Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Biện chứng của tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội ở việt nam...

Tài liệu Biện chứng của tư tưởng hồ chí minh về chủ nghĩa xã hội ở việt nam

.PDF
219
14
54

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VÃN LẠI QUỐC KHÁNH B IỆ N C H Ứ N G C Ủ A T ư T Ư Ở N G H ổ C H Ỉ M IN H V Ể C H Ủ N G H ĨA X Ã H Ộ I Ở V IỆ T N A M CHUYẾN NGÀNH: CNDVBC&CNDVLS MẢ SỐ: 62.22.80.05 LUẬN ÁN TIẾN S ĩ TRIẾT HỌC Hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn PGS.TS. Phạm Ngọc Thanh HÀ NỘI - 2 0 0 8 LỜI C A M Đ O A N T ôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêngo tôi. C ác tư liệu được sử dụng án • • • ơ trong C7 luận • là hoàn toàn trung thực. K ết quả nghiên cứu của ỉuận án chưa từng được công bố ở bất kỳ tài liệu của tác giả nào khác. TÁC GIẢ LUẠN AN LẠI QUỐC KHÁNH M Ụ C LỤ C Trang MÍỤC LỤC M lở Đ Ầ U .................................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tà i...................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tà i............................................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................................8 6. Cái mới về mặt khoa học của Luận án..............................................................................8 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án......................................................................... 9 8. iKết cấu của Luận án........... ........ ..................................................................................... 9 nQ i D ư n g .................................................................................................................... ........ 10 CHIƯƠNG 1. C ơ SỞ HÌNH THÀNH BIỆN CHỨNG CỦA T ư TƯỞNG HỒ CHIÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT N A M ....................................................10 1.1. Tiếp thu, vận dụng các phương pháp tư duy biện chứng.................................. 10 1.2. Kế thừa một cách biện chứng các giá trị tư tưởng, văn hóa của dân tộc và nhân lo ạ i......................................................................................................................26 1.3. Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh................................................................54 * Kết luận chương 1 ....................................................................................................... 65 CHIƯƠNG 2. BIỆN CHỨNG CỬA T ư TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÍÓNG DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN Ở VIỆT NAÌM.................... .....................................................................................................................66 2.1. Hồ Chí Minh tiếp thu Luận cương của Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản............................................................................................................ 66 2.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản ở Việt N a m ......................................................... 77 2.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản ở Việt N a m ..........................................................98 * Kết luận chương 2 ...................................................................................................... 112 CH ƯƠ NG 3. BIỆN CHỬNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY D Ự N G CHẾ Đ ộ DẦN CHỦ NHÂN DÂN ĐỂ TIÉN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ m ộ l ở VIỆT N A M ............................................................................................................... 114 3.1. Quá trình hình thành và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhản dân ở Việt N a m ................................................................... 114 3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ...................................................................................... 132 3.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ...................... 145 * Kết luận chương 3 .......................................................................................................170 K1ỂT L U Ậ N ..............................................................................................................................172 D ANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỔ CỬA TÁC G/IẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN Á N .................................................................................... 179 D ANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 180 M Ở Đ Ầ U 1. Tính cấp thiết của đề tài “Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay. Đại h ộ i đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[34, tr. 127]. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, “tư tường Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[35, tr. 83, 84]. Đại hội X của Đảng đã tổng kết những bài học lớn từ thực tiễn 20 năm Đổi mới, trong đó, bài học đầu tiên là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[3ó, tr. 70]. Những quan điểm ứên của Đảng ta không chỉ là sự ghi nhận, đánh giá cao giá trị và vai ừò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, mà đồng thời còn đặt ra yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách đối với giới khoa học trong việc đi sâu nghiên cứu, làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm qua đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh là người yêu Tổ quốc, yêu nhân dân một cách vô cùng sâu sắc. Trong bối cảnh đất nước bị ngoại xâm, tư tưởng và tình cảm yêu Tổ quổc, yêu nhân dân thể hiện thành tư tưởng và quyết tâm giải phóng dân tộc. Vì thế, giành độc lập, tự do cho dân tộc là vấn đề đầu tiên, cơ bản, xuyên suốt và chi phối mọi vấn đề khác trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”[l 15, tr. 108]. Đồng thời, cũng chính vì lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân tha thiết, nên ngay từ đầu, suy tư của người cách mạng không dừng lại ở vấn đề giải phóng dân tộc, mà đã hướng tới vấn đề xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp 1 sau khi dân tộc đã được giải phóng. Hồ Chí Minh quan niệm “nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[107, tr. 56]. Định hướng xã hội đáp ứng được yêu cầu đó, theo Hồ Chí Minh, chính là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh quan niệm: “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mồi ngày một giàu mạnh thêm”[l 12, tr. 173]. Như vậy, nếu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh - “tài sản tinh thần vô giá” của dân tộc ta - là một nhiệm vụ lý luận quan trọng và cấp bách, thì trong đó không thể không đi sâu nghiên cứu tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, gian khổ của thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm cho lý luận về chủ nghĩa xã hội trở thành một vấn đề phức tạp, bao quát nhiều tầng bậc, cấp độ nội dung, ý nghĩa. Theo cách tiếp cận của triết học Mác, bản thân những suy tư về chủ nghĩa xã hội không thể chỉ dừng lại ở những vấn đề kinh tế, chính trị, ván hoá, xã hội thuần tuý, mà phải đi tới những vẩn đề triết học, phải được triển khai trên lập trường, quan điểm và phương pháp triết học. Với Hồ Chí Minh cũng vậy. Trong tư tưởng của Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một “cuộc chiến đấu khổng lồ”, và vì thế, muốn giành được tháng lợi, không thể không suy tư đến tận gốc rễ, ngọn nguồn của mọi vấn đề. Việc xử lý những vấn đề như: ở Việt Nam, giải phóng dân tộc và phát triển xã hội có mối quan hệ như thế nào, con đường phát triển xã hội vận động qua những giai đoạn nào, đâu là động lực của sự phát triển xã hội, đâu là căn cứ để xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, quàn chúng nhân dân có vai ữò gì ữong sự nghiệp cách mạng vì giải phóng và phát triển, V.V., đều đòi hỏi Hồ Chí Minh phải tư duy ở tầm triết học, trên cơ sở nền tảng triết học và theo phương pháp triết học. Đặc điểm trên của đối tượng nghiên cứu cho thấy, vận dụng cách tiếp cận triết học để làm rõ tính chất triết học của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là việc làm cần thiết và sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tuởng của Người về vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng này. Việt Nam luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, mô hình chủ nghĩa xã hội được triển khai trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã bộc lộ 2 nhiều hạn chế. Những nước kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa buộc phải tiến hành cải cách, đổi mới, cả về nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện nước ta ngày càng rõ hơn. Tuy nhiên, sự chuyển đổi ữong cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, V.V., - những vấn đề vốn rất mới so với nhận thức trước Đổi mới về chủ nghĩa xã hội - đã khiến không ít người băn khoăn, lo ngại về khả năng chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, trong thực tiễn công cuộc Đổi mới, cùng với những thuận lợi và những thành tựu, còn có những khó khăn, thách thức và cả những sai lầm khó tránh khỏi khiến chúng ta nếu không kịp thời nhận thức và giải quyết thì khá năng chệch hướng xã hội sẽ trở thành hiện thực. Trong bối cảnh ấy, nghiên cứu và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là từ góc tiếp cận triết học, sẽ góp phần khẳng định tính đúng đắn của mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời góp phần làm rố con đường thực hiện mục tiêu này. Đại tướng Vố Nguyên Giáp khẳng định: “việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là vấn đề rất thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách”[42, tr. 147], Với mong muốn góp phần nghiên cửu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ góc tiếp cận triết học, chúng tôi lựa chọn đề tài “Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cho Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những nghiên cứu liên quan đến đề tài “Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” rất phong phú, có thể được phân loại như sau: Thứ nhất, đó là những công trình nghiên cứu tư tường Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, bao gồm: 3 Một là những công trình trực tiếp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Trong đó tiêu biểu có công trình của PGS.TS. Phạm Ngọc Anh1và TS. Hoàng Trang: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; GS.TS. Hoàng Chí Bảo: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”; GS. Đặng Xuân Kỳ: “Dưới ánh sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh”; TS. Vũ Viết Mỹ: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; GS.TS. Phạm Ngọc Quang: “Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”; GS.VS. Nguyễn Duy Quý: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam”, “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội”; GS. Song Thành: “Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc”; GS.TS. Nguyễn Phú Trọng: “Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, V.V.. Hai là những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn như các công trình: “Vê chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do GS. Nguyễn Đức Bình chủ biên, “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đí lên chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam do GS.VS. Nguyễn Duy Quý chủ biên V.V.. Ba là những công trình nghiên cứu văn bản học liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chẳng hạn tập trích “Hồ Chí Minh: về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, công trình đĩa CD - Room Hồ Chí Minh toàn tập (2001) với phần tra cứu chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Trong những công trinh nghiên cứu khoa học nói ừên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và phác hoạ những nét cơ bản về cơ sờ hình thành, những quan điểm cơ bản và cả những đóng góp mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu biện chứng cùa tư tưởng Hồ Chí Minh vé chù nghĩa xã hội ở Việt Nam theo cách tiếp cận của Luận án. 1Các công trình được xếp theo thứ tự ABC tên tác giả. 4 Thứ hai, đó là những công trình nghiên cứu triết học Hồ C hí Minh. Có thể nêu ra ớ đây một số công trình như: “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” do GS. Đặng Xuân Kỳ chủ biên; “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” của GS. TS. Hoàng Chí Bảo; ‘ Một số vấn đề về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh” do GS. Song Thành chủ biên; “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” do GS.TS. Lê Hữu Nghĩa chủ biên; “Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Mỉnh” của TS. Nguyễn Đức Đạt; “Tìm hiểu tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh” của GS.TS. Hoàng Chí Bảo; “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” của GS. Song Thành; “Tư duy biện chứng Hồ Chí Minh” của Hoàng Tùng, V.V.. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, GS. Trần Văn Giàu, V.V., trong đó ít nhiều đề cập tới những vấn đề triết học Hồ Chí Minh Trong những công trình trên, vấn đề thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh đã được tiếp cận và giải quyết ở nhiều góc độ khác nhau, và đang ngày càng sáng tỏ. Riêng về vấn đề phương pháp luận và phương pháp triết học của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề xuất những khái niệm như “phép biện chứng Hồ Chí Minh”, “phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh”, “tư duy biện chứng Hồ Chí Minh”, “tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh”, “quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh”, “hạt nhân biện chứng” ừong phương pháp Hồ Chí Minh, V.V.. Có thể nêu ra một số ý kiến như sau: Giăng Xanhtơni, một chính khách Pháp đa nhiều lần tiếp xúc với Hồ Chí Minh nhận xét: Điều đáng chứ ý 'là, trái với những người đương thời đang cùng đi những con đường song song với Cụ, Cụ đã tỏ ra không nô lệ với những lý thuyết mà Cụ đang theo đuổi. Nếu cho rằng, phương pháp tư tưởng, lý luận và phép biện chứng của Cụ đã xa rời tư tưởng, triết học và đường lối chính trị của Cụ thi thật là sai lầm quá hiển nhiên, về những vấn đề đó Cụ không mơ hồ chút nào [71, tr. 59]. Singô Sibata, nhà sử học Nhật Bản, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu có uy tín về cách mạng Việt Nam, về tư tưởng Hồ Chí Minh thì cho rằng: một trong những đặc điểm của phương pháp tư tưởng của Người là luôn luôn nắm vững quá trình 5 ir duy biện chứng, nắm vững một cách chính xác, và cùng một lúc tính phổ biến cũng như tính đặc thù”[71, tr. 92]. Năm 1993, tại Hội thảo khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức tại Thừa Thiên - Huế, tác giả Nguyễn Khoa Điềm có một bài tham luận về Con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nêu ra khái niệm “phép biện chứng Hồ Chí Minh” và nhận xét: Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, một cống hiến đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật biện chứng đã đạt đến trình độ mới trong cách xem xét và giải quyết thực tiễn, vượt lên trên nhiều người đương thời trong thể hệ của Người để trở thành người kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng trong thời đại mới, trước một phương Đông đầy mâu thuẫn, đầy biến cố [194, tr. 23]. GS. Song Thành thì khảng định trong một công trình nghiên cứu của ông về Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh'. ... có thể nói có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, để xử lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sác Việt Nam - Hồ Chí Minh và bàng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung [166, tr. 328]. GS.TS. Hoàng Chí Bảo, tác giả của nhiều công trình về triết học Hồ Chí Minh, về phương pháp và phương pháp luận của Hồ Chí Minh thỉ quan niệm: phong cách tư duy Hồ Chí Minh trước hết đó là phương pháp, đặc biệt là phương pháp tư duy sáng tạo cùa Người. Hồ Chí Minh là một nhà biện chứng mà sự nổi trội ở Người là thực hành phép biện chứng,,[7, ữ. 14], PGS.TS. Thành Duy, một nhà nghiên cứu lâu năm về tư tưởng Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến vấn đề phương pháp luận của Hồ Chí Minh, người coi việc làm sáng tỏ phương pháp luận Hồ Chí Minh là điều kiện tiên quyết để đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng đã nhận xét: 6 Nói đến phương pháp luận Hồ Chí Minh, chúng ta còn có thể phải trình bày nhiều quan điểm khác nữa. Nhưng, ở đây, chúng tôi chi tập trung vào một điểm cơ bản nhất trong phương pháp luận Hồ Chí Minh mà cũng có thể nói là điểm cơ bản trong mọi phương pháp luận, đó là hạt nhân biện chứng [24, tr. 37]. Kết quả của những công trình trên là những đóng góp quan trọng đổi với lĩnh vực nghiên cứu phương pháp luận và phương pháp của Hồ Chí Minh, Tuy nhiên, cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo cách tiếp cận cùa Luận án. Tóm lại, việc khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy, đề tài: “Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” có thể và cần phải được đặt ra. 3. Mục đích vả nhiệm vụ nghiên cửu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó góp phần cung cấp tài liệu tham khảo phục vụ việc nhận thức và giải quyết một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3.2, Nhiệm vụ nghiên cứu: - Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở hình thành biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Thứ hai, nghiên cứu vòng khâu thứ nhất trong biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xâ hội ở Việt Nam, đó ỉà biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc theo COR đường cách mạng vô sản. - Thứ ba, nghiên cứu vòng khâu thứ hai trong biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó ỉà biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Thứ tư; nghiên cứu một số quan điểm mang tính biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xâ hội ở Việt Nam. 4. Đối tưựng và phạm vỉ nghiên cứu 4.1. Đổi tượng nghiên cứu: Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu: * về nội dung: - Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định bao gồm: Một là, quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua hai giai đoạn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội; Hai là, quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Thứ hai, biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định là quá trình hình thành, phát triển một cách biện chứng của tư tường Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và những quan điểm mang tính biện chứng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. * về tư liệu: Để thực hiện Luận án, chúng tôi sử dụng các tác phẩm của Hồ Chí Minh được in trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập gồm 12 tập do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản lần thứ hai năm 1995 và 1996. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của Luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh và về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện Luận án, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp kết hợp lịch sử - lôgic, phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp thống kê - định lượng và phương pháp so sánh, ưong đó, phương pháp chủ yếu là phương pháp kết hợp lịch sử - lôgic. 6. Cái m ới về m ặt khoa học của L uận án - Một là, khẳng định biện chứng của tư tường Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ờ Việt Nam được hình thành trên các cơ sở: Tiếp thu, vận dụng các phương pháp tu duy biện chứng; Kế thừa một cách biện chứng nhiều giá trị tư tưởng, văn hoá của dân tộc và nhân loại, của phương Đông và phương Tây, từ truyền thống đến hiện đại; Cuộc đời 8 cách mạng của Hồ Chí Minh với mục đích giải phóng triệt để con người thông qua giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. - Hai là, luận giải quá trình hình thành và phát triển một cách biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, qua vòng khâu tư tưởng về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản và vòng khâu tu tưởng về xây dựng ché độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Ba là, phân tích một số quan điểm mang tính biện chứng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là quan điểm biện chứng tổng quát về con đường giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đi tới chủ nghĩa xã hội; quan điểm biện chứng về học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của các nước anh em trong xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về mối quan hệ giữa đặc trưng mục tiêu và đặc trưng phương thức của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, và về mối quan hệ giữa con người và xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 7. Ý nghía lý luận và thụt tiễn của Luận án 7.1. Ỷ nghĩa lý luận : Luận án góp phần khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ờ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được dùng ỉàm tài liệu tham khảo ứong nghiên cửu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. 7.2. Ỷ nghĩa thực tiễn'. Luận án góp phần khảng định sự đúng đán của đường lối Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Luận án góp phần cung cấp tài liệu tham khảo phục vụ việc nhận thức và giải quyết một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xâ hội ở Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu đã được công bố của tác giả liên quan đến đề tài Luận án và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm 3 chương, 9 tiết. 9 ■VỘI D t X G €f)ương 1 c ơ s ở HlNH THÀNH BIỆN CHÚNG CỦA TƯTUỦNG Hố CHÌ MINH VỂ CHỦ NGHỈ« X ỉ HỘI ở VIỆT NAM 1.1. TIẾP THƯ, VẬN DỰNG CÁC PHƯƠNG PHÁP T ư DUY BIỆN CHỨNG 1.1.1. Nhân tố biện chứng trong phương pháp tư duy truyền thống của dân tộc Vị thế địa tự nhiên, địa chính trị, địa văn hóa đã quy định phương thức sống của người Việt và trên cơ sở ấy quy định nên phương pháp tư duy của người Việt. Trong p hương pháp tư duy ấy chứa đựng nhiều nhân tố biện chứng. Đây là điều đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định. Chẳng hạn, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho ràng loại hình văn hóa của dân tộc Việt Nam là trọng tĩnh (gốc nông nghiệp), trong đó đặc trưng về mặt nhận thức ià kiểu tư duy tổng hợp. Kiểu tư duy tổng hợp C.Ó những đặc điểm là chủ q uan (xem xét đối tượng bằng con măt của chính mình), cảm tỉnh (trực giác) và kỉnh nghiệm (kiểm ừa tính chân thực của tri thức bằng sự trải nghiệm của chính mình), song bao trùm lên tất cả là tính biện chứng. Ông viết: “Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là tập hợp của các yếu tố riêng rẽ, mà là nihững mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện c;hứng là chú trọng đến mọi mối quan hệ giữa chúng - đó chính là đặc trưng tư duy của v ăn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh mà nông nghiệp lúa nước là điển hình”[170, ừ. 40]. Trong những cơ sở hình thành nền tư tưởng và phương pháp của Hồ Chí Minh, các giá trị tư tưởng, văn hóa của dân tộc có một vai trò quan trọng. Đối với sự hình thành biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự tiếp thu, vận dụng và phát triển các nứiân tố biện chứng trong phương pháp tư duy truyền thống của dân tộc có một vai ữò qiuan trọng. Để làm rõ vấn đề Hồ Chí Minh tiếp thu phương pháp tư duy truyền thống của cLân tộc như thế nào, một trong những căn cứ quan trọng là dựa vào quan niệm và đảnh g iá của Hồ Chí Minh về phương pháp tư duy ấy. Hồ Chí Minh không bàn nhiều về 10 Đen tác phẩm Quang phục quân phương lược (1912), quan điểm của Phan Bội Châu về chế độ xã hội tương lai đã được xác định rõ trong một tổng lộ trình cách mạng: “Tôn chỉ của Quang phục quân là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam và thành lập nước Cộng hoà dân chủ”[12, tr. 134]. Như vậy con đường cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Cụ Phan là trước hết giải phóng dân tộc, sau đó kiến tạo chế độ xã hội mới, khởi đầu từ chế độ dân chủ cộng hoà. Cụ Phan viết về chính thể dân chủ cộng hoà như sau: đó là “một chính thể rất tốt đẹp... Quyền bính của nước là của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Những dấu vết độc hại của chính thể chuyên chế không còn nữa”[12, tr. 135]. Có thể nói, từ chỗ “chú trọng” vào chế độ quân chủ lập hiến, dù trong đó vua chỉ là hình thức, đến chỗ phê phán chế độ quân chủ, và đến “khuynh hướng” vào chế độ dán chủ cộng hoà, đó là một bước tiến dài ữong tư tưởng của Cụ Phan Bội Châu. Tư tưởng về xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà ở Việt Nam sau khi đánh đuổi thực dân Pháp của Cụ Phan là một tư tưởng hợp lý, đúng đắn. Điều đặc biệt, đến những năm cuối đời, Cụ Phan đã hướng cảm tình về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội. Từ tác phẩm Truyện Phạm Hồng Thái đến tác phẩm X ã hội chủ nghĩa, ta thấy Cụ Phan đã có những nhận thức bước đầu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, quan điểm của Cụ là, “không phải là tôi phản đối chủ nghĩa xã hội... Những sách về chủ nghĩa xã hội tôi đã có đọc nhiều, đã nghiên cửu rất kỹ, tôi vẫn công nhận rằng những lý thuyết ấy rất chính đáng, nhưng chưa có thể thực hành ở xứ này được”[13, tr. 370]. Theo Cụ Phan, nhiệm vụ cấp bách của dân tộc Việt Nam là giải phóng dân tộc, đó là nhiệm vụ phải làm trước, giống như người đang đói bụng, phải ăn mâm cơm để trước cửa. Còn chủ nghĩa xã hội, tuy là mâm cơm ngon hơn, nhưng mâm cơm ấy để trong nhà, “muốn được ăn cái mâm cơm ở trong nhà thì phải ăn cho hết cái mâm cơm ở trước cửa đi đã, rồi mới có đường đi vào trong nhà, chúng ta đã không thèm để ý đến cái mâm cơm ở trước cửa, thì rút cục chúng ta chỉ đứng ngoài thêm chảy nước miếng cục”[13, ứ. 370]. Quan điểm của Cụ Phan ở đây là rất rõ: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội tốt đẹp, cần phải hướng tới, song trước hết phải giải phóng dân tộc, và sau khi giải phóng dân tộc, cần phải xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà trước khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy chưa thật rõ ràng, song Cụ 36 Khi nhận thức sự biến đổi của đối tượng, phương pháp tư duy truyền thống của người Việt Nam đã chú ý đến sự biến đổi cả về mặt chất và mặt lượng , và trong đó thường nhấn mạnh đến quá trình tích luỹ về lượng, từ tích luỹ về lượng đưa tới sự biến đổi về chất: “Có bột mới gột nên hồ”; “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Phương pháp tu duy hướng tới nhận thức mối quan hệ và sự biến đổi của đối tượng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh. Người ta thấy rát rõ dấu ấn của phương pháp tư duy truyền thống trong một ẩn dụ có tính khái quát lý luận rất cao của Hồ Chí Minh về cuộc khánh chiến chống thực dân Pháp: “Nay tuy châu chấu đấu voi, Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”[109, ừ. 164], Ở đây, xu thế khách quan trong sự biến đổi về chất của hiện thực đã được Hồ Chí Minh nhận thức và sẽ từng bước hiện thực hoả thông qua quá trinh tích luỹ về lượng để đưa tới sự biến đổi về chất. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng đã thấy ra tính không triệt đế trong phương pháp tư duy truyền thống ở chỗ nó chưa hướng tới sự phát triển mà mới dừng lại ở tính tuần hioàn: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”[105, tr. 401]. Hạn chế này là khó tránh khỏi do đặc điểm của nền sản xuất gắn liền với những biến đổi có tính tuần hioàn của tự nhiên và sự biến đổi chậm chạp của đời sống xã hội do nền sản xuất ấy quy đ ịnh, nhất là trong một chế độ xã hội mà ở đó người lao động không phải là người chủ thực sự của chính mình và của toàn xã hội. Thứ ba, phương pháp tư duy của người Việt Nam có đặc điểm là luôn hướng tới mtục tiêu ngày càng tốt đẹp hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người châu Á - tuy bị người plhương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiiện tại”[104, ừ. 35]. Tư duy hướng tới cái mới, cái tốt tuy chưa hẳn đã mang tính cách miạng, song rõ ràng là nó có tác dụng tích cực đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nlhân, cũng như của toàn thể cộng đồng dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh, việc phát hiện ra đìặc điểm nói trên trong phương pháp tư duy truyền thống của dân tộc Việt Nam - 12 phương pháp tư duy thể hiện nhân sinh quan tiến bộ - có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là đối với việc xây dựng lý luận và tổ chức hiện thực hoá con đường cách mạng đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, suy cho cùng đó là sự hiện thực hoá - hiện đại hoá những khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam về một xã hội tốt đẹp hơn. Thứ tư, phương pháp tư duy của người Việt Nam chú trọng tính thực tế, tính hiệu quả. Ngay từ sớm, Người đã chỉ rõ, đối với người Việt Nam “một tấm gương sống còn có giá trị hom một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[104, tr. 263]. Hồ Chí Minh đã nhiều lần lưu ý cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước rằng, người dân luôn quan tâm đến những gì giản dị, dễ hiểu, có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ, chứ không ưa những gì trừu tượng, khó hiểu, hoặc xa lạ. Chính vỉ thế, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, nhân dân chỉ thực sự hiểu được giá trị của độc lập dân tộc, của chủ nghĩa xã hội khi các quyền lợi của họ được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của họ ngày càng được nâng cao. Có thể thấy rằng, những đặc điểm trên của phương pháp tư duy truyền thống có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được hình thành nên trên cơ sở phương thức sống của người Việt Nam. Với “năng lực quan sát thiên bẩm”, người Việt Nam chú trọng mỗi quan hệ và tỉnh khả biến của tự nhiên, xã hội và con người. Từ chồ nhận thức được tính khả biến của đổi tượng, người Việt Nam hướng tới sự đổi mới, hướng tới cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn về cả vật chất lẫn tinh thần, và trong quá trình đó, tính thực tế, tính hiệu quả được đề lên hàng đầu. Những đặc điểm cơ bản ấy tạo nên một đặc điểm chung mang tính chỉnh thể, đỏ là tính biện chứng tự phát, trong đỏ vai trỏ cùa chủ thế được coi trọng. Tính biện chứng tự phát của tư duy truyền thống người Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của quan niệm về tính tuần hoàn trong sự biến đổi của tự nhiên, xã hội và con người, song nói chung là tích cực và tiến bộ, nếu biết cách khai thác, phát huy vẫn sẽ có ích trong quá trình hiện đại hoá. Tiếp thu, vận dụng các nhân tố biện chứng trong phương pháp tư duy truyền thống của dân tộc là một cơ sở hình thành biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 13 1.1.2. Nhân tố biện chứng trong phưong pháp tư duy truyền thống phương Đông Ở phương Đông, mặc dù không phải là quê hương của khái niệm “phép biện chứng”, song trong nhiều hệ thống triết học vẫn chứa đựng những nhân tố biện chứng rất có giá trị. Chẳng hạn như trong triết học truyền thống Trung Quốc. Theo giáo sư Trương Đại Niên, một trong những nhà nghiên cứu triết học rất có uy tín của Trung Quốc, đặc điểm nổi bật cùa các quan điểm biện chứng trong triết học Trung Quốc là coi “biến hoá là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng tồn tại thực”. Các quy luật và nguyên nhân của sự biến hoá thể hiện trong thuyết “phản phục” và thuyết “lưỡng nhất”. Thuyết phản phục có rất nhiều điểm tương đồng với quy luật phủ định của phủ định và quy luật lượng chất của phép biện chứng trong triết học phương Tây. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có điểm khác căn bản. Theo quy luật phủ định của phủ định thì sự phát triển dường như quay trở về điểm xuất phát, nhưng thực ra là ở một cấp độ cao hơn, cho nên quá trình vận động là một quá trình tiến triển vô cùng tận, còn theo thuyết phản phục thì sự quay ườ về điểm xuất phát là quay về thực sự, cho nên quá trình vận động mang tính tuần hoàn. Thuyết lưỡng nhát thì lại có nhiều điểm giống với quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuần), và thậm chí ở nhiều điểm, thuyết “lưỡng nhất” còn có sự phát triển tinh vi hơn [xem 209, tr. 92-163]. Nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh cho thấy, Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo đều có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau đến sự hình thành tư tưởng của Người, trong đó, Khổng giáo có ảnh hưởng mạnh hom cả. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đinh Nho học, được đào tạo khá bài bản về Khổng giáo. Chính Người đã nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo,...”[104, ừ. 477]. Khổng giáo không phải là một tôn giáo, mà là một hệ thống tư tưởng - văn hóa hoàn chỉnh, trong đó những quan điểm tư tưởng được xây dựng ừên một nền tảng phương pháp luận chứa đựng nhiều hạt nhân biện chứng sâu sắc. Chính vì thế, Hồ Chí Minh không những đã kế thừa và phát triển nhiều giá trị tư tưởng Khổng giáo có sức sống trường tồn, mà còn tiếp thu được những nhân tố biện chứng trong hệ thống triết học ấy. Trong Luận án này, chúng tôi khảo sát những nhân tố biện chứng trong tư 14 tưởng của Khổng tử (thể hiện qua sách Luận ngữ), Mạnh tử (thể hiện qua sách Mạnh tứ) và Kinh Dịch Hồ là những nhà tư tưởng và những kinh sách tiêu biểu của Khổng giáo được Chí Minh nhác đến nhiều lần trong tác phẩm của Người. a. Nhăn tố biện chứng trong phương pháp tư duy của Khổng tử Luận ngữ là trứ tác thể hiện rõ nét tư tưởng của Khổng tử dù rằng đây không phải là tác phẩm của ông. Trong Luận ngữ ta có thể thấy tư duy biện chứng của Khổng tử thể hiện tập trung ở việc ông xem xét tự nhiên, xã hội và con người trong trạng thái biến hoá không ngừng. về tự nhiên, trong chương Tử Hãn chép lời của Khổng tử khi ông nhìn dòng sông chảy xiết: “Ôi, nước cứ vậy ừôi đều đều! Chẳng kể ngày đêm”[Tử Hãn, 16]. Trong chương Dương Hoá thì ghi lời Khổng tử nói với học trò là Tử Hiến: “Trời có nói gì chăng? Bốn mùa vận hành, các loài vật sinh sôi nảy nở. Trời có nói gì chăng?” [Dương Hóa, 18]. Rõ ràng, trong tư tưởng của Khổng tử, vũ trụ vạn vật nằm trong quá trình vận động, biến hoá không ngừng. Không có gì là tĩnh tại bất biến. Tất cả đều đang biến đổi, tất cả đều đang “trôi đi” như dòng sông mãi mãi cuộn chảy. Đ ổi với xã hội, Khổng tử cho rằng, xã hội loài người cũng giống như giới tự nhiên, tức là luôn luôn vận động, luôn luôn biến hóa. Chẳng hạn ông nói: “Tê nhất biến, chí ư Lỗ; Lỗ nhất bién, chí ư Đạo”2[Ưng Dã, 24], Đ ổi với con người, Khổng tử quan niệm rằng con người cũng không ngừng biến đổi. Sự biến đổi diễn ra ngay trong bản chất của con người. Khổng tử không quan niệm một cách cứng nhắc bản chất con người là thuần thiện hay thuần ác. Ông nói: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã”[Dưomg Hóa, 2], có nghĩa là bản tính của con người vốn tương tự nhau, xích !ại gần nhau, cố kếí với nhau. Tuy nhiên, khi con người cố kết lại với nhau thành xă hội và cùng với sự vận động và phát triển của xã hội, bản chất con người lại trở nên khác nhau - có thiện có ác, và trở nên xa cách nhau, phân biệt với nhau - có quân tử, có tiểu nhân. Để xây dựng được xã hội đại đồng thì trước hết phải xây dựng nên những người quân tử. Con đường để tạo nên người quân tử là thông qua giáo dục theo đạo Nhân - giáo dục của xã hội và tự giáo dục của mỗi người. Như vậy, cùng 2 “Nếu nước Tề (theo nhân chính) biến đổi một lần thi sẽ tiến tới trình độ của nước Lỗ, nếu nước Lỗ (theo nhân chính) biến đổi một lần thỉ s£ tiến tới trinh độ v&n minh, đúng như đạo cùa tiên vương”. 15 với sự vận động, biến đổi của xã hội, con người cũng không ngừng vận động, biến đổi. Hơn nữa, còn có thể nhận thức và tác động vào sự vận động, biến đổi ấy. Như vậy, ưong tư duy của Khổng tử, biến hóa là hiện tượng phổ biến, nhưng biến hóa ở hiện tượng lại là biểu hiện của một cái Đạo bất biến. Mọi sự biến đổi đều là biểu hiện của Đạo và hướng tới Đạo. Trong quan niệm của Khổng tử, đó là đạo Nhân, xã hội phát triển tới trình độ thực hiện được đạo Nhân thì được gọi là Xã hội đại đồng. b. Nhân tố biện chứng trong phương pháp tư duy của Mạnh tử Khi đề cập đến Khổng giáo, Hồ Chí Minh còn nhắc đến Mạnh tử và sách Mạnh tử. Trong sách Mạnh tử, tư tưởng về sự vận động, biến hoá của xã hội đã có một bước phát triển cụ thể hơn so với Khổng tử. Thứ nhất, theo Mạnh tử, xã hội không ngừng biến đổi, và con người với tư cách là chủ thể có thể tác động vào quá trình ấy. Tuy nhiên, sự tác động cần phải theo hướng đem cái tiến bộ hơn để thay thế, cải tạo cái chưa tiến bộ. Ông nói: “Ta từng nghe người ta dùng lễ giáo Hoa Hạ để biến đổi tục man di, chứ chưa từng nghe chuyện biến theo man di”[Đằng Văn công thượng, 4]. Tiến bộ là xu thế vận động tất yếu của xã hội mà con người cần phải thuận theo. Cho nên, kẻ làm vua mà “không hướng theo đạo đức, cũng chẳng để tâm trí vào điều nhân, mà mình lại mong giúp cho đánh đâu được đó thì chính là phò tá một bạo chúa như vua Kiệt vậy. Nếu cứ noi theo phép tắc đời nay (tàn hại dân lành), chẳng biến đổi phong tục (ham giàu có và hiếu chiến), dẫu có giúp cho được cả thiên hạ thì cũng không giữ nổi trong một buổi sáng”[Cáo tử hạ, 9]. Cải tạo xã hội trì trệ lạc hậu, xây dựng một xã hội tổt đẹp hơn, đó mới là sự nghiệp chân chính và là thước đo phẩm chất đạo đức và tài năng của người đứng đầu quốc gia. Đây chính là một tư tưởng biện chứng có ý nghĩa tích cực của Mạnh tử, phản ánh được nguyện vọng của nhân dân - như Hồ Chí Minh đã nhận xét [xem 104, ừ. 35]. Thứ hai, mặc dù Mạnh tử coi trọng việc cải tạo xã hội, hướng xã hội tới một trình độ phát triển cao hơn, song theo ông điều đó không thể được thực hiện một cách tùy tiện, mà phải dựa ưên cơ sở nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn “thời” và “thế”. Người có tài trí là nguời biết nắm lấy thời và thế, nhân đó mà thực hiện thành công sự nghiệp cải tạo xã hội. Mạnh tử nói: “Dân là quý nhất, sau đó tới xã tác, còn vua có thể xem nhẹ... Hễ vua chư hầu làm nguy hại xã tác, ắt nguời ta lập vua mới”[Tận 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan