Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bình luận về hiện tượng chệch hướng thương mại trong các khu vực thương mại tự d...

Tài liệu Bình luận về hiện tượng chệch hướng thương mại trong các khu vực thương mại tự do và các biện pháp hạn chế hiện tượng này, đồng thời liên hệ với asean

.DOC
3
146
90

Mô tả:

Bài làm Khu vực thương mại tự do (FTA) hay còn gọi là Khu vực mậu dịch tự do, được hình thành khi hai hay nhiều nước thực hiện việc bãi bỏ tất cả thuế xuất nhập khẩu và tất cả các hạn ngạch đối với thương mại hàng hóa qua lại giữa các nước này nhưng vẫn giữ nguyên thuế quan đối với nước khác. Nói cách khác, những thành viên của FTA có thể duy trì những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối với các nước ngoài khu vực. Khi một nhóm nước hình thành khu vực mậu dịch tự do thì một vấn đề chính sách nảy sinh: nhập khẩu từ các nước khác có thể xâm nhập vào nước có thuế quan cao thông qua các nước có thuế quan thấp. Hiện tượng này được các nhà phân tích gọi là mậu dịch chệch hướng (trade deflection). Thông thường khi một quốc gia áp dụng cùng một mức thuế đối với tất cả các quốc gia khác, nó có xu hướng nhập khẩu hàng hóa từ nơi có giá rẻ nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, một khi các hiệp định thương mại song phương hay khu vực được kí kết, hàng hóa của các quốc gia tham gia hiệp định sẽ trở nên rẻ hơn so với hàng hóa của các quốc gia bên ngoài do có sự khác biệt về mức thuế. Chính điều này gây ra sự chuyển hướng trong thương mại, các quốc gia có xu hướng chuyển việc nhập khẩu hàng hóa từ các nước bạn hàng quen thuộc sang các nước nằm trong hiệp định. Sự chuyển hướng này gây ra thiệt hại cho những nước không là thành viên của một hiệp định hay khu vực thương mại tự do nào đó. Những nước này mặc dù sản xuất hiệu quả hơn, giá rẻ hơn nhưng vẫn bị mất thị trường do sự phân biệt về thuế. Một ví dụ cho việc chệch hướng thương mại là việc nhập khẩu thịt cừu của Anh. Trước khi gia nhập EU, hầu hết thịt cừu ở Anh được nhập khẩu từ New Zealand, nước sản xuất thịt cừu rẻ nhất thế giới. Nhưng sau khi gia nhập EU, thuế nhập khẩu chung đối với các nước ngoài khối đã làm cho việc nhập thịt cừu từ New Zealand trở nên đắt đỏ hơn so với việc nhập từ các nước thuộc EU. Từ đó Pháp lại trở thành nước cung cấp thịt cừu lớn nhất cho Anh. Thương mại đã bị chệch hướng khỏi New Zealand. Như vậy, khi tham gia EU Anh sẽ mất một phần nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu, điều này sẽ là bất lợi nếu nguồn thu từ thuế nhập khẩu chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước. Còn New Zealand bị mất một phần thị trường do có sự phân biệt về mức thuế giữa các nước trong EU với các nước ngoài khu vực, thặng dư thương mại và phúc lợi xã hội của New Zealand có thể bị giảm sút. Như vậy có thể thấy chệch hướng thương mại là một hiện tượng ảnh hưởng tiêu cực tới sự hợp tác và phát triển giữa các quốc gia. Nó là hiện tượng mà các quốc gia đều không mong muốn. Để điều chỉnh vấn đề này, các nước thành viên phải có khả năng phân biệt có hiệu quả giữa hàng hóa có nguồn gốc từ khu vực mậu dịch tự do và từ nước khác (thông qua việc kiểm tra chi tiết chứng từ chứng minh xuất xứ của hàng hóa nước nhập khẩu). Nhưng các nhà sản xuất từ ngoài khu vực vẫn có thể né tránh thuế quan cao bằng cách xây dựng nhà máy thực hiện công đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất ở nước thành viên có thuế quan thấp, sau đó xuất khẩu sang các nước thành viên khác có thuế quan cao hơn. Vấn đề này cũng xảy ra đối với PTC (Câu lạc bộ thương mại ưu đãi) khi các nước thành viên không có chung đối với thuế quan với bên ngoài. Nhưng do mậu dịch giữa các nước thành viên không hoàn toàn tự do, vì thuế quan chỉ được cắt giảm một phần – nên động lực kích thích né tránh hệ thống này không biểu hiện rõ như ở khu vực mậu dịch tự do. Do vậy khi tiến hành liên kết khu vực ở hai hình thức này, các quốc gia thành viên sẽ phải tìm những giải pháp hữu ích cho việc kiểm soát hàng hóa từ bên ngoài khu vực liên kết như cần có các quy định về xuất xứ hàng hóa. Quy tắc xuất xứ được hiểu là tập hợp những quy định của pháp luật và quyết định hành chính để xác định quốc gia được coi là đã sản xuất ra hàng hóa. Để giải quyết triệt để hiện tượng chệch hướng thương mại cần nâng cấp Khu vực thương mại tự do lên hình thức liên kết kinh tế Liên minh thuế quan (CU). Hai hay nhiều nước thành lập liên minh thuế quan khi các nước này bãi bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu đối với tất cả các hàng hóa mua bán với nhau và thêm vào đó, thống nhất quy tắc đánh thuế nhập khẩu chung đối với hàng hóa bên ngoài. Do có sự thống nhất về thuế quan đối với bên ngoài nên sẽ không nảy sinh hiện tượng mậu dịch chệch hướng như trong khu vực mậu dịch tự do. Một khu vực thương mại tự do được thiết lập đồng nghĩa với việc không chỉ hàng hóa mà các yếu tố sản xuất (vốn, lao động…) cũng được di chuyển một cách linh hoạt giữa các quốc gia trong khu vực. Về mặt lý thuyết, điều này góp phần tăng sự chuyên môn hóa trong khu vực, mỗi quốc gia sẽ tập trung sản xuất những hàng hóa mà mình có lợi thế so sánh với chi phí thấp nhất. Trao đổi thương mại nội khối được đẩy mạnh và phúc lợi của các quốc gia trong khu vực tăng lên. Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Đối với AFTA, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có quá ít tác động tích cực lên nền kinh tế, hơn nữa tham gia vào AFTA lại làm chệch hướng thương mại, nghĩa là thay những nhà xuất khẩu hiệu quả bằng những nhà xuất khẩu kém hiệu quả hơn trong khu vực hiệp định thương mại tự do. Do đó, trong quá trình đàm phán để ký kết các FTA, các nước trong khu vực cần có những nghiên cứu thận trọng đặc điểm của các nước tham gia ký kết và nội hàm của các FTA để làm cho quá trình tạo ra thương mại nhiều hơn là chệch hướng thương mại. Tính trung bình một nước trong ASEAN tham gia 4-5 hiệp định thương mại tự do (đa phương và song phương), nó có thể đem lại lợi ích kinh tế cho các quốc gia này nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ rạn nứt kết cấu của khối, tăng sự phụ thuộc của khối vào bên ngoài. Nói cách khác nó làm xuất hiện hiện tượng ly tâm trong ASEAN. Để xác định hàng hóa được hưởng ưu đãi thương mại trong AFTA đồng thời nhằm tránh hiện tượng chệch hướng thương mại quy tắc xuất xứ hàng hóa được xây dựng thành một trong các chế định pháp lí chính của AFTA. Khoản 1 Điều 22 ATIGA quy định: “Các sản phẩm mà thuế quan của quốc gia thành viên xuất khẩu đã đạt hoặc ở mức 20% hoặc thấp hơn, và đáp ứng được các quy định về quy tắc xuất xứ như được quy định tại Chương 3 (về quy tắc xuất xứ), sẽ tự động được hưởng cam kết thuế quan của quốc gia thành viên nhập khẩu”. Hiện nay, do nhiều sản phẩm hàng hóa được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn được thực hiện ở các quốc gia khác nhau nhờ tận dụng các lợi thế liên quan của quốc gia đó (như nhân công, nguyên vật liệu, công nghệ…) nên trong nhiều trường hợp, các quốc gia và các khu vực nhập khẩu cần xác định được xuất xứ chính thức của loại hàng hóa này. Cũng có thể hạn chế hiện tượng chệch hướng thương mại bằng việc các nước tham gia FTA giảm thuế quan đối với các nước ngoài khu vực vì mặc dù thuế nhập khẩu được coi là công cụ bảo hộ hữu hiệu, nhưng trong nền kinh tế phát triển đa dạng như hiện nay thì việc bảo hộ chỉ mang tính chất trực tiếp đối với các ngành sản xuất các mặt hàng đó nhưng lại là gánh nặng (làm tăng chi phí) đối với các ngành sử dụng các mặt hàng này để làm nguyên liệu đầu vào cho khâu sản xuất kinh doanh. Và nếu như mặt hàng đó được nhiều ngành trong nền kinh tế sử dụng thì việc bảo hộ có thể sẽ tích cực hơn đối với các ngành này, nhưng sẽ tạo nên sự bảo hộ “âm” (tăng chi phí) đối với một số ngành khác hoặc đối với toàn bộ nền kinh tế. Tài liệu tham khảo 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Trung tâm Luật châu Á – Thái Bình Dương, Tập bài giảng pháp luật cộng đồng ASEAN, Hà Nội, 2011; 2. ASEAN Secretariat, http://www.aseansec.org/; 3. Singapore’s FTA Official Website, http://www.iesingapore.gov.sg/; 4. Thông cáo báo chí ASEAN Secretary General http://www.aseansec.org/21496.htm; 5. Tạp chí phát triển kinh tế số 220 tháng 2 năm 2009.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan