MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
6
ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN
PHẨM, DỊCH VỤ
1.1.
Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
và ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
6
1.1.1. Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
6
1.1.2. ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các
dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
15
1.2.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ
16
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ trên thế giới
16
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ ở Việt Nam
20
Chương 2: Thùc tr¹ng ph¸p luËt ViÖt nam vÒ b¶o hé quyÒn
26
së h÷u c«ng nghiÖp ®èi víi c¸c dÊu hiÖu dïng
®Ó ph©n biÖt s¶n phÈm, dÞch vô
2.1.
Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
2.1.1. Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu
26
26
a) Khái niệm
26
b) Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu
28
c) Phân loại nhãn hiệu
31
2.1.2. Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý
a) Khái niệm
34
b) Điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý
37
2.1.3. Điều kiện bảo hộ đối với tên thương mại
2.2.
34
39
a) Khái niệm
39
b) Điều kiện bảo hộ tên thương mại
42
Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng
để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
43
2.2.1. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý
43
a) Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý
43
b) Trình tự xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý
45
2.2.2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
52
2.3.
Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
53
2.4.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng
để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
56
2.4.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
56
2.4.2. Những quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
61
2.4.3. Các biện pháp dân sự
62
2.4.4. Các biện pháp khác
64
a) Biện pháp hành chính
64
b) Biện pháp hình sự
67
c) Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan
đến sở hữu trí tuệ
69
Chương 3:
Thùc tr¹ng ¸p dông ph¸p luËt vÒ b¶o hé
71
quyÒn së h÷u c«ng nghiÖp ®èi víi c¸c dÊu
hiÖu dïng ®Ó ph©n biÖt s¶n phÈm, dÞch vô ë
ViÖt Nam cïng mét sè khuyÕn nghÞ hoµn
thiÖn ph¸p luËt
3.1
Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
71
3.1.1. Thực trạng xác lập quyền sở hữu công nghiệp
71
3.1.2. Thực trạng vi phạm
72
3.1.3. Thực trạng xử lý vi phạm
75
3.2
Những khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ
77
MỤC LỤC
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
94
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHHH
Nhãn hiệu hàng hóa
SHCN
Sở hữu công nghiệp
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TLT
Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu
TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) xuất hiện cùng
với sự phát triển của giao lưu thương mại nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu
đối với các đối tượng SHCN. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp vẫn
không ngừng vận động và phát triển theo hướng mở rộng các quyền năng cho
chủ sở hữu, mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ. Vấn đề bảo hộ
SHCN không chỉ là vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia mà nó chính là vấn đề
mang tính toàn cầu trong bối cảnh tự do hóa, toàn cầu hóa thương mại hiện
nay.
Nền kinh tế Việt Nam có một bước ngoặt được đánh dấu bằng Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 trong đó Đảng và Nhà nước ta đã
dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu hành chính, bao
cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, thực hiện nhất quán chính
sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình
đổi mới về kinh tế đã ngày càng chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã và đang vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Lúc này, các doanh nghiệp cũng dần có được quyền bình
đẳng trong hoạt động kinh doanh với môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tình
hình này cũng làm giảm đáng kể sự độc quyền, sự độc quyền chỉ còn tồn tại
đâu đó trong một số ngành cung cấp có tính chất đặc biệt còn hầu hết là sự
phong phú của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra bởi các thành phần kinh tế khác
nhau. Do vậy, người tiêu dùng đang dần trở thành "thượng đế" theo đúng
nghĩa của nó. Hàng hóa đa dạng, dịch vụ phong phú cũng khiến các doanh
nghiệp để mời được "thượng đế" đến với mình buộc phải coi trọng và có sự
thay đổi liên mục mẫu mã, chủng loại hàng hóa của mình trên thị trường
nhưng đồng thời chữ tín ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm xây
2
dựng dựa vào các thương hiệu… Bởi, một trong những cơ sở để người tiêu
dùng lựa chọn chính là những dấu hiệu thể hiện trên bao bì, nhãn mác, giấy tờ
giao dịch, quảng cáo của sản phẩm, dịch vụ. Có rất nhiều dấu hiệu để người
tiêu dùng có thể nhận biết được hàng hóa sản phẩm như: nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý…Và những dấu hiệu này làm phát sinh trách
nhiệm của chính doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, đối với xã hội, bởi
chúng chính là yếu tố quan trọng giúp người tiêu dùng xác định sản phẩm,
dịch vụ mà họ mong muốn.
Tuy vậy, một mặt các nhà sản xuất, kinh doanh phải lo phục vụ cho
người tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ với
chất lượng tốt nhất, một mặt khác để tồn tại họ buộc phải đối mặt với nạn
hàng nhái, hàng giả đang tràn ngập trên thị trường với những sự sao chép, mô
phỏng, nhái theo ngày càng tinh vi. Tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đang ngày càng diễn ra một cách tràn lan và có quy mô, thủ đoạn ngày
càng tinh vi và rộng khắp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh
doanh lành mạnh mà pháp luật đang bảo vệ; quyền lợi của người tiêu dùng
cũng vì thế mà không được đảm bảo. Chính vì vậy, vấn đề phải xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung
và bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa (NHHH), tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý đang ngày càng trở nên bức xúc đối với những người kinh
doanh chân chính, đây cũng là đòi hỏi làm trong sạch thị trường nhằm bảo vệ
cho quyền lợi của người tiêu dùng. Khi thực hiện được các bảo hộ này là
đương nhiên chúng ta đã thực hiện được đòi hỏi trong sạch và lành mạnh hóa
thị trường.
Trong bối cảnh hiện nay, khi nhu cầu hội nhập là vấn đề mang tính tất
yếu khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế toàn cầu
thì vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp càng được đặt ra là vấn đề bức thiết của
bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam từ 2001 đến 2010 đã chỉ rõ một trong những mục tiêu cơ bản
3
trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam là "chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta
nhằm đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa
phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập
WTO..". Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, APEC… và ngày
14/11/2006 đánh dấu một điểm mốc quan trọng, chúng ta đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này
càng đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp trước những
thách thức mới bởi chúng ta phải thực hiện những quy định đã cam kết đặc
biệt là Hiệp định TRIPS. Trước những yêu cầu khách quan đó, ngày
19/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) được Quốc hội khóa IX nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2006.
Đây là lần đầu tiên những quy định về SHTT được thống nhất và quy định
chặt chẽ trong một bộ luật.
Đó cũng chính là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài "Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
theo quy định của pháp luật Việt Nam" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Luật SHTT mới được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ 1 tháng 7 năm 2006.
Luật SHTT đã có những quy định khá mới mẻ, cập nhật như những quy định
về xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng, những quy định về chỉ
dẫn địa lý, quyền tự bảo vệ khi có xâm phạm của chủ thể quyền SHCN…
Bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ đã được nghiên cứu rất nhiều nhưng đó có thể chỉ là các nghiên cứu của
các luận văn tốt nghiệp Đại học hoặc các nghiên cứu mang tính riêng lẻ của
từng loại dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ mà thôi. Còn để
4
nghiên cứu tổng hợp thì cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào cụ
thể về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân
biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, bản chất, nội dung,
của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, vai trò và ý nghĩa của
việc bảo hộ. Muốn vậy chúng tôi đã có sự nghiên cứu về sự hình thành pháp
luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ trên thế giới và ở Việt Nam. Với mục đích nghiên cứu như trên,
nhiệm vụ cụ thể của luận văn là:
- Tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền SHCN
đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền
SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ, so sánh với
các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, từ đó chỉ ra
những định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các
dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Những điểm mới của luận văn thể hiện ở những điểm sau:
- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách tổng hợp về bảo hộ
quyền SHCN đối với nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
gồm Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu theo quy định của Luật
SHTT 2005.
- Nghiên cứu một cách hệ thống nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt
sản phẩm, dịch vụ này với tư cách là đối tượng quyền SHCN và các biện pháp
bảo vệ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch
vụ theo Luật SHTT 2005.
5
- Dựa vào việc phân tích thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với các
dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ trong thời gian qua, Luận văn
chỉ ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối
với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến nhóm các đối tượng dấu hiệu
dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ bao gồm Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý
và Nhãn hiệu cùng với việc đánh giá thực trạng bảo hộ quyền SHCN đối với
những đối tượng này ở Việt Nam từ đó đưa ra những kiến giải nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối
với các đối tượng này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như sau: Phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật
lịch sử; phương pháp thống kê; so sánh; tổng hợp; điều tra xã hội học...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với các
dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ ở Việt
Nam cùng một số khuyến nghị hoàn thiện pháp luật.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ
1.1. VAI TRÒ CỦA CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM,
DỊCH VỤ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ
1.1.1. Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ
Một cách rất tự nhiên, ngay từ thời cổ đại con người đã có ý muốn cá
biệt hóa kết quả sản phẩm lao động của mình bằng cách sử dụng các dấu hiệu
khác nhau: tên gọi riêng, ký hiệu riêng, tên gọi địa lý… "nhiều bằng chứng
cho thấy, từ thời cổ đại các nhà sản xuất đã sử dụng các dấu hiệu để chỉ ra nơi
ở của mình (tức nơi xuất xứ hàng hóa) Ví dụ: Khoảng thế kỷ thứ IV trước
Công nguyên đã xuất hiện những dấu hiệu dùng để phân biệt các loại rượu
vang của Hy Lạp, mật ong Xixili…" [26] Qua khoảng thời gian lâu dài, với
những kinh nghiệm sản xuất phong phú được tích lũy, những nơi mà có thêm
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất sản phẩm được trở thành những
vùng chuyên sản xuất sản phẩm đó, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tên vùng, tên khu vực đó được nổi tiếng và khi nhắc đến chúng người ta liên
tưởng ngay đến các sản phẩm đặc trưng có chất lượng cao của vùng. Vì vậy,
đã hình thành nên quy luật sử dụng các dấu hiệu địa lý cho các sản phẩm uy
tín xuất xứ từ vùng, khu vực nổi tiếng đó.
Nhãn hiệu từ lâu đã được sử dụng để nhận biết nguồn gốc của sản
phẩm. Có bằng chứng về việc từ xa xưa tới 4.000 năm về trước thợ thủ công ở
Trung Quốc, Ấn Độ và Ba Tư đã sử dụng chữ ký của họ hoặc biểu tượng để
phân biệt sản phẩm của họ. Thợ gốm La Mã đã sử dụng hơn 100 nhãn hiệu
7
khác nhau để phân biệt tác phẩm của mình, nổi tiếng nhất là nhãn hiệu Fortis
mà nhiều sản phẩm giả đã bắt chước. Người ta tin rằng các thợ thủ công đó đã
sử dụng nhãn hiệu cho nhiều mục đích, bao gồm sử dụng để quảng cáo cho
người làm ra các sản phẩm đó, làm bằng chứng để khẳng định sản phẩm thuộc
về một thương gia cụ thể nào đó khi có tranh chấp về sở hữu cũng như sử
dụng làm một sự đảm bảo về chất lượng. Rồi từ chính sự phát triển của quá
trình phân công lao động và trao đổi hàng hóa đã hình thành những xưởng thủ
công, những cơ sở sản xuất thủ công… chuyên sản xuất một số sản phẩm nhất
định, nhãn hiệu được bắt đầu bằng những dấu hiệu riêng rất đơn giản để phân
biệt hàng hóa giữa những xưởng, cơ sở sản xuất thủ công mang tính chất
phường hội. Trong thời Trung cổ, việc sử dụng nhãn hiệu đã được gắn với
phát triển và tăng trưởng của thương mại, do đó có thuật ngữ "nhãn hiệu hàng
hóa". Nhãn hiệu đã được sử dụng để chỉ ra rằng một sản phẩm do một thành
viên của một phường hội được biết đến là có kinh nghiệm trong ngành buôn
bán đó làm ra. Trong tiếng Pháp, thuật ngữ được sử dụng là "marque
deposée" trong đó deposée có nghĩa là nhãn hiệu đã được đăng ký với một
phường hội buôn bán.Thời kỳ này cũng đã có sự giao thương quốc tế, buôn
bán hàng hóa giữa các quốc gia, châu lục như con đường tơ lụa bắt đầu từ
Hàng Châu, Trung Quốc xuyên qua các quốc gia như Mông Cổ, Ấn Độ,
Iran… đến Hy Lạp, vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu… nhưng giao
thương quốc tế vẫn chưa thực sự phát triển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
vào thế kỷ XVI - XVII dưới tác động to lớn của cách mạng khoa học công
nghệ đặc biệt vào những năm 70, 80 của thể kỷ XIX, nền công nghiệp tư bản
chủ nghĩa đã có thể sản xuất các sản phẩm hàng loạt, những phát minh quan
trọng trong lĩnh vực vận tải đã làm mở cửa thị trường quốc tế. Những sản
phẩm mới phục vụ cho cuộc sống tiện nghi hơn liên tiếp được ra đời và sản
xuất hàng loạt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Những sản phẩm từ
sản phẩm gia dụng như: từ cây kim, sợi chỉ đến quần áo, giày dép rồi dụng cụ
8
gia đình… và cả những sản phẩm công nghệ cao như đồ điện lạnh, điện tử…
được sản xuất hàng loạt và phạm vi tiêu thụ của nó không chỉ còn trong phạm
vi một quốc gia hay vùng lãnh thổ nhất định nào mà phát triển mở rộng trên
toàn thế giới. Những công ty xuyên quốc gia, những tập đoàn toàn cầu đã tạo
nên cuộc cạnh tranh trên thị trường và ngày càng trở nên gay gắt. Tên thương
mại là tên gọi được dùng để nhận biết doanh nghiệp, nó giúp phân biệt chủ
thể này với chủ thể khác trong cùng một ngành nghề, một lĩnh vực. Đây cũng
chính yếu tố quan trọng để thể hiện uy tín của doanh nghiệp. Do vậy, nhu cầu
về việc phân biệt sản phẩm, dịch vụ thông qua các dấu hiệu là nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý không chỉ đơn giản là việc đánh dấu sự phân biệt
giữa sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại mà nó trở thành công cụ để
định vị trong chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Giá trị của
chúng không chỉ đơn giản dừng lại ở việc là công cụ để cạnh tranh mà nó trở
thành tài sản vô giá của doanh nghiệp. Như vậy, việc sử dụng độc quyền
SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ là nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã trở thành nhu cầu sống còn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh
tranh, vấn đề phân biệt các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Việc cá thể hóa chủ thể kinh doanh và hoạt động kinh doanh của họ là một
trong những điều kiện tiên quyết để làm cơ sở cho việc hình thành và củng cố
uy tín kinh doanh cũng như mở rộng phạm vi hoạt động của các chủ thể.
Việt Nam, trong nhiều năm qua, với nhiều nỗ lực Luật SHTT đã ra đời
đánh dấu một bước phát triển trong sự phát triển của pháp luật về sở hữu trí
tuệ. Tại Điều 1 Luật SHTT 2005 quy định: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền
của tổ chức và cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật
kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh".
9
Sử dụng phương pháp liệt kê như vậy, cũng để định nghĩa về quyền sở
hữu công nghiệp cũng là để phân biệt với quyền tác giả trong SHTT. Bởi lẽ
cũng là sản phẩm trí tuệ nhưng nếu các sản phẩm này không liên quan đến
việc tạo ra của cải, vật chất cho xã hội thì được bảo hộ bằng quyền tác giả còn
nếu các sản phẩm đó gắn với sản xuất kinh doanh, có khả năng áp dụng để tạo
ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ bằng quyền sở hữu công
nghiệp. Thuật ngữ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chỗ các đối tượng
của loại hình sở hữu này là tài sản vô hình nhưng lại áp dụng vào hoạt động
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp để tạo ra các sản phẩm vật chất do đó có
giá trị kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Người nào là chủ sở
hữu của những tài sản vô hình này thì được khai thác lợi ích kinh tế từ chúng
và có lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy để được bảo hộ thì các
đối tượng đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định theo quy định của pháp
luật. Có những đối tượng chỉ được bảo hộ khi được cơ quan có thẩm quyền
cấp văn bằng bảo hộ, nhưng cũng có những đối tượng không được bảo hộ
thông qua hệ thống cấp văn bằng bảo hộ. Một trong những phần không thể
thiếu trong quy trình của sở hữu công nghiệp khi mà các đối tượng vô hình
của quyền sở hữu công nghiệp lại tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh
tạo ra sản phẩm cho xã hội, lúc đó buộc các nhà kinh doanh phải để ý đến
những nhân tố như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý… Các nhân tố
đó chính là các đối tượng, là công cụ xúc tiến kinh doanh, chúng mang giá trị
kinh tế to lớn nhưng là giá trị vô hình trong sản phẩm hữu hình, chúng ta thấy
chúng có thể không mang tính sáng tạo cao như sáng chế hay giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp… nhưng chúng lại là sự thể hiện uy tín, chất lượng và
phải do có những điều kiện nhất định (ví dụ đối với chỉ dẫn địa lý, phải có
những điều kiện tự nhiên ưu đãi nhất định mà chỉ nơi vùng miền đó có, hoặc
ví dụ đối với nhãn hiệu, hay tên thương mại, cần phải có sự minh chứng về
chất lượng, uy tín của sản phẩm, hay của doanh nghiệp đó) qua một khoảng
thời gian) mới có thể tạo nên được sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị
10
trường.
Như vậy, có thể thấy các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch
vụ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cụ thể:
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối
với nền kinh tế:
Nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ gồm nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, theo chúng tôi thực hiện hai chức năng
kinh tế vĩ mô chủ yếu đó là (1) giúp người tiêu dùng quyết định về sự lựa
chọn của họ đối với sản phẩm trên thị trường; (2) khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư vào việc phát triển, cung cấp hàng hóa, dịch vụ với chất lượng mà
người tiêu dùng mong muốn.
Hiện nay, khi Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tầm quan trọng về kinh
tế, văn hóa của quyền sở hữu công nghiệp đã tăng lên đáng kể. Sự thay đổi
nhận thức về quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ chính sự thay đổi nội tại
của nền kinh tế.. Nguyên nhân khách quan dẫn đến sự phát triển của lĩnh vực
sở hữu công nghiệp trong nước chính là sự phát triển công nghệ trên thế giới
trong suốt mấy thập kỷ qua, thêm vào đó là sự gia tăng đáng kể của các hoạt
động thương mại quốc tế. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự tồn tại của các công
ty đa quốc gia, các tập đoàn toàn cầu với những dải sản phẩm đa dạng từ sản
phẩm tiêu dùng đến những sản phẩm công nghệ cao, những cái tên như
Unilever cùng những nhãn hàng toàn cầu của họ như: OMO, POND’S… rồi
Microsoft, Intel, Samsung, hay General Electric… Sự phát triển công nghệ
diễn ra một cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự
sáng tạo này làm thay đổi tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ mới. Để khuyến
khích sự sáng tạo cần phải bảo hộ SHCN, đặc biệt là bảo hộ SHCN đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ.
11
Đối với nước ta, vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình đổi mới đất nước cũng như trong việc đưa nền kinh tế hội nhập nền kinh
tế khu vực và thế giới. Chúng ta đang xuất khẩu mạnh các mặt hàng nông sản,
thực phẩm chế biến, giày dép, quần áo, hàng thủ công mỹ nghệ… với chất
lượng ngày càng cao đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của các thị trường
khó tính như EU, Mỹ… Tuy nhiên, gần tới 90% hàng Việt Nam vẫn phải vào
thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng gia công thô hoặc gia công
cho các thương hiệu nổi tiếng thế giới của nước ngoài [60]. Chúng ta cũng đã
có những bài học về việc chậm đăng ký nhãn hiệu trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, dẫn đến những tổn thất to lớn về kinh tế, điển hình như vụ
tranh chấp nhãn hiệu của Petro Vietnam và cà phê Trung Nguyên tại thị
trường Hoa Kỳ, của thuốc lá Vinataba tại thị trường châu Á, phồng tôm Sa
Giang tại Pháp và châu Âu…
Sự gia tăng đáng kể các doanh nghiệp với nhiều loại hình của các
thành phần kinh tế là nguyên nhân chủ quan của sự phát triển của lĩnh vực sở
hữu công nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế thị trường
đều muốn khẳng định tính ưu việt của mình, vị trí của mình thông qua các dấu
hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu. Hiện nay, trong nước, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có
những chiến lược phát triển rõ ràng trong việc khai thác các thế mạnh của
mình, chúng ta thấy có sự chuyển giao khai thác nhãn hiệu nhằm phát huy
tính cạnh tranh của nhãn hiệu đó như việc Tập đoàn Unilever nổi tiếng khi
đầu tư ở Việt Nam đã mua lại nhãn hiệu kem đánh răng P/S với giá 7.5 triệu
USD, và họ cũng đã chớp cơ hội để đầu tư khai thác chỉ dẫn địa lý ‘Phú
Quốc’ với sản phẩm nước mắm Knorr Phú Quốc [48].
Chính sự phát triển không ngừng của các thành tựu khoa học công nghệ
đã khẳng định được vị trí then chốt của các tài sản vô hình - sở hữu công nghiệp.
Giá trị của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ không chỉ thể hiện
ở lợi ích của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế mà còn có lợi ích chung của
12
toàn xã hội thể hiện ở việc bảo hộ các đối tượng này cũng khẳng định vị trí của
doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, tạo ra sự phát triển bình đẳng, lành mạnh
của thị trường. Và nó càng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt khi những sản
phẩm, dịch vụ của chúng ta đến tay người tiêu dùng quốc tế, nó không chỉ
góp phần phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước mà còn là sự khẳng định vị
thế, thương hiệu của quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối
với các doanh nghiệp:
Nói một cách khái quát nhất, nhóm các dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ này có thể giúp doanh nghiệp: khẳng định uy tín; tách biệt sản
phẩm; đẩy mạnh lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra; tăng cường sự chung thủy
của khách hàng; hỗ trợ sự thích ứng với áp lực cạnh tranh; phát huy khả năng.
Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chỉ nhận thấy quyền
sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng là dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ là một quyền được Nhà nước bảo hộ mà chưa nhận thấy hầu
hết quyền SHCN đối với các đối tượng là dấu hiệu dùng để phân biệt sản
phẩm, dịch vụ là một lợi thế cạnh tranh dành cho chính họ. sinh lợi; tăng thêm
tiền thù lao qua chương trình li-xăng; tạo cơ sở cho franchise;
Xét dưới góc độ vốn, quyền SHCN nói chung thuộc hình thức vốn vô
hình của thương nhân. Đây là tài sản có giá trị lớn trong khối tài sản của doanh
nghiệp. Chúng ta đã thấy có những nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới được định
giá đến con số hàng tỷ USD như: Coca-Cola 69,6 tỷ USD, Microsoft 64 tỷ
USD, IBM 51,1 tỷ USD, General Electric 41,3 tỷ USD, Intel 30,8 tỷ USD,
Nokia 29,9 tỷ USD… [48].
Xét dưới góc độ thương mại, các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ là biểu trưng uy tín của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của doanh
nghiệp nhằm phân biệt doanh nghiệp đó với các doanh nghiệp khác. Thông
qua các dấu hiệu đó thương nhân có thể tiếp cận thị trường và giao dịch thương
13
mại. Chúng ta đã có những bài học xương máu về việc doanh nghiệp không
nhạy bén dẫn đến việc bị mất nhãn hiệu trên một số thị trường lớn như EU,
như Mỹ… những nhãn hiệu như cà phê Trung Nguyên… đã phải rất khó khăn
mới lấy lại được nhãn hiệu của mình.
Hiện hình thức nhượng quyền, cho thuê, thuê tên thương mại đang
ngày càng phổ biến ở Việt Nam, đã xuất hiện những chuỗi nhà hàng thức ăn
nhanh Burger, rồi KFC trên thị trường cả nước nhất là tại các thành phố lớn
với sức tiêu thụ lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… đặc
biệt một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu của
thị trường và tham gia vào việc chuyển nhượng thương hiệu của mình ở cả thị
trường trong và ngoài nước như Cà phê Trung Nguyên, hiện nay trên 61 tỉnh
thành của cả nước đã có đến hơn 400 cửa hàng cà phê mang tên Trung Nguyên...
hay một số khác như Phở 24, thời trang Nino Maxx… Hình thức này mang
đến cho doanh nghiệp sự chủ động trong việc kinh doanh và phát triển nguồn
tài sản vô hình nhưng có giá trị to lớn của mình và hiện tại ở nhiều nước phát
triển trên thế giới hoạt động cho thuê một số đối tượng tài sản vô hình được
điều chỉnh bởi các hợp đồng mang tên "franchise" [23].
Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nhận thức một cách đầy đủ về giá trị của
các dấu hiệu này mà các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa sử dụng được
hết các quyền mà pháp luật đã dành bảo vệ cho họ, chính vì vậy mà các doanh
nghiệp đã không những làm mất đi các lợi ích kinh tế chính đáng của mình,
làm mất đi lợi thế cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp trên thương trường.
Đây không chỉ là thiệt thòi cho bản thân doanh nghiệp mà còn là sự mất mát
lớn đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, chúng ta không
chỉ mất đi thương hiệu của doanh nghiệp mà thậm chí mất đi cả thương hiệu
của cả quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
* Vai trò của các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đối
với người tiêu dùng:
14
Qua điều tra sơ bộ của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
trong số những người tiêu dùng ở Thành phố Hồ Chí Minh được phỏng vấn,
89% cho rằng nhãn hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm [54].
Lý do chủ yếu là nhãn hiệu tạo cho họ sự yên tâm về thông tin xuất xứ, tin tưởng
vào chất lượng sản phẩm, tiết kiệm về thời gian tìm kiếm thông tin, giảm rủi
ro… Kết quả này cho thấy ngày nay nhận thức của người tiêu dùng về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ đã cao hơn rất nhiều so với trước đây và đây cũng
chính là thách thức đòi hỏi bản thân doanh nghiệp, các hiệp hội làng nghề, các
cơ quan chủ quản… phải quan tâm và đầu tư thích đáng cho việc phát triển
nguồn vốn quý giá này.
Hiện nay, trong xu thế mở cửa kinh tế, sự lựa chọn của người tiêu
dùng được mở rộng, không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ những hàng hóa, dịch
vụ nội địa mà còn là những sản phẩm, dịch vụ của những quốc gia khác trong
đó có cả của những quốc gia đã rất phát triển. Chúng ta vẫn cho rằng tâm lý
của người tiêu dùng là sính hàng ngoại nhập, chỉ lựa chọn những sản phẩm đã
có uy tín của nước ngoài, nhưng trên thực tế không phải hoàn toàn như vậy,
chúng ta cũng đã có những nhãn hiệu có thể được xem là nhãn hiệu nổi tiếng
đối với người tiêu dùng Việt Nam bởi uy tín và chất lượng đã được kiểm định
qua thời gian như: sữa Vinamilk, cà phê Trung Nguyên, sứ cao cấp Minh
Long… Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp, vẫn có những
nhãn hiệu, những chỉ dẫn địa lý, những tên thương mại gắn sâu vào tiềm thức
người tiêu dùng về chất lượng của sản phẩm và uy tín của chúng vẫn còn
nguyên giá trị tới bây giờ: những nhãn hiệu như Thuốc lá Thăng Long, giày
vải Thượng Đình… hay những sản phẩm truyền thống của các làng nghề,
vùng miền… những chỉ dẫn địa lý vàng cho việc lựa chọn sản phẩm không
chỉ của người tiên dùng trong nước mà cả người tiêu dùng quốc tế như: nước
mắm Cát Hải, nước mắm Phú Quốc, bưởi Đoan Hùng, gốm Bát Tràng…
Các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ đã thể hiện vai trò
đặc biệt quan trọng của chúng trong việc giúp người tiêu dùng định hướng
15
nhu cầu và lựa chọn sản phẩm mong muốn, đồng thời nó cũng chính là một
trong những động lực tích cực để cạnh tranh giữa những nhà sản xuất nhằm
tạo niềm tin và kích thích sức mua của người tiêu dùng.
1.1.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ
Với vai trò quan trọng không chỉ đối với nhà sản xuất, kinh doanh,
người tiêu dùng mà cả với nền kinh tế, việc bảo hộ quyền SHCN đối với các
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa to lớn thể hiện qua các
khía cạnh sau:
- Trước hết việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các nhãn
hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý sẽ thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới
kỹ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc
mọi thành phần kinh tế, bảo đảm độc quyền khai thác sử dụng đối tượng để
chủ sở hữu thu lợi, là biện pháp hữu hiệu để khuyến khích mọi tổ chức, cá
nhân nghiên cứu sáng tạo và áp dụng các kỹ thuật tiến bộ tạo ra những sản
phẩm, dịch vụ mới thu hút được người tiêu dùng bằng con đường cạnh tranh
lành mạnh, hợp pháp. Đồng thời, đó cũng chính là cách để buộc các nhà sản
xuất, kinh doanh thực hiện cam kết về uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ
của mình đối với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội.
- Việc bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ
dẫn địa lý còn là biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
sẽ yên tâm hơn nếu họ được tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững
chắc an toàn khi đầu tư vào Việt Nam dưới một tên thương mại được bảo hộ
hay đưa vào Việt Nam hàng hoá, dịch vụ dưới một nhãn hiệu, một chỉ dẫn địa
lý được công nhận. Đặc biệt khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu
lực thì việc bảo hộ các đối tượng này sẽ càng có ý nghĩa lớn lao bởi toàn bộ
các nội dung của Hiệp định này đều có liên quan đến hoạt động SHTT nói
chung và SHCN nói riêng.
16
- Bảo hộ quyền sở hữu đối với các đối tượng trên còn liên quan mật
thiết đến lợi ích kinh tế của các quốc gia bởi việc bảo hộ các đối tượng này
là một trong những công việc mà Việt Nam chúng ta đang nỗ lực thực hiện,
nhất là trong bối cảnh chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
- Việc bảo hộ quyền SHCN đối với các đối tượng này còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bởi vai trò của
các đối tượng này chính là giúp cho người tiêu dùng chọn lựa sản phẩm,
dịch vụ phù hợp giữa những nhóm sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Chúng là
những yếu tố giúp người tiêu dùng tránh bị lừa dối hoặc nhầm lẫn khi lựa
chọn sản phẩm, dịch vụ nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà hàng nhái,
hàng giả tràn lan trên thị trường và ngay cả các cơ quan chức năng cũng khó
mà phát hiện ra.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÁC DẤU HIỆU DÙNG ĐỂ PHÂN
BIỆT SẢN PHẨM, DỊCH VỤ
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm,
dịch vụ trên thế giới
Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với các dấu hiệu dùng để phân
biệt sản phẩm, dịch vụ trên thế giới đã có từ rất lâu. Điều này xuất phát bởi vai
trò đặc biệt quan trọng của các dấu hiệu này đối với nền kinh tế.
Tại Pháp, năm 1857 Luật nhãn hiệu đầu tiên được ban hành. Theo luật
này, quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa thuộc về người thực hiện sớm nhất (so
với người khác) một trong hai việc là sử dụng nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu
theo quy định của Luật. Nếu một người đăng ký một nhãn hiệu nhưng thời
điểm đăng ký sử dụng nhãn hiệu đó lại sau người đăng ký thứ hai thì quyền
17
- Xem thêm -