Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biến văn thời đường và ảnh hưởng của biến văn trong văn học trung quốc ...

Tài liệu Biến văn thời đường và ảnh hưởng của biến văn trong văn học trung quốc

.PDF
227
3
63

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÍCH ĐỒNG VĂN (NGUYỄN THÀNH DANH) BIẾN VĂN THỜI ĐƯỜNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN VĂN TRONG VĂN HỌC TRUNG QUỐC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP.Hồ Chí Minh – 2004 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Cách đánh giá và hệ thống hóa các luận điểm đã nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Thích Đồng Văn (Nguyễn Thành Danh) 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................3 MỤC LỤC .................................................................................................................4 MỞ ĐẨU ...................................................................................................................7 1)Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................ 7 2)Mục đích nghiên cứu:................................................................................................. 8 3)Lịch sử vấn đề: ............................................................................................................ 9 3.1.Vị trí địa lý và lịch sử của Đôn Hoàng: ................................................................ 9 3.2.Việc phát hiện ra Tàng Kinh Động ..................................................................... 10 3.3.Quá trình nghiên cứu về Biến văn Đôn Hoàng................................................... 11 3.4.Biến văn lộ diện .................................................................................................. 13 3.5.Việc nghiên cứu Biến văn Đôn Hoàng ở Việt Nam ............................................ 21 4)Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu: .................................................. 21 5)Những đóng góp mới của luận án: .......................................................................... 23 6)Bố cục của luận án ................................................................................................... 24 CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY VI CỦA BIÊN VĂN ..............................................................................................................25 1.1.Bối cảnh ra đời của Biến văn ................................................................................ 25 1.1.1.Hoạt động giảng kinh trước thời Đường.......................................................... 25 1.1.2.Sự hình thành của "Xưởng đạo" ...................................................................... 28 1.1.3.Bối cảnh ra đời của Tục giảng và Biến văn ..................................................... 32 1.2.Quá trình phát triển của Biến văn......................................................................... 40 1.2.1.Sự hình thành của Tục giảng. .......................................................................... 41 1.2.2.Sự hưng thỉnh của Tục giảng ........................................................................... 44 1.2.3.Tục giảng và Biến văn ..................................................................................... 50 1.2.4.Chuyển biến - một hình thức mới của Biến văn .............................................. 55 4 1.3.Sự suy vi của Biến văn ........................................................................................... 62 1.3.1.Sự phản đối của giới Phật giáo ........................................................................ 62 1.3.2.Thái độ của giới văn sĩ ..................................................................................... 66 1.3.3.Thái độ của triều đình ...................................................................................... 68 1.3.4.Diễn biến của kỹ nghệ thuyết xướng ............................................................... 74 CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC TỔ CHỨC CỦA BIẾN VĂN ...............................77 2.1.Đặc trưng cơ bản về thể thức của Biến văn.......................................................... 77 2.1.1.Văn xuôi và văn vần xen kẽ (tản vận tương gián) ........................................... 77 2.1.2.Lời dẫn nhập từ văn xuôi vào văn vần (Nhập vận sáo ngữ) ............................ 78 2.1.3.Tranh vẽ ( Biến tướng)..................................................................................... 80 2.2.Tiến trình diễn biến thể thức của Biến văn .......................................................... 83 2.2.1.Sự giảm dần nhập vận sáo ngữ ........................................................................ 85 2.2.2.Sự thay đổi tỉ lệ văn xuôi và văn vần ............................................................... 88 2.3.Văn văn trong Biến văn ......................................................................................... 94 2.3.1.Vị trí của văn vần ............................................................................................. 94 2.3.2.Hình thức của văn vần trong Biến văn ............................................................ 97 2.4.Nghi thức biểu diễn .............................................................................................. 103 2.4.1.Cách thức tiến hành Tục giảng: ..................................................................... 104 2.4.2.Nghi thức biểu diễn Biến văn (1)................................................................... 108 2.4.3.Nghi thức biểu diễn Biến văn (2)................................................................... 111 2.5.4.Biểu diễn Biến văn kết hợp Biến tướng......................................................... 117 CHƯƠNG 3: NỘI HÀM CỦA BIẾN VĂN........................................................121 3.1.Sự kế thừa truyền thông văn học truyện sử và bước đột phá ............................ 121 3.1.1.Sự kế thừa truyền thống truyện sử ................................................................. 122 3.1.2.Bước đột phá của Biến văn trong truyền thông truyện sử ............................. 125 3.2.Nội dung chủ yếu của Biến Văn .......................................................................... 131 3.2.1.Tư tưởng Phật giáo trong Biến văn Phật giáo................................................ 131 5 3.2.2.Tính tam giáo hợp nhất trong Biến văn ......................................................... 136 3.3.Tính chất dân gian trong Biến văn thế tục. ........................................................ 141 3.3.1.Đặc trưng văn học truyền khẩu ...................................................................... 142 3.3.2.Những nhân tố tham gia chuyện kể ............................................................... 148 3.3.3.Tinh thần trung quân ái quốc ......................................................................... 155 3.3.4.Quan niệm anh hùng ...................................................................................... 156 3.3.5.Pháp thuật và thần biến .................................................................................. 161 3.3.6.Đạo hiếu ......................................................................................................... 165 CHƯƠNG 4: ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN VĂN.................................................168 4.1.Thực chất của Biến văn ....................................................................................... 168 4.1.1.Những lập luận khác nhau ............................................................................. 168 4.1.2.Biến văn - kết quả sự hội nhập văn hóa ......................................................... 171 4.2.Ảnh hưởng của Biến văn đối với văn hóa Trung Quốc ..................................... 178 4.2.1.Về sự phát triển của lịch sử giao lưu văn hóa:............................................... 179 4.2.2.Về sự phát triển của phương pháp dạy học: .................................................. 180 4.2.3.Về sự phát triển của ngôn ngữ học: ............................................................... 180 4.2.4.Về sự phát triển của xã hội học và lịch sử học: ............................................. 181 4.2.5.Về sự phát triển của tôn giáo ......................................................................... 184 4.3.Ảnh hưởng của Biến văn đối với văn học Trung Quốc ..................................... 184 4.3.1.Hình thức văn học mới .................................................................................. 185 4.3.2.Ảnh hưởng của Biến văn với nội dung văn học ............................................ 188 4.3.3.Ảnh hưởng của Biến văn với thể thức của văn học ....................................... 189 4.3.4.Ảnh hưởng từ Biến văn sang Bảo quyển và những thể loại khác.................. 195 KẾT LUẬN ...........................................................................................................201 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................210 A.TIẾNG VIỆT .......................................................................................................... 210 B. Tài liệu tiếng Trung Quốc ..................................................................................... 216 6 MỞ ĐẨU 1)Lý do chọn đề tài: Nhắc đến văn học Trung quốc, người ta thường nghĩ ngay đến Kinh Thi, Sở Từ, thơ đời Đường, thoại bản đời Tống, hý khúc đời Nguyên, tiểu thuyết chương hồi đời Minh Thanh.... Những tác phẩm văn học này thâm nhập sâu sắc ương mọi lãnh vực của đời sống, phản ảnh rõ nét tư tưởng của dân tộc Trung Hoa về vũ trụ và nhân sinh. Trong dòng chảy của nền văn học ấy, có sự đóng góp to lớn của dòng văn học ngoại lai theo tôn giáo du nhập vào. Nền văn học mà người viết muốn đề cập đến chính là nền văn học Phật giáo. Có một thời gian dài, Phật giáo ở Trung quốc bị xem là luồng tư tưởng ngoại lai; nhưng trên thực tế nó là một tư tưởng hữu ích, đem lại cho giới sáng tác một nguồn tư tưởng, một nghệ thuật sáng tác mới mẻ - phong phú và độc đáo. Nhờ những giá trị đó mà văn hóa Trung quốc được cả thế giới nhìn nhận như một cái nôi của văn hóa phương Đông. Các thể loại sáng tác của văn học Trung Quốc luôn có những đề tài, diện mạo đa dạng, mới mẻ hàm chứa những thực tiễn sống động. Cho đến nay, văn học vẫn là một bộ phận không thể thiếu được khi cần đánh giá toàn diện chiều dài phát triển của lịch sử văn hóa Trung Hoa. Thời gian gần đây, theo đà tiến của xã hội, văn hóa nghệ thuật đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Khoa nghiên cứu văn học đã có những bước tiến dài khi dùng hình thức tiếp cận các loại hình văn học để phân tích và tìm hiểu sự hòa nhập của chúng. Thực tế nghiên cứu cho thấy hướng tiếp cận mới mở ra nhiều khả năng trong việc đi sâu, phát hiện và lý giải những vấn đề thuộc về bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật mà mọi hiện tượng văn học đã và đang phát sinh - phát triển. Cách tiếp cận mới mẻ này sẽ giúp cho người nghiên cứu có điều kiện phát hiện các quy luật nội tại, các yếu tố chi phối quá trình hình thành và phát triển của các thể loại sáng tác, cũng như khẳng định những ưu thế nghệ thuật đã giúp cho văn học Trung quốc tồn tại lâu dài trong tiến trình phát triển của dân tộc Trung Hoa. 7 Từ xa xưa, Trung Quốc và Ấn Độ đã có sự giao lưu văn hóa rất rộng rãi, Người Trung Quốc tiếp thu văn hóa - văn học Ấn Độ, chuyển nó thành một phần trào lưu tư tưởng sáng tác mang màu sắc bản địa, là một thành tựu của sự tiếp biến trên phương diện giao lưu văn hóa. Thế nên, nghiên cứu Biến văn thời Đường và những ảnh hưởng của nó trong văn học Trung Quốc chính là để phát hiện sự giống nhau và khác nhau trong tư duy nghệ thuật - tư tưởng nội dung của các tác giả của hai dân tộc. Những vấn đề nêu trên là lý do chủ yếu khiến người viết mạnh dạn chọn đề tài này. 2)Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu, khám phá giá trị thẩm mỹ trong phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Biến văn thời Đường, người viết nhằm đến các mục tiêu chính sau : - Qua khảo sát, so sánh, phân tích nội dung và hình thức của Biến văn thời Đường ảnh hưởng trong một số tác phẩm tiêu biểu của các thể loại sáng tác văn học Trung Quốc, người viết chứng minh Biến văn thời Đường là một yếu tố đặc biệt, là mắt xích quan trọng không thể tách rời trong suốt quá trình phát triển của văn học Trung Quốc. Mục tiêu chính của luận án là tìm ra sự dung hòa về nội dung và hình thức của Biến văn khi được dùng làm nền tảng cho những sáng tác văn học nghệ thuật đời sau; đồng thời khẳng định giá trị của Biến văn thời Đường, một loai hình văn học vang bóng một thời, được phát hiện sau một thời gian dài phủ bụi, ngủ yên tại Thạch động Đôn Hoàng. Nhìn những thành quả mà Biến văn thời Đường để lại ta sẽ có cái nhìn khách quan hơn đối với sự sáng tạo trên phương diện văn học nghệ thuật. Người đời trước đã tiếp thu những cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa của nước ngoài, để từ đó tiếp biến cho nền văn học nghệ thuật bản địa, tạo nên những mảnh đất màu mỡ để trăm hoa đâm chồi nẩy lộc, nở rộ, kết thành vạn quả to lớn như ngày hôm nay. Đó chính là cái mà chúng ta cần phải nghiên cứu và học tập, và đó cũng chính là một trong những lý do thúc đẩy người viết nghiên cứu luận án này. 8 3)Lịch sử vấn đề: 3.1.Vị trí địa lý và lịch sử của Đôn Hoàng: Đôn Hoàng là một trấn quan trọng ở biên giới phía Tây Trung Quốc, nay là thành phố Đôn Hoàng của khu tự trị Tân Cương, tỉnh Cam Túc, trên trục Con Đường Tơ Lụa, và là cửa ngõ thông tới các quốc gia thuộc Tây Vực. Căn cứ theo sử liệu, vào niên hiệu Nguyên Phong đời Hán, năm thứ 6 (năm 111 trước CN), Hán Võ Đế thiết lập quận Đôn Hoàng và những nơi trọng yếu của biên cương như Ngọc Môn Quan, Dương Quan, v.v... Từ đó, Đôn Hoàng trở thành khu vực giao thông chính giữa Trung - Tây. Đến thời Đường, Con Đường Tơ Lụa vô cùng phồn thịnh, là trung tâm giao lưu văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung - Tây. Hang đá Mạc Cao của Đôn Hoàng chính là thành quả của sự giao lưu văn hóa ấy. Hang đá Mạc Cao toa lạc tại phía Đông Nam cách thành phố Đôn Hoàng khoảng 25 km. Hang đá được kiến tạo tại núi Minh Sa, vào niên hiệu Kiến Nguyên thứ 2 đời Bồ Tần (năm 366), chạy dài từ Tây sang Đông. Theo sử liệu, lúc bấy giờ có một vị hòa thượng, pháp danh là Lạc Tôn, trên đường đi truyền giáo, nhìn thấy trên vách đá giữa vùng núi Minh Sa và núi Tam Nguy có hào quang chiếu sáng cả vùng trời giống như có nghìn Đức Phật đang thuyết pháp, Ngài cho rằng đây là mảnh đất thiêng nên khởi công kiến tạo hang đá, điêu khắc và họa tượng Phật để thờ phụng. Đó chính là khởi nguyên của hang Mạc Cao. Trong thời gian từ Bắc Ngụy, Tây Nguy, Bắc Chu, Tùy, Đường và mãi đến triều đại nhà Nguyên, tất cả trước sau trải qua 11 triều đại với hơn nghìn năm kiến tạo. Theo Sử ký thì đến thời Võ Tắc Thiên đời Đường, các môn đồ Phật giáo đã mở rộng tới hơn một ngàn hang đá với trên một nghìn tượng, vì thế, gọi hang Mạc Cao là động Ngàn Phật (Thiên Phật động). Đến nay chỉ còn có khoảng 492 hang đá. Diện tích tranh vẽ có trên 45.000 m2, với khoảng 2.000 bức tranh vô cùng tinh vi cùng 5 tòa lâu các bằng gỗ được kiến tạo vào thời Đường và Tống. 9 3.2.Việc phát hiện ra Tàng Kinh Động Trong số các hang đá tại Mạc Cao, hang động mang ký hiệu số 17 lại có ngách hang ngầm tường kép. Đặc biệt nhất là hầm Tàng Kinh, trong đó cất giấu chừng khoảng ba vạn quyển, đều là các văn kiện và tác phẩm nghệ thuật. Thạch quật Mạc Cao chính là hang đá có quy mô lớn nhất, có thời gian lịch sử lâu dài nhất, có nội dung phong phú nhất của Trung Quốc và trên thế giới hiện nay. Đó là những di sản kiến trúc nghệ thuật - văn hóa hết sức quý báu không chỉ là của Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo thế giới mà là của toàn nhân loại. Nó còn là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu đời sống và sự liên hệ giao lưu giữa Trung - Tây trong thời kỳ cổ đại. Theo đa số học giả, việc bịt đóng ngách hang có buồng kép xảy ra vào đầu thời Bắc Tống, lúc Tây Hạ xâm phạm vùng Đôn Hoàng. Hòa thượng giữ động đem rất nhiều văn hiến cất giấu vào trong buồng đá rồi ngụy trang bên ngoài. Thời gian đóng cửa hang có thể là vào năm cảnh Hựu thứ 2 triều vua Tống Nhân Tông, tức năm Quảng Vận thứ 2 nhà Tây Hạ (năm 1035). Những văn hiến này đã được giấu kín trong đó suốt hơn 900 năm. Cho đến năm Quang Tự thứ 25 (1899) triều Thanh, đạo sĩ Vương Viên Lục mới tình cờ phát hiện. Việc phát hiện này đã làm chấn động giới học giả trên khắp toàn cầu. Bên trong hầm được chất đầy sách vở từ thế kỷ thứ in đến thế kỷ thứ XI, thuộc các lĩnh vực kinh điển của tôn giáo, y dược, triết học, kinh tế, quân sự, xã hội học, v.v... trong đó kinh điển Phật giáo chiếm trên 80%. Sau khi Tàng Kinh động được phát hiện, tháng 5 năm 1907, nhà địa lý học người Hunggari S. Aurel Steine đem theo một phiên dịch họ Tưởng tới khu vực Cam Túc. Ong ta nghe nói trong hang đá ở Thiên Phật động tại Đôn Hoàng có tàng trữ vô số sách vở chép tay và đồ họa bảo vật, bèn nghĩ cách chiếm giữ và đã mang đi 24 hòm các bản chép tay cùng 5 hòm đồ họa và đồ cổ. Những thứ này đều là văn hiến quan trọng về lịch sử văn hóa cổ đại Trung quốc. Sau đó không lâu, Bá Hi Hòa (Paul Pelliot) cũng tới Trung Quốc sưu tầm và cũng đem đi không ít. Triều đình nhà Thanh biết chuyện, ra lệnh thu thập và chuyển tất cả các bản chép tay về kinh đô. Đến lúc này thì kho báu ở Tàng Kinh Động Đôn Hoàng chỉ còn lại không đầy một phần ba, quá nửa trong số đó là kinh Phật 10 cùng các văn bản tàn khuyết. Các tài liệu tốt đều bị đưa đến các bảo tàng, thư viện của Anh -Pháp. Hiện có 6.000 quyển được lưu giữ ở Luân Đôn, 1.500 quyển được lưu giữ ở Paris, khoảng 6.000 quyển lưu giữ ở Bắc Kinh, một số được lưu giữ ở Nga, còn một số nằm trong tay tư nhân.... Ban đầu, những tàng quyển này chỉ được xem là đồ cổ để sưu tập cất giữ. Sau này, khi được chỉnh lý một cách hệ thống và đi sâu tìm hiểu thì mới phát hiện đây là những tư liệu quan trọng để nghiên cứu lịch sử, địa lý, chủng tộc, xã hội, kinh tế, tôn giáo, mỹ thuật, ngôn ngữ và văn học Trung Á..V.V. Từ đó ngành "Đôn Hoàng học" trở thành một môn học không thể thiếu trong việc nghiên cứu văn học, văn hóa Trung Quốc. Hiện nay, có hơn 20 quốc gia tham gia vào Đôn Hoàng học hội để học tập và nghiên cứu. 3.3.Quá trình nghiên cứu về Biến văn Đôn Hoàng Do một số bản chép tay có lời đề - lời bạt, nên có thể khảo cứu niên đại của Biến văn Đôn hoàng sớm nhất là vào đầu thế kỷ thứ 5 (sau Công nguyên), muộn nhất là vào cuối thế kỷ thứ 10. Về nội dung, ngoài 9/10 là kinh Phật và một số ít là kinh điển Đạo giáo, còn có khá nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc bị thất truyền, như thơ của Vương Phạm Chí, bài trường thi "Tần Phụ ngâm" của Vi Trang cùng rất nhiều ca từ và tiểu thuyết dân gian, trong đó quan trọng nhất là Biến văn. Thời gian gần đây, những người chú ý đến loại Biến văn này ngày càng nhiều. Họ hoặc tới thư viện và bảo tàng Anh - Pháp để sao chép, hoặc tới Bắc Kinh để nghiên cứu, hoặc đem các tài liệu đã có hiệu đính in ấn. Thế là loại sách chép tay từng bị chôn giấu gần một ngàn năm này dần dần được bày ra trước mắt mọi người. Việc hiệu đính, sao lục các tác phẩm Biến văn đại để đã bắt đầu từ sách " Đôn Hoàng linh thập" của học giả La Chấn Ngọc, cái mà sách này gọi là " ba loại Phật khúc" (Phật khúc tam chủng) thực ra chính là một loại Biến văn. Sau đó ít lâu, sách " Đôn Hoàng chuyết tỏa" do LƯU Phục biên tập, sách "Đôn Hoàng tùng sao" do Hướng Đạt biên tập, sách " Đôn Hoàng tạp lục" do Hứa Quốc Lâm biên tập lần lượt được giới thiệu đến công chúng. Năm 1954, sách "Đôn Hoàng Biến văn vựng lục" do Chu Thiệu Lương biên tập mới trở thành chuyên thư. 11 Năm 1957, các học giả Hướng Đạt, Vương Trọng Dân v.v... biên tập sách " Đôn Hoàng Biến văn tập". Đó là tập đại thành của Biến văn Đôn Hoàng. Tạm chia các học giả chuyên nghiên cứu Biến văn thành các nhóm theo các khu vực sau : Các vị học giả hiện ở Trung Quốc như Vương Trọng Dân, Chu Thiệu Lương hiệu đính biên tập Biến văn; Tôn Khải Đệ nghiên cứu kết cấu Biến văn, nghi thức tục giảng; Hướng Đạt nghiên cứu tục giảng. Thiệu Vinh Phấn nghiên cứu biệt tự trong các quyển viết tay ở Đôn Hoàng và phương âm vùng Tây Bắc thời Đường Ngũ Đại; Tưởng Lễ Hồng khảo cứu giải thích tự nghĩa Biến văn..v.v.. Họ đều đạt được những thành tựu đáng kể. Các học giả như Tôn Kỳ Dục, Trần Tộ Long, Trần Khánh Hạo, Tả Cảnh Quyền, Vương Gia Dục, Hầu cẩm Lang, v.v... định cư ở Pháp, nghiên cứu thấu đáo các tư liệu như các quyển viết tay Đôn Hoàng được lưu giữ tại thư viện quốc dân Paris và các phướn vẽ (họa phan) được lưu giữ tại bảo tàng Guimet. Tô Oanh Huy định cư tại Hồng Kông lúc trẻ đã từng nghiên cứu tại thực địa Đôn Hoàng, mấy chục năm nay vẫn không ngừng nghiên cứu sâu về Đôn Hoàng học; Nhiêu Tông Di cũng thường đến Paris để nghiên cứu các văn bản Đôn Hoàng gốc. Trương Hồng Niên định cư tại Mỹ, lấy ngôn ngữ Biến văn làm đề tài luận án Tiến sĩ tại Đại học California. Ở Nhật Bản, Tiểu Xuyên Hoàn Thụ và Kim Cương Chiếu Quang là những chuyên gia nghiên cứu tiểu thuyết Trung Quốc và các trước tác của Biến văn; Nhập Thỉ Nghĩa Cao thì nghiên cứu tự nghĩa của Biến văn. Richard E. Strasberg (người Mỹ) nghiên cứu cả giảng kinh văn và giảng kinh Biến văn. Học giả Đài Loan như Phan Trọng Quy chuyên nghiên cứu về cách viết theo lối dân dã (tục tả văn tự) trong các quyển viết tay ở Đôn Hoàng, Tăng Vĩnh Nghĩa nghiên cứu về kết cấu của Biến văn, uất Thiên Thông nghiên cứu về tục giảng đời Đường, Tạ Hải Bình chuyên nghiên cứu Biến văn mang tính chất giảng sử, Lý Điện Khôi nghiên cứu về cách hiểu và cách đọc (giải độc) các bản viết tay Đôn Hoàng, Kim Vinh Hoa làm bản tóm tắt 12 (đề yếu) các quyển được lưu giữ tại bảo tàng Luân Đôn, Thiệu Hồng chuyên nghiên cứu giảng kinh văn, Dương Tây Hoa nghiên cứu về mối quan hệ giữa Biến văn và nhu cầu của đại chúng..V.V.. Ngoài ra, có rất nhiều các vị học giả chuyên nghiên cứu về lịch sử văn học, thanh vận học, Phật học, mỹ thuật hoặc lịch sử biên cương, v.v... nhưng đều có đề cập tới Biến văn. 3.4.Biến văn lộ diện Theo đà các tác phẩm Biến văn không ngừng được phát hiện, những luận văn nghiên cứu có liên quan ngày càng nhiều, như thế sự hiểu biết về Biến văn cũng bắt đầu trở nên rõ ràng và chính xác. Tháng 3 năm 1931, tờ Tiểu thuyết Nguyệt báo đăng bài " Tục văn học Đôn Hoàng" (Đôn Hoàng đích tục văn học), Trịnh Chấn Đạc lần đầu tiên dùng tên gọi " Biến văn". Sau này, học giả Trịnh Chấn Đạc viết " Lịch sử văn học Trung Quốc" có kèm tranh ảnh minh họa (Sáp đồ Trung Quốc văn học sử), " Lịch sử văn học thông tục Trung Quốc" (Trung Quốc tục văn học sử) dùng nhiều trang bàn về "Biến văn". Nhờ thế, tên gọi "Biến văn" dần dần được lưu hành rộng rãi và được sử dụng cho đến ngày nay. Song tên gọi của "Biến văn", nguồn gốc của Biến văn vẫn còn là một vấn đề khó, giới học thuật lâu nay phải tốn biết bao tâm huyết và giấy mực nhưng dường như vẫn chưa tìm được câu trả lời khiến người ta vừa ý. Gần đây, giới học thuật tương nghiêng về ý kiến cho rằng "Biến văn" có quan hệ với một loại khác, đó là một loại tranh vẽ được gọi là "Biến tướng". "Biến" trong " Biến văn" tức là " biến" trong "Biến tướng", đại để có nghĩa là "biến hóa", "biến hiện", "biến dị"... "Biến tướng" là tranh truyện tương tự như tranh liên hoàn. "Biến văn" vốn là lời thuyết minh bằng văn tự của "Biến tướng". Sau này, "Biến văn" thoát ly "Biến tướng" thành một loại thể tài văn học thông tục. Trong mục "Biến văn", chương 6, Trung Quốc tục văn học sử, ông Trịnh Chấn Đạc có nói rằng: Cũng giống như "Biến tướng", cái gọi là "biến" trong "Biến văn" hẳn là chỉ cái ý "biến canh" (biến cải, biến đổi) bản văn của 13 kinh Phật mà trở thành tục giảng. "Biến tướng" có nghĩa là "đồ tướng" (tranh vẽ hình tướng) của kinh Phật. Phó Vân Tử trong bài "Tục giảng tân khảo" viết: Biến văn vốn là thứ giúp cho tranh Biến tướng, "biến" là nghĩa của Phật: "thuyết pháp thần biến". Hàm nghĩa của "Biến văn " và "Biến tướng" là đồng nhất, chỉ có điều là phương thức biểu hiện khác nhau. Một đằng là dùng văn từ, một đằng là dùng tranh vẽ. Dùng tranh vẽ để biểu hiện về không gian thì gọi là "tranh Biến tướng", dùng văn từ dạng khẩu ngữ để triển khai về thời gian thì gọi là "Biến văn". Chu Nhất Lương trong bài "Độc Đường đại tục giảng khảo" cho rằng : "Biến văn" có nghĩa là "văn" của "Biến tướng". "Kinh biến" vốn là tranh kể sự tích, sau này trở nên thông tục, lại vứt bỏ kinh điển mà nó vốn dĩ đã dựa vào, rồi dùng thể văn đương thời thuật lại sự tích trong tranh, thế là liền trở thành "Biến văn" ... Đại để "Biến văn" bắt nguồn từ "văn" của "Biến tướng", sau này khách cướp ngôi chủ, thế là "văn" dần dần độc lập và "biến" mà " văn" đó dựa vào ngược lại đã biến mất. Về nguồn gốc sâu xa của loại hình thức văn học " Biến văn" này, chủ yếu có mấy ý kiến sau: 1.Bắt nguồn từ nhạc cũ Thanh Thương : Hướng Đạt trong "Đường đại tục giảng khảo" viết: Muốn lần cho ra nguồn gốc sâu xa của "Biến văn", theo ý riêng tôi thì nên tìm từ trong nhạc cũ Thanh Thương của Nam triều. Trong nhạc Thanh Thương, vốn có một loại gọi là "biến", tổ chức của nó cũng khá phức tạp: Cái gọi là "Tống thanh" có khi chính là "tiết tử" (màn giáo đầu) và "Vĩ thanh" - loại như " Minh quân" nhiều tới mấy trăm lời, "Ba trăm lộng" (làn điệu) thì quy mô đồ sộ của nó cũng dường như chẳng phải là thứ mà ca khúc phổ thông có thể so sánh được. " Biến văn" đời Đường chắc hẳn cũng có thể phổ nhạc ... Và tổ tiên của nó có khi chính là một loại “biến ca” trong nhạc cũ Thanh Thương. 2.Có nguồn gốc từ việc phiên dịch Phật điển: 14 " Trung Quốc tục văn học sử" của Trịnh Chấn Đạc nói rằng: Nguồn gốc của "Biến văn " tuyệt đối chẳng thể tìm thấy từ trong văn tịch bản địa. Chúng ta biết rằng văn tịch An Độ ngay từ rất sớm đã sử dụng thể văn tổ hợp giữa văn xuôi với văn vần. "Bản sinh man luận" của Mã Minh cũng từng được giới thiệu ở Trung Quốc. Một bộ phận tăng lữ đã được Phật giáo Ân Độ đào luyện, đại để khi giảng kinh đã từng ra sức mổ phỏng loại văn thể mới này để thu hút sự chú ý của người nghe. Từ đời Đường về sau, rất nhiều văn thể mới của Trung Quốc đều đã in dấu của loại kết cục văn xuôi tổ hợp với văn vần. Các tăng lữ giảng xướng "Biến văn" là những người có công nhất trong việc truyền bá kết cấu của loại văn thể mới này. 3.Có nguồn gốc từ thể phú, ca dao, tự sự sẩn có của Trung Quốc: "Biến văn " còn hấp thụ ảnh hưởng của văn học Phật giáo như bài "Thử bàn về sự sản sinh và ảnh hưởng của “Biến văn” của Vương Khánh Thúc: Trung Quốc đã có phú Hán phô bày văn vẻ, kể lể sự vật thơ tự sự trong dân ca Nhạc phủ vừa dùng văn xuôi vừa dùng văn vần. Thơ ca và âm nhạc trong truyền thống văn học Trung Quốc vốn chẳng tách rời nhau, vì vậy, khi gặp được những thể chế dùng văn xuôi để kể sự tích trong kinh, văn vần để ca xướng phạm bối thì tăng nhân tục giảng và nghệ nhân dân gian đem hai thứ kết hợp lại, thế là sản sinh ra "Biến văn". Bởi vậy, tôi cho rằng "Biến văn" là một loại thoại bản của dân gian đương thời, dùng phương thức tục giảng để kể truyền thuyết và sự tích lịch sử. Còn tục giảng cũng có thể là đã sử dụng ca khúc của hình thức dân gian và phương thức thuyết thoại để tạo sự hấp dẫn cho người nghe. Theo thuyết "nhạc cũ Thanh Thương" thì trừ trong Nhạc phủ có "biến ca" cùng một số "khúc tử " lấy tên là "biến" ra, còn lại dường như không giải thích được; thuyết "phiên dịch Phật điển" thì lại bỏ qua nhân tố nội tại của sự phát triển văn học, thuyết thứ ba thì đã xem xét đến các nhân tố bên trong và bên ngoài của sự sản sinh và phát triển của "Biến văn". Do nhiều nguyên nhân mà đại đa số những bản chép tay này, bản thân chúng đại đa số đều không có tiêu đề. Một số quyển vốn có tiêu đề nhưng lại có các tên gọi như "Biến văn", "biến", "nhân duyên", "duyên khởi", "giảng kinh văn", "phú", "thoại", "thi", "từ 15 văn", "truyện" v.v... khác nhau. Mặc dầu chỉ có 8 - 9 tác phẩm vốn đề tên là "Biến văn" hoặc " Biến", nhưng cũng thường là đề trước đề sau không thống nhất, quyển này khác với quyển kia. Việc phân biệt thể loại "Biến văn" cũng đã trở thành một vấn đề mà giới học thuật không ngừng tranh luận. Những nhà nghiên cứu tảo kỳ nói chung có khuynh hướng dùng "Biến văn" làm tên gọi chung cho các tác phẩm văn học giảng xướng tìm thấy ở Đôn Hoàng, như " Trung Quốc tục văn học sử" của Trịnh Chấn Đạc, " Tục giảng tân khảo" của Phó Vân Tử, " Đàm Biến văn" (Bàn về Biến văn) của Quan Đức Đống đều chia Biến văn ra làm hai loại lớn : Loại giảng sự tích Phật và loại giảng sự tích phi Phật giáo, bao gồm các loại : Giảng kinh văn, duyên khởi, truyện v.v... Sau này, " Đôn Hoàng Biến văn vựng lục" của Chu Thiệu Lương, "Đôn Hoàng Biến văn tập" cửa Vương Trọng Dân và Vương Khánh Thúc, đã thu gom tất cả các tác phẩm thuộc loại thuyết xướng. Vương Trọng Dân trong "Báo cáo nghiên cứu Biến văn Đôn Hoàng" viết: "Đôn Hoàng Biến văn tập" căn cứ hình thức và nội dung của "Biến văn" mà chia ra làm hai loại lớn : Một loại là giảng xướng kinh Phật và sự tích nhà Phật, một loại là giảng sự tích lịch sử nước ta. Loại thứ nhất lại có thể chia ra làm ba loại nhỏ : Một loại dựa theo kinh văn của kỉnh Phật, lúc đầu giảng giải một cách thông tục, sau đó dùng xướng từ giải thích lại một lần nữa; một loại giảng sự tích Thái tử Thích Ca Mâu Ni xuất gia thành Phật; một loại giảng sự tích đệ tử Phật và sự tích Phật giáo. Hai loại sau đều có thuyết cố xướng. Loại thứ hai cũng có thể chia ra làm ba loại nhỏ, nhưng không chia theo nội dung mà chia theo thể tài : Loại thứ nhất có thuyết có xướng, loại thứ hai có thuyết mà không có xướng và loại thứ ba là đối thoại. Cách phân loại và thứ tự sắp xếp trong khi phân loại cũng thật sự phản ảnh toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và chuyển biến thành thoại bản của "Biến văn". Giảng kinh văn là hình thức ban đầu của Biến văn. Từ giảng kỉnh văn diễn hóa thành Biến văn giảng sự tích Phật giáo và sự tích lịch sử, cuối cùng chuyển thành thoại bản. Trong các giai đoạn khác nhau, người ta dùng các tên gọi khác nhau, trong các đề tài khác nhau lại mang những tên gọi vốn đã có sẵn. Trong thời kỳ toàn thịnh Biến văn được dùng làm tên chung cả một loạt tác phẩm văn học. Đây là nguyên nhân nhằm giải 16 thích lý do dùng một danh từ "Biến văn" để gọi cho loại tác phẩm văn học đã được phát hiện ở Đôn Hoàng là tương đối thích nghỉ và tương đối chính xác. Trong bài "Lời dẫn" của sách "Đôn Hoàng Biến văn tập" Hướng Đạt viết: "Có một số đầu đề ghi tên là Biến văn. Song như thế không phải có thể nhất loạt gọi là Biến văn ?". Ông đưa ra kết luận : "Tác phẩm thể thuyết xướng thịnh hành trong chùa chiền đời Đường chính là thoại bản của tục giảng. Biến văn v.v... chỉ là một loại danh xưng (tên gọi) của thoại bản mà thôi !". Kỳ thực, ngay từ những năm 30 - 40, Hướng Đạt đã từng giải thích: Thuyết giả (chỉ các nhà nghiên cứu), cho rằngnên gọi thoại bản thuyết giảng là Biến văn, nhưng xét kỹ lại thì không thể thế được! Mục Liên biến, Hàng ma biến, Vương Lăng biến, Thuấn tử chí hiếu biến v.v... phần nhiều đặt tên là Biến văn, cố nhiên là như vậy ! Song "Quý Bố ma trận từ văn"vốn dĩ lấy " từ văn" hoặc "truyện văn" làm tiêu đề. Còn những thứ được gọi là "áp tọa văn", "duyên khởi" cùng các thiên phô diễn toàn kinh không có tên gọi, nhưng về thể tài thì khác hẳn Biến văn. Nay gọi chung chúng là Biến văn, lấy một phía để khái quát toàn thể, như vậy là gượng ép. Chịu ảnh hưởng của Hướng Đạt, năm 1963, Chu Thiệu Lương phát biểu bài "Bàn về văn học dân gian đời Đường"(Đàm Đường đại dân gian văn học), chia các tác phẩm thuộc loại thuyết xướng ở Đôn Hoàng ra làm các loại: Biến văn, tục giảng văn, từ văn, thi thoại, thoại bản và phú (Sau này, trong bài "Biến văn đời Đường" và "Đường đại Biến văn cập kỳ thư", Chu Thiệu Lương sửa đổi lại cách phân loại sửa "Tục giảng văn" thành "Giảng kinh văn" và đặt thêm loại "Nhân duyên"). "Mấy điểm nghiên cứu tìm tòi về Biến văn" (Quan ư Biến văn đích kỷ điểm thám sách) của Trình Nghị Trung (1963) chủ trương " Biến văn" và "giảng kinh văn" thực ra chẳng phải là văn thể giống nhau. Vì vậy, trong khoảng thời gian đó, ý kiến này dường như chiếm thế thượng phong. Các bài "Biến văn là gì ?" (Thập ma thị Biến văn) của Bạch Hóa Văn, "Tìm hiểu bước đầu về thể chế và loại hình văn học giảng xướng Đôn Hoàng" (Đôn Hoàng giảng xướng văn học đích thể chế cập loại hình sơ thám) của Trương Hồng 17 Huân, "Bàn về Biến văn dân gian Đôn Hoàng" (Luận Đôn Hoàng dân gian Biến văn) của Cao Quốc Phiên đều là những tác phẩm có cùng cách lý giải như vậy. Song theo người viết, mọi người đã thừa nhận "Biến văn" vốn là văn của "Biến tướng", thế thì ý kiến của Vương Trọng Dân cho rằng "Giảng kinh văn là hình thức ban đầu của Biến văn, thời kỳ sản sinh sớm nhất trong Biến văn" sẽ không phải là không có căn cứ. Đại Đường Đại Từ Âm tự Tam Tạng pháp sư truyện, quyển 9, có viết: Ngày 5 tháng Chạp năm Hiển Khánh thứ nhất, pháp sư lại một lần nữa chúc mừng ngày đầy tháng của Phật Quang Vương, dâng pháp phục v.v..., tâu rằng : "Dám xin dâng tên Bát Nhã tâm kinh, chữ vàng một quyển kèm hòm và Báo ân kinh biến một bộ". Có học giả cho rằng "Báo ân kinh biến", trong đó phải là chỉ "Phật báo ân kinh giảng kinh văn" (Bản chép tay ở Đôn Hoàng có một loại "Song ân ký", tức là giảng kinh văn diễn giải " Phật báo ân kinh"). Nếu sự suy đoán này là đáng tin thì sẽ làm rõ thêm cho thuyết của Vương Trọng Dân. Ngoài ra, xét những Biến văn nguyên đề là "Thuấn tử chí hiếu Biến văn", "Lưu gia Thái tử Biến văn" (đề ở dưới quyển, đề ở đầu là "Tiền Hán Lưu gia Thái tử truyện văn") thì có thể thấy thể tài của Biến văn có thể là văn vần và văn xuôi kết hợp, cũng có thể toàn bài là văn vần hoặc toàn bài là văn xuôi. Còn "Nhân duyên" với "Biến văn" thì tên tuy khác, nhưng thực chất là một. Điều này càng được chứng minh đầy đủ ngay trong bản thân các bản chép tay về Biến văn Đôn Hoàng. Loại ý kiến chỉ căn cứ vào sự khác biệt về tên gọi được ghi ở các bản chép tay mà cho rằng giảng kinh văn, nhân duyên, từ văn, thoại v.v... không thuộc Biến văn, là chưa thỏa đáng. Một học giả nổi tiếng ở Đài Loan là Phan Trọng Quy cho rằng: "Biến văn là tên gọi thông tục của văn thể một thời, thực chất của nó là sự tích (cố sự). Giảng kinh văn, duyên khởi, nhân duyên, từ văn, thi, phú, truyện, ký v.v... chẳng qua là áo ngoài của nó. Biến văn sở dĩ có nhiều tên gọi khác nhau chính là vì khi nó kể sự tích, dùng nhiều loại văn thể khác nhau để diễn đạt" Đây là kết luận đáng được coi trọng. 18 Sự phát hiện và nghiên cứu Biến văn có những ý nghĩa gì ? Về vấn đề này, Trịnh Chấn Đạc đã có một đoạn rất hay, xin trích dẫn ra đây: "Trong nhiều văn thư quan trọng của Trung Quốc được phát hiện tại Đôn Hoàng, Biến văn phải được coi là quan trọng nhất. Trước khi Biến văn được phát hiện, chúng ta quả thật chẳng biết bình thoại vì sao lại đột nhiên được sản sinh ra vào đời Tống ? Lai lịch của chư cung điệu là như thế nào ? Bảo quyển, cổ từ và đàn từ thịnh hành vào hai đời Minh Thanh rốt cuộc là sản phẩm của thời cận đại hay là từ xưa đã có rồi ? Rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử văn học đều trở thành nghi án và khó có lời giải đáp xác định. Nhưng từ trước năm 30, sau khi Sử Thản Nhân mở kho báu Đôn Hoàng và đã phát hiện thấy một loại văn thể là Biến văn thì chúng ta mới dần dần có thể được giải quyết mọi điều nghỉ vấn. Chúng ta mới tìm được một mắt xích giữa văn học cổ đại và văn học cận đại. Chúng ta mới biết giữa thoại bản Tống Nguyên và tiểu thuyết Lục triều cùng truyền kỳ đời Đường thực ra không có quan hệ nhân quả. Chúng ta mới biết rõ sách như loại bảo quyển, cổ từ và đàn từ chi phối tư tưởng dân gian hơn ngàn năm nay, lai lịch của chúng vốn là như vậy ĩ Phát hiện này khiến việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử văn học Trung Quốc của chúng ta đổi mới diện mạo. Quan hệ này to lớn khác thường ĩ Việc phát hiện ra Biến văn lại khống chỉ là đã phát hiện thấy nhiều tác phẩm nổi tiếng mà còn giúp cho lịch sử văn học cận đại giải quyết được nhiều vấn đề nan giải. Đó chính là nguyên nhân khiến chúng ta hơn mười năm nay vì sao coi trọng việc phát hiện ra Biến văn đến như vậy !” Đoạn phát biểu này của Trịnh Chấn Đạc chủ yếu là nhìn từ góc độ văn học. Về phương diện ngôn ngữ thì Biến văn tiếp cận với khẩu ngữ đương thời, giữ được một lượng lớn tư liệu khẩu ngữ. Đối với việc nghiên cứu sự diễn biến ngôn ngữ cổ kim, cội nguồn bạch thoại Tống Nguyên thì điều này có giá trị tham khảo lớn. Lã Thúc Tương xem tác phẩm tục văn học Đôn Hoàng mà Biến văn Đôn Hoàng là đại biểu, là đường ranh giới giữa Hán ngữ cận đại và Hán ngữ cổ đại, chứng tỏ bất kể là về phương diện văn học hay ngôn ngữ Biến văn Đôn Hoàng đều có giá trị to lớn. 19 Chính vì Biến văn Đôn Hoàng có giá trị to lớn về nhiều mặt như vậy, cho nên ngay từ ngày được phát hiện, nó đã gây sự quan tâm chú ý rộng rãi của giới học thuật trong và ngoài nước, chẳng những luận văn nghiên cứu ngày càng nhiều mà các tập bản, hiệu bản và chú bản (bản biên tập, bản hiệu đính và bản chú giải liên tục xuất hiện. Trong thời gian lưu học tại Bắc Kinh, người viết đã vào các thư viện lớn như: Thư viện Bắc Kinh, Thư viện Đại học Bắc Kinh, Thư viện Đại học Ngôn Ngữ Văn Hóa Bắc Kinh, Thư viện Đại học Sư Phạm Bắc Kinh....và cùng với những công cụ thông tin hiện đại, người viết thâm nhập vào thư viện của các trường nổi tiếng ở các tỉnh khác như : Đại học Lan Châu, Đại học Tứ Xuyên... tìm hiểu những tư liệu liên quan về Biến văn Đôn Hoàng. Tháng 10 năm 2002, vì muốn chứng thực những gì mà sách vở mô tả, cùng với sự háo hức muốn tận mắt nghiên cứu, quan sát những gì mà ngàn xưa để lại tại Đôn Hoàng, với sự hỗ trợ của Giáo sư Mã Khắc Thừa, Khoa Đông Phương học thuộc Đại học Bắc Kinh; cùng với các bạn chung chí hướng như : Minh Hồng nghiên cứu sinh Việt Nam tại Đại học Sư Phạm Thủ Đô Bắc Kinh, Khương Hải, Phước Lộc nghiên cứu sinh Việt Nam tại Đại học Sư Phạm Bắc Kinh, tác giả luận án đã vượt qua chặng đường dài trên sa mạc nóng bỏng, tận mắt quan sát thạch quật Mạc Cao. Nhờ sự liên hệ từ trước của Giáo sư Mã Khắc Thừa, đoàn đã được Viện nghiên Cứu Đôn Hoàng cho người hướng dẫn thuyết minh tận tình về các nền văn hoa Đôn Hoàng và khảo sát tư liệu tại thư viện của Viện Nghiên cứu Đôn Hoàng. Có tận mắt quan sát, tận tay chạm đến, mới thấy sững sờ trước những kiệt tác mà Đôn Hoàng đã để lại cho nhân loại là vô tiền khoáng hậu. Những gì mà ương sách vở nghiên cứu mô tả chỉ là một phần nào so với những gì mà thạch quật Mạc Cao lưu giữ. Có thể nói, trãi qua bao gian lao khổ cực, nhọc nhằn giữa sa mạc mênh mông của Đôn Hoàng được đến tận nơi nhìn tận mắt những thành quả của người xưa, người viết đã cảm thấy vô cùng mãn nguyện. Vì theo những người hướng dẫn tại địa phương, thì có thể nói đoàn của người viết là những người Việt Nam đầu tiên đặt chân tới Thạch động Đôn Hoàng! 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất