Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bt nhóm dân sự module 1 tìm hiểu 02 vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả t...

Tài liệu Bt nhóm dân sự module 1 tìm hiểu 02 vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

.DOC
17
89
53

Mô tả:

Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 MỤC LỤC A.Mở đầu B.Nội dung I.Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo 1.Khái niệm giao dịch dân sự 2.Giao dịch dân sự vô hiệu 3.Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129 BLDS) II.Hai vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo 1.Vụ việc thứ nhất 2. Vụ việc thứ hai C.Kết luận DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 A. MỞ ĐẦU Bộ luật dân sự năm 2005 quy định các chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử của các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm đảm bảo sự ổn định và lành mạnh hóa các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, giao dịch dân sự chính là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc chuyển dịch tài sản và cung ứng dịch vụ; là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống pháp luật, có nhiều giao dịch dân sự được xác lập nhưng có thể sẽ bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu (về nguyên tắc chung giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập). Vì vây, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm 02 xin đi sâu vào nghiên cứu đề tài 07: “Tìm hiểu 02 vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo”. B. NỘI DUNG I. Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo 1. Khái niệm giao dịch dân sự Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì giao dịch đó phải đáp ứng được một số các điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 131 BLDS(1) thì một giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có hội tụ đồng thời bốn điều kiện sau: “1- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; 2- Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội; 3- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; 4- Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật”. 2. Giao dịch dân sự vô hiệu 2 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Một giao dịch hợp pháp phải tuân thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (trong một số trường hợp cụ thể phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức). Vì vậy, về nguyên tắc giao dịch không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì sẽ bị vô hiệu. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỉ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lí cho các chủ thể trong giao lưu dân sự. 3. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129 BLDS) Trường hợp vô hiệu do giả tạo có điểm đặc biệt là các bên trong giao dịch đó hoàn toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí). Có hai trường hợp giả tạo. Trường hợp thứ nhất là giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác. Khi đó giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực nếu như giao dịch bị che giấu đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ví dụ: Giao kết hợp đồng tặng cho tài sản nhằm che giấu hợp đồng gửi giữ. Trường hợp thứ hai là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ví dụ: Các bên thoả thuận giao kết hợp đồng tặng cho nhưng không làm phát sinh quyền của người được tặng cho (hợp đồng tưởng tượng) nhằm trốn tránh việc trả nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả tạo đó sẽ bị vô hiệu. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm B1 đã tìm hiểu về hai 02 vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. II. Hai vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo 1. Vụ việc thứ nhất: Vụ án đòi nhà đất do tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh giải quyết. a.Tóm tắt nội dung sự việc 3 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Vụ việc xảy ra trên địa bàn: xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. * Giới thiệu: + Nguyên đơn: - Ông Nguyễn Văn Đức , sinh năm 1929; - Bà Lê Thị Thanh , sinh năm 1930; + Bị đơn: - Nguyễn Thị Lượm, sinh năm 1917; - Bà Lượm ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, sinh năm 1954; + Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: - Ông Nguyễn Văn Công, sinh năm 1938; - Bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, sinh năm 1954; * Nội dung sự việc như sau: Theo nguyên đơn trình bày: Căn nhà trên có diện tích 118m2 đất tại số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của ông Đức, bà Hạnh được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 01-12-1997. Do có ý định đi Úc theo diện đoàn tụ gia đình, nên ngày 27-01-1997 ông Đức , bà Hạnh ủy quyền cho bà Lượm ( chị ruột của ông Đức) toàn quyền sử dụng căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn. Giấy ủy quyền có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã Xuân Thới Sơn. Khi mang Giấy ủy quyền đến Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn chứng thực, thì ông Lê Hồng Sơn là cán bộ tiếp nhận hồ sơ giải thích: nếu muốn đi xuất cảnh theo diện thăm thân nhân phải chứng minh không còn bất động sản ở Việt Nam và khuyên các bên chuyển thành hợp đồng tặng cho. Do vậy , ngày 16-01-1998 ông Đức, bà Hạnh lập hợp đồng tặng cho căn nhà trên cho bà Lượm có Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn chứng thực. Sau đó bà Lượm làm tờ khai lệ phí trước bạ, ngày 21-7-1999, bà Lượm đã nộp thuế trước bạ, ngày 04-08-1999 Phòng xây dựng của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn đã ghi vào Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của ông Đức, bà Hạnh, với nội dung: “Nhà đã lập hợp đồng tặng cho theo đúng hiện trạng, không thay đổi, diện tích xây dựng và diện tích sử dụng; tên người nhận : Nguyễn Thị Lượm”. Sau khi lập hợp đồng tặng cho vợ chồng ông Đức , bà 4 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Hạnh vẫn ở lại tầng lầu (tầng 2), còn tầng trệt nhà 47/5 và phần sân giao cho bà Lượm. khi giao tầng trệt và sân, ông Nguyễn Văn Công ( con rể bà Lượm) cải tạo, sửa chữa và xây dựng thêm để mở trường mầm non tư thục. Do ông Đức bà Hạnh không đi nước ngoài nữa nên yêu cầu bà Lượm trả lại nhà, được bà Lượm đồng ý. Ngày 25-11-2011, bà Lượm ký Giấy đồng ý trả lại nhà cho ông Đức, bà Hạnh hoàn lại 23.000.000 chi phí sang tên và chi phí khác cho ông Công. Thực hiện cam kết này, ngày 24-4-2002 ông Đức, bà Hạnh đã giao 23.230.000 đồng cho ông Công, nhưng bà Lượm không trả nhà. Do vậy, ông Đức, bà Hạnh khởi kiện yêu cầu bà Lượm trả lại nhà và giấy tờ. Theo bị đơn trình bày: Ngày 16-01-1998 vợ chồng ông Đức, bà Hạnh lập hợp đồng tặng cho bà Lượm căn nhà số 47/5 ấp 2 ,xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, có chứng thực của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Sau đó ông Đức , bà Hạnh đã yêu cầu trả lại nhà, bà Lượm đã đồng ý trả lại nhà ( theo giấy xác nhận ngày 25-11-2001) có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Xuân Thới Sơn, nhưng do bà Hạnh chửi nhiều ,nên bà Lượm không đồng ý trả lại nhà cho vợ chồng ông Đức , bà Hạnh. Bà Nguyễn Thị Mỹ Linh trình bày: Bà Linh ( con gái bà Lượm) không đồng ý trả lại nhà, đất cho vợ chồng ông Đức, bà Hạnh và yêu cầu cho ông Đức, bà Hạnh bồi thường uy tín và thị phần của trường mẫu giáo, còn ông Nguyễn Văn Công (chồng của bà Linh) không có ý kiến gì về việc trả lại nhà, đất cho ông Đức , bà Hạnh. Ông Công có yêu cầu ông Đức , bà Hạnh trả số tiền nợ 139 triệu đồng, nhưng sau đó ông Công yêu cầu tách ra để giải quyết bằng vụ kiện khác. Ngoài ra, ông Công , bà Linh còn cho rằng trong trường hợp phải trả lại nhà, đất cho ông Đức ,bà Hạnh thì ông Công , bà Linh yêu cầu ông Đức, bà Hạnh trả tiền xây dựng vi phạm lộ giới , tiền đầu tư vào các lớp học là 106 cây vàng SJC. b. Cách giải quyết của tòa án Tại bản án dân sự sơ thẩm số 62/DSST ngày 10/1/2003 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử: + Buộc bà Nguyễn Thị Lượm , bà Nguyễn Thị Mỹ Linh phải trả lại toàn bộ nhà đất số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn cùng phần đất 189m2 theo giấy 5 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25-7-1999 của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn cho ông Đức,bà Hạnh. + Bà Hạnh và ông Đức trả lại tiền sửa chữa trong hai phần sửa chữa trên cho ông Công 118.965.614 đồng. + Bà Hạnh ,ông Đức được nhận lại bản chính giấy tờ nhà đất số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn ngay cùng với việc nhận nhà đất và trả lại cho ông Công 118.965.614 đồng, giấy tờ nhà đất số 47/5 Tòa án giao cho cơ quan thi hành án kèm theo bản án. + Bà Hạnh, ông Đức được đến các cơ quan chức năng sang tên lại nhà đất số 47/5 cho ông bà. + Bác bỏ yêu cầu của bà Linh đòi bà Hạnh, ông Đức trả tiền xây dựng vi phạm lộ giới, tiền đầu tư vật dụng vào các lớp học là 106 cây vàng SJC. + Bác bỏ yêu cầu của bà Linh đòi bồi thường uy tín thị và phần của trường mẫu giáo tại nhà đất của ông Đức bà Hạnh. + Bác bỏ yêu cầu bà Lượm đòi ông Đức bà Hạnh thực hiện hợp đồng ủy quyền ngày 21-01-1997 và hợp đồng giáo đất ngày 27-01-1999. + Buộc bà Lượm, bà Linh và ông Công phải trả lại ông Đức, bà Hạnh ½ chi phí lập bản vẽ, định giá đất bằng 6.169.000 đồng. +Tách việc đòi nợ ông Đức, bà Hạnh với ông Công để giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu. + Bà Linh có quyền tháo dỡ mang đi những vật dụng trang bị cho lớp học tại tầng trệt căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn khi trả nhà đất cho ông Đức, bà Hạnh. + Phần các lớp học đang xây dựng vi phạm lộ giới, bà Linh và ông Công phải tháo dỡ theo quyết định 109/2001 ngày 04-4-2001 của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. + Ghi nhận sự tự nguyện của bà Hạnh, ông Đức cho bà Lượm tiếp tục sử dụng lối đi từ nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn ra quốc lộ 22 qua phần đất của ông Đức , bà Hạnh. 6 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 + Các bên thi hành án dưới sự giám sát của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. + Kể từ ngày thi hành án có đơn yêu cầu, bên phải thi hành án chưa thi hành số tiền trên phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn của Ngân hàng nhà nước tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm ông Công, bà Linh kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 300/DSPT ngày 01/10/2003, tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: - Công nhận bà Nguyễn Thị Lượm được quyền sở hữu nhà và sở hữu đất số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh với diện tích ghi tại hợp đồng tặng cho ngày 16/1/2001 giữa ông Nguyễn Văn Đức, bà Lê Thị Hạnh với bà Nguyễn Thị Lượm cùng giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 13611/97 ngày 01/12/1997 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể: diện tích đất ở 118m2. Nhà ở tổng diện tích sử dụng 224m2; diện tích xây dựng 118m2. - Bác yêu cầu đòi lại toàn bộ nhà đất 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh đối với bà Nguyễn Thị Lượm. - Buộc ông Nguyễn Văn Công hoàn trả lại 23.230.000 đồng (hai mưoi ba triệu hai trăm ba chục ngàn đồng) là số tiền đã nhận của ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh cho ông Đức, bà Hạnh. - Buộc bà Nguyễn Thị Lượm, bà Nguyễn Mỹ Linh, ông Nguyễn Văn Công phải trả cho ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh chí phí lập bản vẽ, định giá nhà đất là 6.169.000 đồng (sáu triệu một trăm sáu mươi chín ngàn đồng). - Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Lượm, bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, ông Nguyễn Văn Công cho ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh ở tại nhà 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. 7 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 - Giữ nguyên diện tích hiện trạng phần ông Đức, bà Hạnh đang sử dụng tại nhà 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. - Tách riêng việc ông Nguyễn Văn Công đòi nợ ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh để giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu. - Tách yêu cầu của các đương sự tranh chấp đất phía trước và sau căn nhà 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn để giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu của một trong các bên đương sự. - Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ Linh đòi ông Nguyễn Văn Đức, bà Lê Thị Hạnh trả tiền xây dựng vi phạm lộ giới, tiền đầu tư vật dụng vào các lớp học là 106 cây vàng SJC. - Bác bỏ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ Linh đòi lại thị phần và uy tín của trường mẫu giáo tại nhà đất của ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh. Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu, bên phải thi hành án chưa thi hành số tiền phải thi hành thì phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. c. Nhận xét cách giải quyết của tòa án Bản án dân sự sơ thẩm số 62/DSST ngày 10/1/2003 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử và chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất của vợ chồng ông Đức là có căn cứ. Tuy nhiên, quyết định tại bản án dân sự phúc thẩm số 300/DSPT ngày 01/10/2003, tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh là chưa thỏa đáng. Vì: Thứ nhất, nguồn gốc căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh trên diện tích đất 118m 2 thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Văn Đức và bà Lê Thị Hạnh (ông Đức, bà Hạnh đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở ngày 01/02/1997). Như vậy, nếu có tranh chấp thì bên phía ông Đức sẽ được đảm bảo quyền lợi. Thứ hai, theo điều 122 BLDS 2005 thì giao dịch giữa ông Đức, bà Hạnh và bà Lượm đã đầy đủ điều kiện có hiệu lực. Nhưng xét theo tình tiết hồ sơ vụ án khi ông Đức, bà Hạnh có ý định đi Úc theo diện đoàn tụ gia đình, ngày 27/01/1997 vợ chồng 8 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 ông bà đã làm giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Lượm (chị ruột ông Đức) toàn quyền sử dụng căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn. Trên giấy ủy quyền này có bà Lượm, ông Đức, bà Hạnh, Chị Mai (con ông Đức, bà Hạnh) điểm chỉ và kí tên; có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Xuân Thái Sơn, nhưng ông Đức, bà Hạnh và bà Lượm mang giấy ủy quyền này tới Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn để chứng thực, thì ông Lê Hồng Sơn là cán bộ tiếp nhận hồ sơ đã giải thích là nếu muốn đi xuất cảnh theo diện thăm thân nhân phải chứng minh không còn bất động sản ở Việt Nam và khuyên các bên chuyển thành hợp đồng tặng cho. Do đó, ngày 16/1/1998, ông Đức, bà Hạnh lập hợp đồng tặng cho căn nhà nêu trên cho bà Lượm, có chứng thực của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Sau đó bà Lượm đã làm thủ tục sang tên trước bạ và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất. Đồng thời ông Đức, bà Hạnh đã giao tầng trệt và phần đất khuôn viên căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thái Sơn cho bà Lượm. Sau khi được giao tầng trệt và phần đất thuộn khuôn viên căn nhà, ông Nguyễn Văn Công (con rể bà Lượm) đã cải tạo, sửa chữa và xây dựng thêm để mở trường mầm non tư thục. Khi vợ chồng ông Đức không đi nước ngoài nữa và có yêu cầu lấy lại nhà thì ngày 25/11/2001 bà Lượm đã ký giấy xác nhận. Giấy này có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Xuân Thái Sơn. Thực hiện các điều kiện trong giấy xác nhận, ngày 29/04/2002, ông Đức, bà Hạnh đã giao 23.230.000 đồng cho ông Công. Như vậy, khi xét xử tòa án cấp phúc thẩm thành phố Hồ Chí Minh không xem xét toàn diện chính xác về ý chí đích thực của ông Đức, bà Hạnh là chỉ giao cho bà Lượm trông coi, sử dụng căn nhà 47/5, xã Xuân Thái Sơn để đi nước ngoài, còn hợp đồng tặng cho nhà lập ngày 16/01/1998 chỉ là hợp đồng giả tạo không phản ánh đúng ý chí chủ quan đích thực của ông Đức, bà Hạnh. Theo điều Điều 129, điều 136 BLDS 2005 hủy hợp đồng tặng cho ngày 16/1/1998 giữa ông Đức, bà Hạnh và bà Lượm vì vô hiệu do giả tạo. Do hợp đồng không phản ánh đúng ý chí của ông Đức, bà Hạnh nên theo điều 131 BLDS 2005 thì hợp đồng tặng cho ngày 16/1/1998 giữa vợ chồng ông Đức và bà Lượm cũng bị vô hiệu do bị nhầm lẫn. Thứ ba, những cơ sở vật chất, vật dụng trang thiết bị mà ông Công và bà Linh đã đầu tư cho lớp học là không phù hợp với ý chí của ông Đức, vấn đề xây dựng vi phạm 9 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 lộ giới là do ông Công thực hiện xây dựng không có bất kì liên quan nào tới vợ chồng ông Đức nên việc bồi thường lại khoản 106 lượng vàng SJC là không hợp lý. d. Cách giải quyết của nhóm Qua thảo luận, nhóm có đưa ra cách giải quyết như sau: Bác bỏ yêu cầu cầu của ông Công, bà Linh về việc thực hiện hợp đồng tặng cho ngày 16/01/1998 giữa vợ chồng ông Đức và bà Lượm, vì vô hiệu do giả tạo và buộc bà Lượm, bà Linh, ông Công trả lại toàn bộ căn nhà 47/5 ấp 2, xã Xuân Thái Sơn cho ông Đức, bà Hạnh và buộc ông Đức, bà Hạnh thanh toán lại cho bà Lượm, bà Linh, ông Công những khoản mà họ đa xây dựng, sửa chữa them căn nhà số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thái Sơn theo đúng quy đinh của pháp luật về xây dựng và sửa chữa nhà. Không chấp nhận việc ông Công, bà Linh yêu cầu ông Đức, bà Hạnh trả tiền xây dựng vi phạm lộ giới, tiền đầu tư vào các lớp học là 106 cây vàng SJC trong trường hợp trả lại nhà, đất cho ông Đức, bà Hạnh. Chấp nhận yêu cầu của ông Đức, bà Hạnh về việc đòi Bà Nguyễn Thị Lượm, bà Nguyễn Thị Mỹ Linh phải trả lại cho mình toàn bộ nhà đất số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn cùng phần đất 189m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25-7-1999 của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Mô. Bà Hạnh và ông Đức trả lại tiền sửa chữa trong hai phần sửa chữa trên cho ông Công 118.965.614 đồng. Bà Hạnh ,ông Đức được nhận lại bản chính giấy tờ nhà đất số 47/5 ấp 2, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn ngay cùng với việc nhận nhà đất và trả lại cho ông Công 118.965.614 đồng, giấy tờ nhà đất số 47/5 Tòa án giao cho cơ quan thi hành án kèm theo bản án. Bà Hạnh, ông Đức được đến các cơ quan chức năng sang tên lại nhà đất số 47/5 cho ông bà. Bác yêu cầu của bà Nguyễn thị Mỹ Linh đòi ông Đức và bà Hạnh bồi thường uy tín và thị phần của Trường mẫu giáo 2. Vụ việc thứ hai: Tranh chấp hợp đồng hàng hóa do tòa án nhân dân tỉnh An giang giải quyết a.Tóm tăt sự kiện *Giới thiệu: 10 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 + Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường, trụ sở tại 20 Thủ Khoa Nghĩa, thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang; do ông Lâm Chấn Cường có chức vụ giám đốc làm đại diện. + Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, trụ sở tại khu phố I Khánh Hội, thị trấn Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; do bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp làm đại diện. + Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Bùi Thị Ngọc Điệp, trú tại 50/3/15 đường Hòa Bình, phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. *Nội dung vụ việc: Ngày 10-8-2003 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường (gọi tắt là bên A) do ông Lâm Chấn Cường, chức vụ Giám đốc làm đại diện và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I (gọi tắt là bên B) do bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp làm đại diện đã cùng nhau kí kết hợp đồng mua bán số 01-MV/PN-TC. Ngày 15-11-2003 hai bên đã lập Bản đối chiếu giao nhận và thanh toán tiền hàng, đại diện bên giao hàng là bà Bùi Thị Ngọc Điệp; đại diện bên nhận là ông Huỳnh Văn Tài với nội dung là bên bán đã giao hàng cho bên mua: 633.000kg mè vàng, kèm theo 7 hóa đơn giá trị gia tăng (VAT) với tổng giá trị đã bao gồm thuế giá trị gia tăng: 5.384.190.000đ. Phần thanh toán bên mua đã ứng tiền cho bà Bùi Thị Ngọc Điệp 5.287.150.000đ; ông Lâm Chấn Cường trực tiếp nhận 289.306.000đ; tổng cộng: 5.576.456.000đ. Đối trừ bên mua chuyển thừa: 192.266.000đ. Bà Bùi Thị Ngọc Điệp đã trả lại cho bên mua số tiền 192.266.000đ. Bên bán đã giao hàng và xuất hóa đơn cho bên mua; bên mua đã thanh toán dầy đủ tiền hàng và tiền thuế cho bên bán. Hai bên không còn nợ gì nhau kể từ ngày kí biên bản. Ngày 29-6-2004 Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường có đơn khởi kiện đối với Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I tới Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đề nghị can thiệp giúp thu hồi hơn 5 tỷ đồng để có tiền trả nợ khách hàng và thuế Nhà nước. Ngày 9-8-2004 ông Lâm Chấn Cường có đơn gửi Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xin được miễn nộp tiền tạm ứng phí. Ngày 2-11-2004 ông Lâm Chấn 11 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Cường nộp 1.000.000đ tạm ứng phí, trên hóa đơn số 01402 không có đóng dấu của cơ quan thi hành án tỉnh An Giang. b. Cách giải quyết của tòa án Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 08/KTST ngày 18-5-2005 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định: - Công nhận hợp đồng kinh tế số 01/MV/PN-TC ngày 10/8/2003 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường với Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I là hợp đồng hợp pháp. - Buộc Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường số tiền: 5.094.884.000đ. - Buộc bà Bùi Thị Ngọc Điệp phải hoàn trả lại cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền 5.094.884.000đ. - Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, về quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 20-5-2005, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I có đơn kháng cáo toàn bộ bản án kinh tế sơ thẩm. Cùng trong ngày đó, bà Bùi Thị Ngọc Điệp có đơn kháng cáo với nội dung bà đại diện cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường đã nhận đủ tiền mè 5.194.190.000đ của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, bà là người trực tiếp thực hiện hợp đồng, còn ông Lâm Chấn Cường chỉ đứng danh nghĩa kí kết hợp đồng kinh tế, xuất hóa đơn giá trị gia tăng, hưởng tiền hoa hồng 52đ/kg và nhận tiền thuế 5%, tổng cộng 289.306.000đ. c. Nhận xét cách giải quyết của Tòa án Quyết định tại bản án kinh tế sơ thẩm số 08/KTST ngày 18-5-2005 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang là chưa thỏa đáng. Vì: Ông Lâm Chấn Cường chỉ xuất trình hợp đồng đã ký, các hoá đơn giá trị gia tăng kèm theo bản kê khai nộp thuế và các hoá đơn thu mua mè vàng, không có phiếu xuất kho và biên bản giao - nhận hàng hoá, các hoá đơn thuê mua mè vàng thì bị đơn đã khiếu nại là những hoá đơn giả, nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không xem xét đánh giá chứng cứ toàn diện và chính xác đã xác định là Công ty trách 12 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 nhiệm hữu hạn Thành Cường trực tiếp thực hiện hợp đồng và buộc Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường tiền hàng là chưa đủ căn cứ vững chắc. Mặt khác, khi thực hiện hợp đồng giao mè vàng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I thì bà Bùi Thị Ngọc Điệp thực hiện với tư cách là thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường hay với tư cách cá nhân cần phải xác minh làm rõ: Các biên bản giao - nhận hàng hoá giữa bà Điệp với đại diện của Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, các biên nhận của các chủ ghe thuyền đã vận chuyển hàng cho bà Điệp từ huyện Tân Châu, tỉnh An Giang tới bến Trần Văn Kiểu, thành phố Hồ Chí Minh để bà Điệp giao hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và các biên bản xác minh của Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang về các hoá đơn thu mua mè vàng của ông Lâm Chấn Cường do phía bị đơn xuất trình sau khi vụ án đã được xét xử phúc thẩm cũng cần được Toà án thẩm tra, xác minh, kết luận có đúng sự thật hay không? Như vậy, Tòa án kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã thiếu sót trong việc thu thập các chứng cứ để giải quyết vụ án . Ông Lâm Chấn Cường chỉ xuất trình hợp đồng đã ký, các hóa đơn giá trị gia tăng kèm theo bản kê khai nộp thuế và các hóa đơn thu mua mẻ vàng, không có phiếu xuất kho và biên bản giao – nhận hàng hóa, các hóa đơn thuế mua mè vàng thì bị khiếu nại là những hóa đơn giả, nhưng Tòa án không xem xét, đánh giá chứng cứ toàn diện và chính xác đã xác định là Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường trực tiếp thực hiện hợp đồng và buộc Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I phải thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường số tiền: 5.094.884.000đ, buộc bà Bùi Thị Ngọc Điệp phải hoàn trả lại cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I số tiền 5.094.884.000đ là chưa đủ căn cứ vững chắc. Đồng thời, khi thực hiện hợp đồng giao hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I thì bà Bùi Thị Điệp thực hiện với tư cách là thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường hay với tư cách là cá nhân còn chưa xác minh làm rõ. Tòa đã sai sót trong việc kết luận hợp đồng mua bán số 01-MV/PN_TC ngày 10/8/2003 giữa công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường và doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I về việc mua bán mè vàng là hợp đồng hợp pháp vì thực chất đây là hợp đồng giả tạo 13 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 nhằm che giấu một giao dịch khác của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường là bán tư cách pháp nhân để hưởng lợi hoa hồng với giá 52 đồng/kg mè vàng đối với số mè vàng được ghi trên hóa đơn. Cụ thể là công ty Thành Cường đã bán tư cách pháp nhân của mình cho cá nhân là bà Điệp để bà Điệp lấy danh nghĩa của công ty thực hiện tất cả các giao dịch. Điều này được thể hiện : • Tuy ông Lâm Chấn Cường, giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường ký hợp đồng và tự nhận là trực tiếp thực hiện hợp đồng nhưng ông Cường không chứng minh được là đã trực tiếp giao hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I. Trong khi đó, bà Bùi Thị Ngọc Điệp đã xuất trình đủ chứng cứ để xác định chính bà Điệp là người giao hàng cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I ( cụ thể là các biên bản giao nhận hàng hóa giữa bà Điệp và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I; xác nhận cuả những người bốc vác, vận chuyển cho bà Điệp từ Tân Châu tới bến cảng Trần Văn kiều; bản đối chiếu công nợ ngày 15/11/2003 giữa doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I với bà Điệp). • Tuy ông Cường ký kết hợp đồng mua bán với Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I nhưng ông Cường không chứng minh được đã giao tiền cho bà Điệp đi mua hàng để giao cho Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I. Trong khi đó, bà Điệp và doanh nghiệp Phương Nam I xác nhận là Doanh nghiệp này đã ứng trước tiền cho bà Điệp để thu mua hàng (theo lời khai tại tòa án và theo bản đối chiếu công nợ giữa bà Điệp và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I ngày 15/11/2003). Việc ứng tiền này được thực hiện trước cả khi hợp đồng mua bán số 01 ngày 10/8/2003 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường và doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I được kí kết. • Các hóa đơn thu mua mè vàng do ông Lâm Chấn Cường xuất trình cho tòa án để chứng minh là ông Cường thực hiện hợp đồng đều là những tài liệu giả tạo vì theo các văn bản có xác nhận của chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang thì các hóa đơn mà ông Cường xuất trình đều là những hóa đơn giả. Việc ông Cường lập các tờ khai thuế giá trị gia tăng không chứng minh được ông là người trực tiếp thực hiện hợp đồng vì ông bán hóa đơn giá trị gia tăng thì bắt buộc ông phải kê khai với Chi cục thuế. 14 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Điều này được chứng minh bằng lời khai của bà Điệp và doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I và bằng các giấy biên nhận tiền do ông Cường viết khi nhận tiền của bà Điệp. Như vậy, từ những phân tích ở trên cho thấy hợp đồng mua bán số 01MV/PN_TC ngày 10/8/2003 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I là hợp đồng giả tạo.Theo quy định tại Điều 129 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì đây là hợp đồng vô hiệu còn việc bán mè vàng thực chất của bà Bùi Thị Ngọc Điệp cho Doanh Nghiệp tư nhân Phương Nam I đã thực hiện xong và không có tranh chấp xảy ra. Như vậy, quyết định tại tại bản án kinh tế sơ thẩm số 08/KTST ngày 18-5-2005 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang là không thỏa đáng. d. Cách giải quyết vụ việc của nhóm Qua thảo luận, nhóm có đưa ra cách giải quyết như sau: Trước hết đối với việc nộp án phí. Theo quy định tại điểm e, khoản 2 Điều 15 và khoản 1 Điều 17 Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường phải nộp tạm ứng án phí để tuân thủ đúng thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi hoàn thành thủ tục tố tụng thì vụ án này mới được chấp nhận thụ lý vụ án. Yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường cung cấp chứng cứ là đã có khiếu nại về nghĩa vụ thanh toán đối với Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I để làm rõ Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường có đủ điều kiện để khởi kiện hay không. Nếu không có đủ chứng cứ chứng minh thì việc khởi kiện của công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường bị bác bỏ. Sau đó, tiến hành xác minh xem bà Bùi Thị Ngọc Điệp thực hiện với tư cách là thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Cường hay với tư cách cá nhân. Các biên bản giao –nhận giữa bà Điệp với đại diện Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I như thế nào, các biên bản nhận của các chủ ghe thuyền đã vẫn chuyển hàng cho bà Điệp thế nào và các biên bản xác minh của Chi cục thuế huyện Tân Châu tỉnh An Giang về các hóa đơn thu mua mè vàng của ông Lâm Chấn Cường do phía bị đơn trình. 15 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 Như vậy, khi làm hết các thủ tục, các chứng từ có dấu xác minh chính xác không thì chúng ta mới có kết luận được việc giải quyết vụ việc ra sao. Nếu thiếu các trình tự thủ tục như trên thì sẽ tạo ra lỗ hổng để bên bị kiện có thể trốn tránh trách nhiệm được. Do kiến thức, kĩ năng thực tế của chúng em còn hạn chế nên cách giải quyết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô góp ý để cho chúng em có một cách giải quyết đúng đắn, hợp pháp và hợp lí hơn. C. KẾT LUẬN Đáp ứng nhu cầu kinh doanh, mua bán của người dân, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có lĩnh vực dân sự. Trong đó, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợ pháp. Tuy nhiên, tình trạng không hiểu hay cố tình làm trái pháp luật của một số cá nhân, tổ chức đã dẫn đến những tình trạng như hai vụ việc trên. Như vậy, qua hai vụ việc mà nhóm đã lựa chọn và đưa ra, nhóm đã làm rõ hơn những vấn đề về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, cùng với sự phức tạp của nó, đồng thời nhóm cũng đưa ra ý kiến riêng về cách giải quyết của nhóm để chỉ ra những bất hợp lí của bản án. Trong quá trình làm bài, nhóm còn nhiều sai sót, mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để nhóm rút kinh nghiệm, hoàn thiện hơn cho những bài tập tiếp theo. 16 Bài tập nhóm dân sự 1 N07_TL3_Nhóm2 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chương VI, Bộ luật dân sự năm 2005 2. Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, trường dại học luật Hà Nội, nxb công an nhân dân 3. Bản án phúc thẩm số 300/DSPT ngày 1/10/2003 của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh 4. Bản án kinh tế sơ thẩm số 08/KTDS ngày 18/5/2005 của tòa án nhân dân tỉnh An Giang 5. http://hongha.vn/news/print/quyet-dinh-giam-doc-tham-so-23-2005-ds-gdt-ngay02-8-2005-ve-vu-an-doi-nha-dat--1817.html 6. http://www.luatviet.com/images/uploadserver/file_old/1224217701.pdf 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan