạnh, giải phóng mọi tiềm năng để sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình. Nó có ý nghĩa to lớn trong việc khuyến khích cá nhân khai thác tài sản để hưởng lợi, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, góp phần vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người có thể làm chủ sở hữu thực sự đối với tài sản của mình. Tài sản hợp pháp của cá nhân không bị quốc hữu hóa. Khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã mở rộng quyền sở hữu của cá nhân bao gồm: tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Điều 58 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác...Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự năm 1995 đánh dấu một bước tiến quan trọng của pháp luật Việt Nam trong quá trình thực hiện chính sách đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 1995 đã cụ thể hóa nguyên tắc về sở hữu và một lần nữa khẳng định quyền sở hữu của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau mười năm thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ một số hạn chế nhất định và trước đòi hỏi của tình hình chính trị, kinh tế của đất nước Bộ luật dân sự năm 2005 đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 thay thế cho Bộ luật dân sự năm 1995. Một lần nữa quyền sở hữu của cá nhân lại được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 169 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: 1. Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ. 2. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. 3. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật. Cùng với sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, khách thể quyền sở hữu của công dân cũng được mở rộng cả về số lượng và chủng loại. Bộ luật dân sự năm 2005 khẳng định: “Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân. Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị” (Điều 212 Bộ luật dân sự). Hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang được đưa ra lấy ý kiến toàn dân, theo đó quyền sở hữu của cá nhân cũng có những thay đổi đáng kể. Thuật ngữ “công dân” được thay bằng thuật ngữ “mọi người”. Điều 33 dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong tổ chức kinh tế khác”. “Mọi người” là bao gồm công dân và những người khác nữa. Theo quy định của dự thảo Hiến pháp sửa đổi quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Như vậy, theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu của cá nhân là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và phương thức bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân. Trong Hiến pháp quyền sở hữu của cá nhân là sự ghi nhận và phản ánh bản chất kinh tế - xã hội và chính trị của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Chế định quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ luật dân sự là một phương thức thể hiện, cụ thể hóa chế độ sở hữu của cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp Thứ hai, hiểu theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu của cá nhân được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định. Đó là quyền dân sự cụ thể của cá nhân, với tư cách là chủ sở sở hữu thì cá nhân có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản cùng quyền khởi kiện để bảo vệ quyền sở hữu. Khi quyền sở hữu của mình bị xâm phạm, cá nhân với tư cách là chủ sở hữu tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn, yêu cầu khởi kiện và được bồi thường thiệt hại. Ở nước ta đã có thời kỳ xóa bỏ sở hữu tư nhân, nhà nước chỉ chú trọng phát triển hai thành phần kinh tế đó là thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu của nhân dân lao động. Chúng ta đã mắc phải sai lầm, vi phạm quy luật khách quan. Nhà nước muốn xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong một thời gian ngắn, nhanh chóng thực hiện quốc doanh hóa, tập thể hóa trong khi đó trình độ của lực lượng sản xuất về cơ bản vẫn ở tình trạng thủ công. Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ V đã thừa nhận sự non nớt, yếu kém đó. Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam ghi nhận sự đổi mới tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn của Đảng ta. Theo các Nghị quyết Trung ương Đảng thứ VI đến nay Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó: Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được nhà nước tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà phát luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng1. Nhà nước khuyến khích cá nhân được sản xuất, kinh doanh, được đầu tư vốn và tài sản của mình trong đó có tư liệu sản xuất vào các thành phần kinh tế khác và không bị hạn chế về vốn và quy mô sản xuất kinh doanh. Hiến pháp năm 1992 quy định: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. Nhà nước khuyến khích các cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của cá nhân nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân không bị quốc hữu hóa. Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu của cá nhân đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Điều 15 Bộ luật dân sự quy 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. định cá nhân có quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản. Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Cá nhân có quyền lao động. Mọi người đều có quyền làm việc, tự lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 49 Bộ luật dân sự). Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 50 Bộ luật dân sự). Với tư cách là chủ sở hữu tài sản cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Điều 164 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 Bộ luật dân sự). Đó là việc chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản. Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị hạn chế gián đoạn về thời gian. Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Điều 192 Bộ luật dân sự). Đây là một quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản tùy theo ý chí của mình miễn là không gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền định đoạt là quyền năng của chủ sở hữu trong việc quyết định số phận của tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thông qua các hành vi như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định. Quyền định đoạt là quyền có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc quyết định số phận của tài sản. Thông qua quyền định đoạt tài sản có thể làm chấm dứt quyền sở hữu của chủ sở hữu này và phát sinh quyền sở hữu của chủ sở hữu khác đối với tài sản. Chỉ có chủ sở hữu thực sự mới có đủ ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Chỉ khi là chủ hữu mới có quyền thực hiện ba quyền năng này một cách độc lập, không phục thuộc vào ý chí của bất kỳ người nào khác. Mặt khác, trong giao lưu dân sự, các bên được quyền tự do cam kết, thỏa thuận, các bên hoàn toàn tự nguyện không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa ngăn cản bên nào. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ tất cả các quyền dân sự của cá nhân trong đó có quyền sở hữu. Khi quyền sở hữu bị xâm phạm cá nhân có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình và được quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hành vi xâm phạm quyền sở hữu gây thiệt hại. Tóm lại, quyền sở hữu của cá nhân là một chế định pháp luật, vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Quyền sở hữu mang tính chủ quan bởi vì đó là sự ghi nhận của Nhà nước nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở hữu theo ý chí chủ quan của mình mà quyền sở hữu được quy định trước hết phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của đất nước. Nhà nước quy định quyền sở hữu, tức là thể chế hóa những quan hệ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những sản phẩm do con người tạo ra. Như vậy, quyền sở hữu của cá nhân là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản trong những điều kiện nhất định. Quyền sở hữu của cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. 1.2. Khái niệm căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân 1.2.1. Khái niệm Quyền sở hữu của cá nhân như đã nói ở trên là phạm trù pháp lý, do đó, quyền sở hữu phát sinh phải dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Không phải mọi sự kiện xảy ra trong thực tế đều làm phát sinh quyền sở hữu mà chỉ những sự kiện pháp lý do pháp luật quy định mới được coi là căn cứ phát sinh quyền sở hữu đối với tài sản. Những sự kiện pháp lý này là cơ sở để xác lập quyền sở hữu của một cá nhân đối với tài sản của mình. Pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ các quyền của chủ sở hữu nếu quyền đó được xác lập trên những căn cứ do pháp luật quy định. Tất cả những tài sản của cá nhân có mà không dựa trên những căn cứ hợp pháp do pháp luật quy định thì không thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó. Những căn cứ đó là những khả năng xảy ra trong thực tế cuộc sống mà Bộ luật dân sự ghi nhận và nâng lên thành qui định chung, dựa vào đó chủ sở hữu có được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Ví dụ: A nhặt được một đồ vật ai đó đánh rơi trên đường, A không thể nói A có quyền sở hữu đối với đồ vật đó nếu không dựa trên những căn cứ pháp lý cụ thể làm phát sinh quyền sở hữu do pháp luật quy định. Quyền sở hữu là quyền tuyệt đối của mỗi cá nhân, pháp luật luôn bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của mỗi cá nhân. Quyền sở hữu theo Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2005 bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Những người khác có nghĩa vụ tôn trọng không một ai có quyền hạn chế, xâm phạm, cản trở hoặc can thiệp vào việc thực hiện các quyền năng đó. Khi quyền sở hữu của cá nhân bị xâm hại, pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Tuy nhiên, để đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh đòi hỏi pháp luật phải có các quy định rõ ràng, đúng đắn và phải có căn cứ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân đó chính là những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu. Quyền sở hữu phản ánh bản chất của từng chế độ xã hội, nó gắn với điều kiện kinh tế, xã hội của từng quốc gia nên pháp luật của mỗi chế độ xã hội, mỗi quốc gia lại có các căn cứ xác lập quyền sở hữu riêng. Việc pháp luật quy định mỗi chủ thể được sở hữu những loại tài sản nào, quyền năng cụ thể của chủ sở hữu đối với tài sản của mình đến đâu đều phải phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội cũng như điều kiện lịch sử của xã hội đó. Mặt khác, căn cứ xác lập quyền sở hữu còn phụ thuộc vào đặc điểm, công dụng của tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Mỗi loại tài sản đều có nguồn gốc, đặc điểm riêng, có công dụng và tính chất khác nhau do vậy khi quy định căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản phải xem xét đến nguồn gốc của tài sản, tài sản đó thuộc về ai, ai là chủ sở hữu và mục đích sở hữu, khai thác tài sản của chủ sở hữu đó như thế nào. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân gồm căn cứ nguyên sinh và căn cứ phái sinh. Căn cứ nguyên sinh (hay còn gọi là căn cứ đầu tiên) là những căn cứ xác lập quyền sở hữu lần đầu tiên đối với vật hoặc quyền sở hữu mới phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó. Hiểu theo khái niệm này thì căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ luật dân sự được coi là căn cứ nguyên sinh khi nó xác lập nên quyền sở hữu của một cá nhân đối với tài sản mà tài sản đó chưa từng thuộc về sở hữu của ai. Đó là căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức. Ngoài ra cũng có thể coi một căn cứ xác lập quyền sở hữu là nguyên sinh khi nó là xuất hiện một quyền sở hữu mới và việc tạo nên quyền sở hữu mới này hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó.Ví dụ như phát sinh quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị người khác đánh rơi, bỏ quên, xác lập quyền sở hữu do không tìm thấy chủ gia súc, gia cầm, do bản bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền... Căn cứ phái sinh (còn gọi là căn cứ kế tục): Căn cứ phái sinh là những căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu mới đối với vật dựa trên sự chuyển giao ý chí của chủ sở hữu trước đó. Thực chất căn cứ phái sinh là việc một cá nhân thiết lập quyền sở hữu mới đối với tài sản mà trước đây đã thuộc quyền sở hữu của một hay nhiều người khác. Việc xác lập quyền sở hữu mới có thể được thực hiện thông qua sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ sở hữu. Ví dụ: xác lập quyền sở hữu thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay, xác lập quyền sở hữu do được thừa kế... Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có tính chất tương đối vì có những sự kiện pháp lý là cơ sở xác lập quyền sở hữu chứa đựng cả những yếu tố phái sinh và yếu tố nguyên sinh. Ví dụ trong trường hợp sáp nhập, chế biến tài sản, rõ ràng quyền sở hữu được xác lập đối vật vừa mới được tạo thành nhưng trên cơ sở là vật cũ và phụ thuộc vào ý chí của các chủ sở hữu trước đó. Vậy căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân là những sự kiện pháp lý do Bộ luật dân sự quy định thông qua đó làm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân đối với một tài sản nhất định. 1.2.2. Ý nghĩa của căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân Căn cứ xác lập quyền sở hữu là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền sở hữu của một chủ thể sở hữu đối với một tài sản nhất định do vậy, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Thứ nhất: Đối với chủ sở hữu, căn cứ xác lập quyền sở hữu là cơ sở pháp lý để một chủ thể khẳng định được quyền sở hữu của mình đối với một tài sản nhất định. Dựa vào đó một chủ thể có thể biết trong trường hợp nào họ trở thành chủ sở hữu, tự bản thân họ cũng xác định được loại tài sản nào họ được quyền sở hữu và qua đó họ tự bảo vệ được quyền sở hữu hợp pháp của mình. Thứ hai: Đối với cơ quan áp dụng pháp luật, căn cứ xác lập quyền sở hữu là cơ sở pháp lý cần thiết để tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Trên thực tế, các tranh chấp về quyền sở hữu rất đa dạng và phức tạp, nếu không có các căn cứ xác lập quyền sở hữu rất khó đưa ra được phán quyết một cách đúng đắn và công minh vì khi có tranh chấp các đương sự bao giờ cũng đưa ra các lý lẽ thuyết phục để bảo vệ quyền lợi của mình. Thứ ba: Đối với trật tự xã hội, việc quy định một cách đầy đủ, rõ ràng các căn cứ xác lập quyền sở hữu tạo ra một mặt bằng pháp lý cho mọi chủ thể thực hiện quyền sở hữu của mình, ở đây không có ngoại lệ cũng như ưu tiên cho bất kỳ chủ sở hữu nào. Nó tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng vào chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước của các chủ sở hữu khi tham gia vào quan hệ sở hữu. Quyền sở hữu được xác lập từ những căn cứ do pháp luật quy định sẽ được coi là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Khi ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật thì việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu góp phần giảm bớt các tranh chấp không đáng có về quyền sở hữu trong đời sống xã hội. Thứ tư: Đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, căn cứ xác lập quyền sở hữu là cơ sở pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, khuyến khích người dân tham gia vào quan hệ dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương 2 NHỮNG TRƯỜNG HỢP XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN 2.1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Lao động là hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần”2. Phần lớn của cải của cá nhân có được đều thông qua hoạt động lao động, sản xuất. Xác lập quyền sở hữu của cá nhân thông qua hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh có thể được coi là căn cứ phổ biến nhất. Điều 233 Bộ luật dân sự quy định: "Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có tài sản đó”. Theo quy định của luật, chủ thể được xác lập quyền sở hữu là người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Người lao động ở đây có thể là người lao động phổ thông hay lao động trí óc, họ có thể là công nhân, thợ thủ công, giáo viên hay bác sỹ... tất cả những ai tham gia vào hoạt động lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra của cải vật chất đều có quyền xác lập quyền sở hữu đối với của cải vật chất đó. Người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh phải là hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp mới có quyền xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do mình tạo ra. Đối tượng để xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong căn cứ này là tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng... 2 Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Thời điểm xác lập quyền sở hữu của cá nhân theo căn cứ này phụ thuộc vào đặc điểm pháp lý của từng loại tài sản. Thời điểm xác lập quyền sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định từ khi nào cá nhân trở thành sở hữu chủ của của tài sản, thời điểm nào họ có đủ quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Từ đó có các phương thức bảo vệ quyền sở hữu của mình. Đối với những tài sản là tư liệu tiêu dùng, những tài sản có được do quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày như khoản tiền lương, thưởng của người lao động làm công ăn lương, hay là sản phẩm nông nghiệp như lúa, ngô, khoai sắn có được do lao động sản xuất của người nông dân, khoản tiền lãi từ tiền gửi tiết kiệm... thì thời điểm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân là kể từ thời điểm họ có được những tài sản đó. Đối với những tài sản có được do hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh nhưng phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm xác lập quyền sở hữu của cá nhân là thời điểm đăng ký quyền sở hữu đó. Ví dụ như: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thực hiện việc đăng ký các đối tượng đó theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ” (Điều 752 Bộ luật dân sự). “Quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản là quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định” (Điều 739 Bộ luật dân sự). Trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo không phải trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ hoặc hợp đồng giao việc thì quyền tài sản thuộc về tác giả bao gồm: quyền sao chép tác phẩm; quyền cho phép tạo tác phẩm phái sinh; quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc và bản sao tác phẩm; quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng và quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao chương trình máy tính. Trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ hoặc hợp đồng giao việc thì quyền tài sản thuộc về cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này làm phát sinh quyền sở hữu của tác giả đối với khoản tiền là thù lao, nhuận bút do chủ sở hữu quyền tài sản chi trả. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu đối với khoản tiền này có thể trước hoặc sau khi phát sinh quyền tác giả, tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên. Trong một số trường hợp thời điểm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân đối với khoản tiền có được do hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ là thời điểm cá nhân thực hiện xong công việc của mình. Ví dụ trong trường hợp thực hiện hợp đồng gia công, bên đặt gia công phải trả đủ tiền công vào thời điểm nhận sản phẩm, nếu không có thỏa thuận khác (Điều 557 Bộ luật dân sự). Hay trong trường hợp hứa thưởng, thi có giải. Cá nhân sẽ được sở hữu một khoản tiền thưởng nếu họ hoàn thành một công việc được hứa thưởng hoặc đoạt giải trong một cuộc thi có giải. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu là tại thời điểm tiền thưởng được trao cho cá nhân đó. Mỗi cá nhân dù gián tiếp hay trực tiếp đều phải tham gia vào quá trình lao động, sản xuất. Điều 55 Hiến pháp 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân”. Đây chính là căn cứ đầu tiên hay là căn cứ nguyên sinh làm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân, là động lực thúc đẩy mọi cá nhân tham gia vào hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải vật chất cho chính bản thân mình và cho xã hội. Nó chính là tiền đề thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia phát triển, dân có giàu thì nước mới mạnh. 2.2. Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận Một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu rất phổ biến trong xã hội là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu tài sản là hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản. Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận. Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác”. Tự do cam kết, thỏa thuận là một trong những nguyên tắc của pháp luật dân sự Việt Nam. Điều 4 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân phải tham gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là tất yếu đối với mọi đời sống xã hội3. Quan hệ trao đổi vật chất đó chỉ được hình thành khi các bên tự nguyện thỏa thuận, thống nhất ý chí với nhau. Đây chính là tiền đề đầu tiên để hình thành nên hợp đồng dân sự. Theo điều 388 Bộ luật dân sự: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo Từ điển tiếng Việt thì thoả thuận là sự nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc. Đối tượng của việc xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận là tài sản thông qua các hợp đồng. Khi tài sản được chuyển giao thông qua các hợp đồng dân sự thì nó làm chấm dứt quyền sở hữu đối tài sản của người này và làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của người kia. Theo quy định của pháp luật hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, giao kết hợp đồng phải tuân theo nguyên tắc “tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” (Điều 389 Bộ luật dân sự). 3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội Đối tượng, chủ thể, thời điểm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân trong trường hợp xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận có sự khác nhau phụ thuộc vào từng loại hợp đồng. 2.2.1. Hợp đồng mua bán tài sản “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” (Điều 428 Bộ luật dân sự). Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận của các bên. Chủ thể của hợp đồng mua bán là bên bán và bên mua. Bên bán là người có tài sản đem bán. Bên bán là chủ sở hữu tài sản hoặc là người được ủy quyền bán hoặc là người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Bên mua là bên có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán đúng như giá cả đã thỏa thuận đồng thời có nghĩa vụ nhận tài sản do bên bán chuyển giao.Thông qua hợp đồng mua bán làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với vật đem bán và làm phát sinh quyền sở hữu của người mua đối với vật đó. Đối tượng để xác lập quyền sở hữu thông qua hợp đồng mua bán tài sản là tài sản được phép giao dịch. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là vật thì vật phải được xác định rõ, nếu là vật hình thành trong tương lai thì người bán phải có căn cứ chứng minh là vật đó đang được hình thành. Trong trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền tài sản thì phải có giấy tờ hoặc các bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở hữu bên bán. Thời điểm xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong hợp đồng mua bán có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản mua bán. Về nguyên tắc, thời điểm xác lập quyền sở hữu của người mua đối với tài sản mua bán là thời điểm tài sản được chuyển giao nếu pháp luật không quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Ví dụ: A mua của B một chiếc xe đạp, A trở thành sở hữu chủ của chiếc xe đạp đó ngày sau khi A trả tiền cho B và B chuyển giao chiếc xe đạp đó cho A. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Trong trường hợp mua bán quyền tài sản (quyền đòi nợ, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp) thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu đối với quyền về tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định. Theo quy định tại Điều 688, Điều 692 Bộ luật dân sự; Điều 46 Luật Đất đai việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Theo các quy định của Luật nhà ở đối với hợp đồng về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân, thì quyền sở hữu nhà ở được xác lập cho bên mua kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng. Theo quy định trên, nhận thấy trường hợp mua bán quyền sử dụng đất không có tài sản gắn liền với đất, và mua bán nhà ở trong trường hợp chủ sở hữu nhà ở không đồng thời là chủ sử dụng đất thì quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp đất và nhà là một khối tài sản thống nhất nhưng theo quy định của pháp luật thời điểm chuyển quyền giữa đất và nhà trên đất theo quy lại khác nhau. Quy định như vậy là không thống nhất trong hệ thống pháp luật, gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Do sự phong phú, đa dạng của các giao dịch dân sự, hợp đồng mua bán tài sản bao gồm nhiều hình thức mua bán khác nhau. Do vậy, thời điểm xác lập quyền sở hữu của cá nhân thông qua các hợp đồng mua bán sẽ khác nhau. Đối với hình thức mua bán có chuộc lại Thời điểm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân cũng tương tự hình thức mua bán thông thường. Tuy nhiên, các quy định tại Điều 462 Bộ luật dân sự về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan