Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội...

Tài liệu Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội

.PDF
96
262
65

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1 Mục lục 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 7 Mở đầu 8 Chƣơng 1: khái quát về thi hành án dân sự và cƣỡng chế thi hành án dân sự 16 1.1 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thi hành án dân sự 16 1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự 16 1.1.2 Đặc điểm thi hành án dân sự 22 1.1.2.1 Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính 22 - tư pháp 1.1.2.2 Đối tượng đặc trưng của thi hành án dân sự là các nghĩa vụ 25 tài sản 1.1.3 Các nguyên tắc cơ bản của thi hành án dân sự. 26 1.1.3.1 Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết đinh của 26 toà án 1.1.3.2 Nguyên tắc thi hành án dân sự là một phương diện hoạt 27 động nhà nước 1.1.3.3 Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, tập thể và tôn 28 trọng quyền định đoạt của công dân 1.1.3.4 Nguyên tắc kết hợp giữa sự tự nguyện và cưỡng chế thi hành án 2 29 1.1.4 ý nghĩa của thi hành án dân sự 1.2 Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của cưỡng 30 chế thi hành án dân sự 31 1.2.1 Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự 31 1.2.2 Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự 34 1.2.2.1 Cưỡng chế thi hành án là quyền năng đặc biệt của nhà nước 34 1.2.2.2 Cưỡng chế là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân 34 sự 1.2.2.3 Đối tượng cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc 35 hành vi của người phải thi hành án 1.2.2.4 Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế 35 1.2.2.5 Hiệu lực của quyết định cưỡng chế 36 1.3 Các nguyên tắc và ý nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi 36 hành án dân sự 1.3.1 Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng 36 theo các nguyên tắc sau 1.3.2 ý nghĩa cũa cưỡng chế thi hành án dân sự 1.4 Khát quát về sự hình thành và phát triển của chế định cưỡng chế thi hành án dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 3 38 38 1.4.1 Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 39 1.4.2 Giai đoạn từ 1945 đến 1989 40 l.4.3 Từ 1989 đến nay 44 1.5 Tìm hiểu chế định cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp luật một số nước 44 1.5.1 Luật thi hành án của Cộng hòa Pháp 45 1.5.2 Thi hành án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự CHLB Đức 48 1.5.3 Luật thi hành án dân sự Nhật bản 50 Chƣơng 2: các biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành 53 2.1 Khái quát các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật Việt 53 Nam hiện hành 2.2 Những quy định cơ bản về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong Pháp lệnh thi hành án dân sự hiện 54 hành 2.2.1 2.2.1 Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá 54 của người phải thi hành án (Điều 39) 2.2.2 Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án (Điều 40) 59 2.2.3 Kê biên tài sản (Điều 41) 60 2.2.4 Cưỡng chế giao đồ vật (Điều 53) 61 2.2.5 Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao nhà, chuyên quyền sử 63 4 dụng đất (Điều 54) 2.3 Một số nguyên nhân dẫn đến áp dụng các biện pháp cưỡng 67 chế thi hành án dân sự 2.3.1 Do ý thức pháp luật của công dân chưa cao 67 2.3.2 Về khía cạnh tâm lý 68 Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội và một số kiến nghị 70 3.1 Một số vấn đề chung về thi hành án trong quân đội 70 3.1.1 Khái niệm, nhiệm vụ thi hành án trong quân đội 70 3.1.2 Đặc điểm công tác thi hành án trong quân đội 71 3.1.3 Khái quát hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong 73 quân đội 3.1.3.1 Đặc điểm (đặc thù) tình hình thi hành án dân sự trong quân 73 đội. 3.1.3.2 Khái quát hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong 75 quân đội 3.2 Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân 78 sự trong quân đội 3.2.1 Một số nét về tình hình thi hành án dân sự ba năm 78 2003, 2004 và 2005 3.2.2 Những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong quân đội. 5 79 3.3 Kiến nghị một số giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu 83 quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự Kết luận 88 Phụ lục 1 90 Phụ lục 2 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ Luật dân sự BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự Nxb Nhà xuất bản PLTHADS Pháp lệnh thi hành án dân sự PLTHADS 2004 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 THADS Thi hành án dân sự TAQSKV Toà án quân sự khu vực TAND Toà án nhân dân TAQSQK Toà án quân sự quân khu THADS Thi hành án dân sự TTLT Thông tư liên tịch XHCN Xã hội chủ nghĩa VKSQSQK Viện kiểm sát quân sự quân khu 7 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài: Theo đánh giá của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lước Cải cách tư pháp đến năm 2020 thì: “trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ còn sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Cùng với những mặt còn hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân 8 và xã hội với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”. Chính vì vậy, để mọi phán quyết của Toà án nhân danh nhà nước được thực hiện trên thực tế (trong trường hợp các đương sự tự nguyện thi hành) không có cách nào khác ngoài việc cơ quan nhà nước phải tổ chức thi hành án Điều 136 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Thi hành án là hoạt động đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Hoạt động thi hành án hiệu quả thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đặc biệt đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có các cơ quan thi hành án dân sự. Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, trong đó có pháp luật về thi hành án. Các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và các biện pháp cưỡng chế thi hành án là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý cũng như tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án, Chấp hành viên. Sự nghiệp đổi mới đang đặt ra cho đất nước ta một yêu cầu cấp bách là phải đẩy mạnh hoạt động tư pháp. Thi hành án là một trong những nội dung của hoạt động tư pháp. Do những điều kiện lịch sử nhất định, công tác thi hành án chưa được quản lý tập trung thống nhất, có sự phân tán, hiệu quả hoạt động chưa cao. Đứng trước tình hình đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành 9 án dân sự là một việc làm rất cần thiết. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 3 khoá VIII: “Kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành án đầy đủ nhanh chóng các bản án, quyết định của Toà án, của tổ chức trọng tài...”; Đồng thời, theo định hướng của Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 là thống nhất việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án về một đầu mối - chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất, để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp. Ngày 14 tháng 01 năm 2004, Nhà nước ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004 và hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ liên quan đến thi hành án dân sự như: Nghị định của Chính phủ số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án; Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự; Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản; Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ công chức làm công tác thi hành án dân sự. Đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng để cơ quan thi hành án dân sự thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm lợi ích của nhà nước, cơ quan, tổ chức, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, nhằm bảo đảm việc tăng cường pháp chế XHCN trong công tác thi hành án, tôn trọng quyền định đoạt của đương sự và tạo khả năng cao nhất cho các bên lựa chọn phương thức thực hiện quyền, nghĩa vụ kể cả trong trường hợp phải cưỡng chế. Tuy vậy, việc ban hàn PLTHADS và các văn bản pháp luật có liên quan mới cũng chỉ là bước đầu trong quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án. Hiện nay, nhà nước đang cho xúc tiến xây dựng Bộ luật thi hành án. Đặc thù của công tác thi hành án dân sự trong quân đội chủ yếu là tổ chức thi hành án phần tài sản trong các bản án, quyết định hình sự của các Toà án quân 10 sự, đa số người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù tại các trại cải tạo, không có tài sản để thi hành án hoặc người phải thi hành án có thu nhập thấp cơ quan thi hành án phải để cho họ thi hành dần, mặt khác số lượng Chấp hành viên ít, quản lý địa bàn hoạt động rất rộng cho nên kết quả thi hành án dân sự trong Bộ Quốc phòng qua hơn 13 năm thu được không lớn nhưng đó là cả một quá trình phấn đấu liên tục của toàn thể đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ thi hành án, là sự đóng góp không nhỏ công sức của toàn thể cán bộ, nhân viên ngành trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Thủ trưởng Bộ Quốc Phòng, Tư lệnh Quân khu, Quân chủng Hải Quân, sự quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ của Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng cho nên đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ ngành thi hành án đã nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, mục đích, tầm quan trọng, cũng như trách nhiệm của mình đối với công tác thi hành án dân sự. Nhìn chung đội ngũ cán bộ thật sự yêu ngành, yêu nghề, tâm huyết với công việc được giao, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp theo luật định để tổ chức thi hành vụ việc cụ thể đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, để nâng cao nhận thức và góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật thi hành án dân sự, việc nghiên cứu đề tài: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội" mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là một đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án dân sự trong quân đội nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu: Thi hành án là một vấn đề quan trọng, không thể thiếu của một nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, đã được một số nhà luật học, cơ quan, tổ chức quan tâm nghiên cứu. Trong đó, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu và bảo vệ cấp nhà nước năm 2005 đề tài: " Luận cứ khoa học và thực tiễn việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án của Việt Nam trong giai đoạn mới ; mã số: MSDT. 2000 - 58 - 11 198"; Một số học viên cao học cũng đã nghiên cứu đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học này như: - Nguyễn Công Long Đại học luật Hà Nội: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện". - Lê Anh Tuấn Đại học luật Hà Nội: "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam"... Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về thi hành án và các biện pháp cưỡng chế thi hành án, song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về vấn đề này trong quân đội. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn: 3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự trong quân đội nói riêng nhằm giữ nghiêm kỷ luật quân đội, kỷ cương phép nước và bảo vệ pháp chế XHCN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Để đạt được mục đích, tác giả luận văn đặt ra và thực hiện những nhiệm vụ như sau: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc của thi hành án dân sự. - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của cưỡng chế thi hành án dân sự. - Khái quát về sự hình thành và phát triển của chế định cưỡng chế thi hành án dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. 12 - Tìm hiểu chế định cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp luật một số nước. - Phân tích một số nội dung quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. - Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội và một số kiến nghị. 3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trong quân đội. 3.4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Nghiên cứu một cách tổng quát có hệ thống chế định cưỡng chế thi hành án dân sự hiện hành. Trong đó đi sâu vào nội dung áp dụng chế định cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội và thông qua việc nghiên cứu này để kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường công tác thi hành án dân sự trong quân đội. - Việc tổng kết, đánh giá quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở khảo sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự trong quân đội trong thời gian 3 năm (2003, 2004 và 2005). 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài: Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nhĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, logíc, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học pháp luật, điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn… đã được sử dụng để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả luận văn đặt ra. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn : Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có 13 hệ thống về áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án trong quân đội. có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn : - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội nói riêng. - Phân tích đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội; phân tích làm rõ nguyên nhân của những thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện cơ cấu, tổ chức cũng như những quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khi áp dụng trong quân đội. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn : Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thông về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án. Đông thời, hoàn thiện một bước cơ cấu tổ chức thi hành án trong quân đội. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về thi hành án dân sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về cưỡng chế thi hành án có tính nhạy cảm và phức tạp như hiện nay. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và cho cán bộ thi hành án chấp hành viên đang công tác trong ngành thi hành án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn : 14 Luận văn bao gồm: phần mở đầu; 3 chương; kết luận; phần phụ lục; và danh mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của luận văn được bố cục như sau: - Mở đầu - Chương 1: khái quát về thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự. - Chương 2: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành. - Chương 3: Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội và một số kiến nghị - Kết luận - Phụ lục - Danh mục tài liệu tham khảo. 15 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thi hành án dân sự 1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự Việc xét xử vụ án hình sự, dân sự tại Tòa án là giai đoạn quan trọng nhất của tố tụng hình sự, dân sự, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp. Tuy nhiên, việc Toà án nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng là bản án, quyết định, nhưng đó không phải là sản phẩm riêng của cơ quan xét xử, mà là thành quả của cả quá trình tố tụng, đó là sự kết tinh của quá trình lao động, sáng tạo, mang tính khoa học cao, công phu, chính xác, của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có liên quan. Mặc dù vậy, mọi phán quyết của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà không được tổ chức thi hành thì hiệu lực của bản án, quyết định đó không được thực thi trên tế. Chính vì vậy, thi hành án là một vấn đề luôn gắn liền với xét xử, hoạt động xét xử sẽ không có ý nghĩa khi chúng ta không chú trọng đến công tác thi hành án và không tổ chức thi hành. 16 Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945) đến nay, quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước trong đó có hệ thống tư pháp và vấn đề bảo đảm tính hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án luôn được nhà nước ta đề cao. Với tư tưởng nhất quán: “một bản án khi đã tuyên mà không được thi hành chu đáo, không những không làm tăng uy tín của Toà án mà còn làm giảm đi là khác, Thông tư số 24/BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp”. Với tầm quan trọng của thi hành án như vậy nên ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, cùng với việc thiết lập bộ máy nhà nước kiểu mới, nhiệm vụ thi hành án được Đảng, nhà nước ta đặt lên hàng đầu. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 quy định về việc ấn định thể thức thi hành án. Những năm sau đó, trong hoàn cảnh gian lao, khó khăn của cuộc kháng chiến kiến quốc, công tác thi hành án vẫn được chú trọng, hoàn thiện không những ngày càng cụ thể về trình tự, thủ tục mà ngay cả bộ máy, con người làm trong công tác này cũng được cũng cố và tăng cường. Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, nhằm thống nhất việc thi hành án hình, án hộ và bảo đảm sự phối kết hợp giữa hai cơ quan: tư pháp và hành chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 quy định về các cơ quan có nhiệm vụ chấp hành, các cơ quan có bổn phận giúp sức thi hành án và các cách thức thi hành án đối với án hình. Thông tư này còn quy định về nguyên tắc, thể thức chấp hành, trách nhiệm của cơ quan, cá nhân giúp việc và cách thức thi hành, các biện pháp cưỡng bức nhằm bảo đảm thi hành đối với án hộ. Tại Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ Cộng hoà về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng, thẩm quyền về việc chấp hành án cũng như biện pháp bảo đảm thi hành án đã được quy định cụ thể. Khi Hiến pháp 1980, 1992 được ban hành, vấn đề bảo đảm tính hiệu lực của bản án, quyết định của toà án đã được ghi nhận và trở thành một nguyên tắc Hiến định, Điều 137 Hiến pháp 1980, Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định rõ: các 17 bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trên cơ sở đó, pháp luật về thi hành án cũng ngày càng được hoàn thiện, đánh dấu bằng các mốc son quan trọng là việc ban hành Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1986; Pháp lệnh thi hành án dân sự năm l989; Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993; Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 . Hoạt đồng thi hành án ở nước ta hiện nay có thể nói đang ở trong tình trạng rất phân tán cả về mặt tổ chức thực hiện và về quản lý nhà nước. Trách nhiệm quản lý được phân công, phân cấp cho nhiều cơ quan khác nhau: công tác thi hành án phạt tù do Bộ Công an quản lý và tổ chức thi hành, tuy nhiên việc ra quyết định thi hành các hình phạt, việc xét miễn, giảm thi hành hình phạt, việc xoá án... lại thuộc thẩm quyền của Toà án. Công tác thi hành dân sự thì do Bộ Tư pháp quản lý và tổ chức thi hành. Trong khi đó, hình phạt cải tạo không giam giữ, quản chế hoặc trường hợp cho người bị kết án hưởng án treo thì lại không được giao cho cơ quan nào quản lý cụ thể và thống nhất. Sự phân tán này làm cho quá trình tổ chức thi hành án của các cơ quan chức năng thiếu đồng bộ, không có sự phối kết hợp, đây là một trong các nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của công tác thi hành án. Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, có thể chia hoạt động thi hành án ở nước ta thành hai mảng lớn đó là thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự là một loại thi hành án, nên cũng có thể hiểu thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng tư pháp để thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. 18 Hiện nay, có hai loại quan điểm khác nhau về khái niệm “dân sự” trong thi hành án và có cách hiểu khác nhau về khái niệm thi hành án dân sự. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự chỉ là việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án về giải quyết vụ án dân sự theo trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Quan điểm này căn cứ trên cơ sở quan niệm về “Dân sự” theo nghĩa hẹp, đó là Điều 1 của Bộ Luật dân sự năm 1995, theo đó, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ nhân thân và tài sản trong các giao lưu dân sự. Vì vậy khái niệm “dân sự” trong thi hành án bao gồm những vụ việc liên quan đến quan hệ về tài sản và quan hệ về nhân thân phi tài sản như: Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân gia đình và một số loại án khác có tính chất dân sự. Các loại bản án, quyết định khác về lao động, hành chính, quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, quyết định giải quyết tranh chấp kinh tế hay thương mại của Trọng tài có thủ tục thi hành riêng, tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định loại tố tụng thi hành bản án, quyết định cho phù hợp. Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng, tương thích với cách hiểu khái niệm “dân sự” theo nghĩa rộng, đó là những quan hệ không phải là hình phạt về nhân thân đối với cá nhân. ý kiến này so sánh với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động) được thực hiện theo một thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại hay lao động. Trên cơ sở của hai quan điểm trên theo chúng tôi đồng ý với loại quan điểm thứ hai là phải hiểu đúng từ “dân sự” trong thi hành án theo nghĩa rộng, không chỉ là bản án, quyết định dân sự của Toà án, mà còn là bản án, quyết định khác của Toà án và quyết định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền mà pháp luật quy định do cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Các bản án, quyết định dân sự do cơ quan 19 thi hành án dân sự thi hành không chỉ là bản án, quyết định của Toà án về vụ án dân sự, kinh tế, lao động, phá sản doanh nghiệp, bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, quyết định của Trong tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, mà còn thi hành các quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự và quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính. Ngoài ra, cơ quan thi hành án dân sự còn được giao thi hành quyết định của tổ chức không phải là toà án, như quyết định của trọng tài. Như vậy, qua các quan điểm nêu trên ta có thể rút ra được khái niệm thi hành án dân sự: Thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, quyết định về tài sản trong bản án quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật. Từ cơ sở lý luận chúng ta xem xét quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì “Bản án, quyết định dân sự nói trong Pháp lệnh này bao gồm: Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản; quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam; bản án, quyết định khác do pháp luật quy định”. Do cơ quan thi hành án dân sự chịu trách nhiệm thi hành. 20 Về phạm vi áp dụng, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự ngày càng mở rộng. Nhiều quan hệ pháp luật khác nhau được các cơ quan tài phán (Trọng tài kinh tế, Toà án) giải quyết theo các trình tự tố tụng khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Từ năm 1993 đến nay, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật như: Bộ luật dân sự năm 1995; Luật phá sản doanh nghiệp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự ; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động; pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Các Pháp lệnh về thủ tục đã được nhà nước ta tập hợp hoá, pháp điển hoá và ban hành Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005; Bộ Luật dân sự năm 2005, có hiệu lực 01/01/2006.v.v. Theo quy định của các văn bản pháp luật này, thì trình tự thủ tục thi hành án dân sự được áp dụng thi hành đới với: - Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; - Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trong tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; - Quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự; - Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính; - Quyết định tuyên bố phá sản; - Quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam; 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan