Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Biện pháp cưỡng chế trong luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Biện pháp cưỡng chế trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
99
100
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ BÍCH HÀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ BÍCH HÀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Phúc HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cám ơn! Người cam đoan Trần Thị Bích Hà i DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra TAND: Tòa án nhân dân TAQS: Tòa án quân sự TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................... ii MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................. 7 1.1. Nhận thức cơ bản về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự ............. 7 1.1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự ........................... 7 1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 ..... 12 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 ................................................................................................................. 14 1.2. Lịch sử phát triển quy định về các biện pháp cưỡng chế trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................... 15 1.2.1. Thời kì phong kiến Việt Nam thuộc địa Pháp đến trước Cách mạng tháng Tám 1945............................................................................................... 15 1.2.2. Thời kì sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến trước 1975 ................... 18 1.2.3. Thời kì sau năm 1975 đến nay .............................................................. 20 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 23 CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015..................................................... 25 2.1. Những điểm mới về các biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 .................................................................................................... 25 2.1.1. Tách biệt biện pháp cưỡng chế với biện pháp ngăn chặn; tập trung các quy định về biện pháp cưỡng chế vào một Mục trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ......................................................................................................... 26 2.1.2. Quy định mới về biện pháp phong tỏa tài khoản .................................. 28 iii 2.1.3. Quy định đầy đủ, chi tiết về áp giải, dẫn giải ....................................... 31 2.1.4. Quy định về hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản .... 33 2.1.5. Quy định về các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân .................... 34 2.2. Các biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ......... 37 2.2.1. Áp giải, dẫn giải .................................................................................... 37 2.2.2. Kê biên tài sản ....................................................................................... 42 2.2.3. Phong tỏa tài khoản ............................................................................... 49 2.2.4. Biện pháp cưỡng chế tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nh n liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án ........................................................................................ 56 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 65 CHƢƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ ..................................................................................... 66 3.1. Thuận lợi, khó khăn trong áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp cưỡng chế trong giải quyết vụ án hình sự................. 66 3.1.1. Thuận lợi ............................................................................................... 66 3.1.2. Khó khăn ............................................................................................... 68 3.2. Dự kiến một số vướng mắc có thể phát sinh trong quá trình áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế ............................ 69 3.2.1.Chưa có quy định về việc áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế............. 69 3.2.2. Bổ sung các biện pháp cưỡng chế khác ................................................ 70 3.2.3. Về áp giải, dẫn giải................................................................................ 71 3.2.4. Về kê biên tài sản .................................................................................. 73 3.2.5. Về biện pháp phong tỏa tài khoản......................................................... 74 3.2.6. Về thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân ........ 75 3.3. Những vấn đề đảm bảo hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp iv cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015.............................................................. 76 3.3.1. Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về biện pháp cưỡng chế; Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp cưỡng chế ............................ 76 3.3.2. Thống nhất nhận thức và đổi mới tư duy cho các chủ thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế........................................................................................ 78 3.3.3. Tăng cường năng lực cho các chủ thể áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thực tế .................................................................................................... 79 3.3.4. Tăng cường công tác chỉ đạo và thanh tra, kiểm tra việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế........................................................................................ 80 3.3.5. Đảm bảo quan hệ phối hợp trong hoạt động áp dụng biện pháp cưỡng chế ................................................................................................................... 82 3.3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế 82 3.3.7. Đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phòng phòng, chống tội phạm ......................................................................... 84 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89 v MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài BLTTHS năm 2003 sau hơn 10 năm triển khai thi hành đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, bảo vệ pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; bảo đảm trình tự và thủ tục TTHS công khai, dân chủ, thuận lợi cho người tham gia TTHS thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong hoạt động TTHS. Bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ, BLTTHS năm 2003 cũng đã thể hiện những hạn chế, vướng mắc, bất cập, trong đó có những bất cập trong các quy định về biện pháp cưỡng chế trong TTHS như áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản... Những tồn tại bất cập đó của các quy định trong BLTTHS 2003 đã gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết vụ án hình sự, ảnh hưởng đến việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, tính răn đe, phòng, chống tội phạm. Hiến pháp năm 2013 ra đời với nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Những nguyên tắc đó cần được thể chế hóa trong BLTTHS. Bên cạnh đó, việc tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong BLTTHS năm 2003 ảnh hưởng đến thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, trong đó có các quy định về biện pháp cưỡng chế là một đòi hỏi cấp thiết và khách quan. Những yêu cầu, đòi hỏi đó đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành, thể chế nó trong một BLTTHS mới cho phù hợp với hệ thống pháp luật và thực tiễn. Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN 1 Việt Nam khóa XIII đã thông qua BLTTHS số 101/2015/QH13. Đ y là một trong những đạo luật quan trọng, thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 49-NQ/TW về hoạt động tố tụng theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 và chương trình cải cách tư pháp, x y dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức và hoạt động nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng. Với các quan điểm đó, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong đó, quy định về biện pháp cưỡng chế trong TTHS có những sửa đổi và bổ sung căn bản. Những sửa đổi, bổ sung của chế định này thể hiện ở kỹ thuật lập pháp và cả ở số lượng, nội dung của các biện pháp cưỡng chế với rất nhiều điểm mới so với chế định này trong BLTTHS năm 2003. Xuất phát từ vai trò quan trọng của chế định biện pháp cưỡng chế TTHS, với tư cách là một cán bộ của lực lượng Công an nhân dân - lực lượng nòng cốt trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm đã đặt ra nhu cầu phải kịp thời nghiên cứu, từ đó có nhận thức đúng đắn và áp dụng một cách có hiệu quả các biện pháp này trong thực tiễn giải quyết vụ án. Luận văn với đề tài “Biện pháp cưỡng chế trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” được thực hiện với mục đích làm rõ một cách toàn diện về những điểm mới về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế TTHS trong BLTTHS năm 2015, từ đó xác định những vấn đề đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các quy định này trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong thời gian tới. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Về sách chuyên khảo: Cuốn sách “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2011) của tác giả Trần Quang Tiệp và sách “Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia (2015), của tác giả Nguyễn Trọng Phúc. Trong các cuốn sách này, các tác giả đã nghiên cứu khái quát về các biện pháp cưỡng chế trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trong đó tập trung vào các quy định về biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng như sự tác động của các biện pháp cưỡng chế đến quyền tự do cá nhân. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, BLTTHS năm 2015 chưa ra đời nên các cuốn sách trên chưa làm rõ được các điểm mới trong BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế. - Về bài viết trên tạp chí: + Bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2018: “Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nh n theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra khi triển khai áp dụng” của tác giả Nguyễn Hải Ninh. + Bài viết trên Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, số 3/2018: “Nghiên cứu một số quy định đặc thù về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Trịnh Quốc Toản. Các bài viết trên đã đề cập đến các quy định mới của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, phạm vi bài viết cũng chỉ tập trung vào các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân mà chưa đi s u ph n tích một cách khải quát về các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 nói chung 3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự qua các thời kì; - Nghiên cứu làm rõ những điểm mới về biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015. - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề có thể vướng mắc trong triển khai thi hành các quy định về biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 từ đó đề xuất những hướng hoàn thiện và giải pháp giúp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự qua các thời kì; - Phân tích làm sáng tỏ quy định mới về biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015; - Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp cưỡng chế trong công tác phòng, chống tội phạm. - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề đảm bảo hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp cưỡng chế trong thực tiễn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quy định về biện pháp cưỡng chế trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trong đó tập trung là BLTTHS năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong áp dụng các quy định này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp cưỡng chế, trong đó tập trung là các quy định của BLTTHS năm 2015 được quy định tại Mục II Chương VII Biện pháp cưỡng chế, các điều từ 436 đến 439 và những vấn đề đặt ra trong việc áp dụng các quy định này trên thực tiễn. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm; các luận điểm chung của khoa học pháp lý về biện pháp cưỡng chế trong TTHS. Ngoài ra, quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp cụ thể gồm: Phương pháp ph n tích, tổng hợp: Trên cơ sở ph n tích các quy định của BLTTHS và tổng hợp các dữ kiện đã có để rút ra các quy định mới, nhận định các thuận lợi, khó khăn khi áp dụng các quy định mới về biện pháp cưỡng chế trong TTHS. Phương pháp so sánh: Trên cơ sở so sánh quy định của BLTTHS năm 2015 với quy định của BLTTHS năm 2003 về biện pháp cưỡng chế để đưa ra các điểm mới của chế định này trong BLTTHS năm 2015. Phương pháp chuyên gia: thu thập thông tin khoa học, bài viết nghiên cứu chuyên sâu của các học giả, nhà nghiên cứu về vấn đề này. Phương pháp tổng kết thực tiễn: Qua thực tiễn thấy rõ bất cập, hạn chế của các quy định của BLTTHS về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, từ đó ph n tích cơ sở pháp lý và thực tiễn của các quy định mới trong BLTTHS năm 2015. 6. Đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn làm rõ sự khác biệt trong quan điểm pháp lý truyền thống và 5 pháp luật thực định (BLTTHS năm 2015) đối với khái niệm “biện pháp cưỡng chế” cũng như sự phát triển của pháp luật Việt Nam về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự qua các thời kì; ph n tích, đánh giá những điểm mới trong quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế đồng thời nghiên cứu làm rõ những vấn đề đảm bảo hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp cưỡng chế trong thực tiễn. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa khoa học: Những vấn đề được trình bày, phân tích trong luận văn là những vấn đề mới về các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015; được nghiên cứu một cách có hệ thống. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu học tập và nghiên cứu đối với các vấn đề liên quan. - Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu, ph n tích, đánh giá được những điểm mới trong quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp cưỡng chế đồng thời đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong áp dụng cũng như làm rõ những vấn đề đảm bảo hiệu quả áp dụng các quy định này có ý nghĩa thiết thực trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương 7 tiết: Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự Chương 2. Quy định về biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Chương 3. Những vấn đề đặt ra trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp cưỡng chế 6 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Nhận thức cơ bản về biện pháp cƣỡng chế trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự Biện pháp cưỡng chế hay nói đầy đủ hơn là các biện pháp mang tính cưỡng chế là một khái niệm đã tồn tại từ lâu trong khoa học pháp lý. Về mặt thuật ngữ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [31, tr.323]. Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006 thì cưỡng chế là “buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới được ra quyết định cưỡng chế, quyết định lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế phải được tiến hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện” [32, tr.204]. Để bảo đảm thực thi pháp luật, ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân thủ, bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế bằng pháp luật. Biện pháp cưỡng chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là hiện tượng gắn liền với Nhà nước. Trong Nhà nước XHCN, thuyết phục là biện pháp chủ yếu được áp dụng nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 7 này xuất phát từ tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước đều lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng và vì vậy, luôn được sự ủng hộ và tuân thủ của nhân dân. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu cho rằng có thể bỏ qua biện pháp cưỡng chế, bởi lẽ do nhiều nguyên nhân khác nhau, vẫn còn một bộ phận công dân, cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, không có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, không chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong điều kiện như vậy, áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết, phù hợp với nguyên tắc dân chủ, nh n đạo của Nhà nước ta, bởi lẽ nó được thực hiện vì mục đích chung của toàn xã hội, trong đó có lợi ích cá nhân. Không áp dụng biện pháp cưỡng chế, hay coi nhẹ nó, sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Ngược lại quá nhấn mạnh đến biện pháp cưỡng chế, sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền. Vì vậy, sự kết hợp hài hòa giữa thuyết phục và cưỡng chế cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội sẽ góp phần to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ trong quản lý nhà nước. Tố tụng hình sự là một trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng của Nhà nước. So với các lĩnh vực hoạt động nhà nước khác thì tố tụng hình sự là lĩnh vực trong đó việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết khách quan và xâm phạm nhiều nhất đến tự do cá nhân, hạn chế một số quyền con người, nh n th n được hiến định. Điều này xuất phát từ nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện tội phạm và kẻ phạm tội, ngăn chặn tiếp tục phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự của kẻ phạm tội. Đ y là nguyên nh n dẫn đến sự cần thiết áp dụng các biện pháp cưỡng chế can thiệp vào tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và các quyền hiến định khác của công dân. 8 Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi phải có những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc. Do tác động của nguyên tắc tội phạm phải bị trừng trị bằng hình phạt nên thông thường người thực hiện hành vi phạm tội có xu hướng tìm mọi cách lẩn tránh trách nhiệm hình sự của mình. Do vậy, nhu cầu áp dụng các biện pháp cưỡng chế từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người tham gia tố tụng là tất yếu khách quan, nhằm loại trừ những cản trở hoạt động tố tụng có thể xảy ra, bảo đảm của hoạt động tố tụng hình sự được diễn ra bình thường, bảo đảm có các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trong trường hợp này, biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là cần thiết, giúp tạo điều kiện cho việc thực hiện những nhiệm vụ của tố tụng hình sự, buộc bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác phải thực hiện những nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận rằng những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự cũng có thể trở thành mối đe dọa thực tế đến quyền, tự do hiến định của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ… nếu như việc áp dụng các biện pháp này không tuân thủ các quy định của luật về điều kiện, trình tự, thủ tục và căn cứ áp dụng. Để giải quyết sự mâu thuẫn giữa việc bảo đảm, tôn trọng các quyền, tự do hiến định và sự cần thiết thực hiện nhiệm vụ phát hiện, khám phá tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội đòi hỏi phải tìm ra hình thức pháp lý hạn chế quyền, tự do hiến định một cách hài hòa, có cân nhắc giữa người bị hạn chế và lợi ích của Nhà nước, xã hội. Không thể nhân danh lợi ích đấu tranh chống tội phạm mà xâm phạm đến quyền, lợi ích được Hiến pháp thừa nhận của cá nh n và ngược lại, không thể hạ thấp yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trước những khả năng bất lợi khi hạn chế quyền, tự do cá nh n. Do đó, hệ thống pháp luật của bất kì quốc gia nào cũng luôn ghi nhận các tình huống trong hoạt động tố tụng hình sự khi 9 các quyền, tự do hiến định của công dân bị hạn chế trước yêu cầu bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Căn cứ trên mục đích áp dụng, biện pháp cưỡng chế trong TTHS có thể được chia thành 3 nhóm: Nhóm 1 gồm các biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc g y khó khăn cho hoạt động giải quyết vụ án như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh. Nhóm 2 gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét người, chỗ ở, địa điểm…; xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, nhận dạng… Nhóm 3 gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản…[26, tr.195] Mặc dù, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là một vấn đề truyền thống của khoa học pháp lý. Tuy nhiên, “biện pháp cưỡng chế” với tư cách là một thuật ngữ pháp lý lại chưa hề được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự thực định. Với sự ra đời của BLTTHS năm 2015, lần đầu tiên, thuật ngữ “biện pháp cưỡng chế” được đưa vào trong luật. Cụ thể BLTTHS năm 2015 quy định: “Điều 126. Các biện pháp cưỡng chế Để bảo đảm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.”[19, Điều 126] Với việc lần đầu tiên quy định về pháp nhân và trách nhiệm hình sự của pháp nhân, BLTTHS năm 2015 cũng đưa vào quy định về biện pháp cưỡng 10 chế áp dụng với pháp nhân, theo đó: “Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử: a) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; b) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; c) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; d) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.” [19, Điều 436] Như vậy, BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên nhắc đến thuật ngữ “biện pháp cưỡng chế”, mặc dù chưa đưa ra được khái niệm nhưng đã ghi nhận và liệt kê các biện pháp được coi là biện pháp cưỡng chế, gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm định chỉ có thời hạn hoạt động và buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án; trong đó có 04 biện pháp áp dụng với cá nhân gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản và 04 biện pháp áp dụng với pháp nhân gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động và buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án. Căn cứ các quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp cưỡng chế, có thể đưa ra khái niệm về các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 như sau: Biện pháp cưỡng chế là các biện pháp do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng với bị can, bị cáo, người chưa bị khởi tố về hình sự, một số người tham gia tố tụng khác và pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong những trường hợp do BLTTHS quy định nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, gồm: áp giải, dẫn giải, 11 kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân, buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án. Như vậy, về bản chất, biện pháp cưỡng chế theo quy định tại BLTTHS năm 2015 thực chất là các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm cho việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, hoặc có thể gọi chung là các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác (ngoài biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ), là nhóm 3 trong cách phân loại các biện pháp cưỡng chế trong TTHS đã nêu phía trên. Căn cứ trên tiêu chí là mục đích áp dụng, BLTTHS năm 2015 đã có sự phân tách các biện pháp cưỡng chế một cách rất rõ ràng; theo đó các biện pháp mang tính chất ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc g y khó khăn cho hoạt động giải quyết vụ án như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú... được gọi là các biện pháp ngăn chặn; các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét người, chỗ ở, địa điểm; xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, nhận dạng… được quy định trong Phần thứ hai của BLTTHS năm 2015 (khởi tố, điều tra vụ án hình sự) với tư cách là hoạt động điều tra và những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản (hay trước đ y gọi là các biện pháp cưỡng chế khác) được ghi nhận bằng thuật ngữ “biện pháp cưỡng chế”. 1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 Thứ nhất, là một dạng của các biện pháp cưỡng chế nhà nước nói chung, biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015 mang đầy đủ dấu hiệu về bản chất của các biện pháp cưỡng chế là tính quyền lực nhà nước - tính bắt buộc thi hành. Chủ thể áp dụng chúng luôn là những cơ quan và cá nh n có quyền hạn, nắm giữ quyền lực nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự - cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự cụ thể 12 nhằm triển khai các hoạt động tố tụng trên thực tiến. Đối tượng bị áp dụng của các biện pháp cưỡng chế là cá nhân tham gia trong hoạt động tố tụng hình sự với những tư cách tố tụng khác nhau như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại; trong trường hợp BLHS quy định pháp nhân là chủ thể tội phạm thì một số biện pháp cưỡng chế cũng có thể được áp dụng với pháp nhân. Tuy nhiên, dù là cá nhân hay pháp nhân, với tư cách tham gia tố tụng của mình, họ cũng đều phải thực hiện những nghĩa vụ tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và khi họ không tự nguyện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ đã được quy định thì phải đối mặt với nguy cơ có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế nhất định nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo luật định. Thứ hai, là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, chúng được ghi nhận trong luật TTHS thực định - BLTTHS năm 2015 với đầy đủ quy định cụ thể về căn cứ áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng cũng như hủy bỏ việc áp dụng một cách cụ thể đối với từng biện pháp. Các biện pháp cưỡng chế chỉ áp dụng khi trên thực tế xuất hiện khả năng cản trở tiến trình bình thường của hoạt động tố tụng hình sự. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các chủ thể này hoàn toàn chủ động quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khi có căn cứ do luật định, không phụ thuộc vào ý kiến của những người tham gia tố tụng khác. Ngoài ra, luật còn quy định trình tự, thủ tục và những điều kiện áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế được xem là hợp pháp khi có căn cứ và tuân thủ trình tự, thủ tục do luật định. Thứ ba, mục đích áp dụng các biện pháp cưỡng chế là để bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thứ tư, về đối tượng bị áp dụng, biện pháp cưỡng chế có thể áp dụng 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan