Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự luận văn ths. luật 60 38...

Tài liệu Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự luận văn ths. luật 60 38 40

.PDF
106
12
80

Mô tả:

Uỡé ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO BẢO ĐẢM QUYẾN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HỈNH s ự ■ _ Chuyên ngành : Luật hình sự M ã sô : 60 38 40 LUẬN VẢN THẠC s ĩ LUẬT HỌC • • • • Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân Ị đ a i h ọ c q u ố c g ia h a n ọ ỉ I TRUNG TÁMliirnTHÔNG TIN THƯ VIÊN ....... 丨 ------- I ir-nirML*n--P , W i __ I■■ ■ !■ ■ ■ ....... , V- L0/ HÀ NỘI _ 2009 L Ờ I CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cửu khoa học của riêng tôi. Các sô liệ u ,ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy9 chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được a i công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VẢN Nguyễn Thị Phương Thảo MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa L ờ i cam đoan M ục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1 :MỘT số VẤN ĐỀ CHUNG VỂ QUYỂN BÀO CHỮA 6 CỦA 1.1. BỊ CÁO Khái niệm quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của 6 bị cáo 1.1.1. Khái niệm về quyền bào chữa của bị cáo 6 1.1.2 . Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo 9 1.2 . Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và ý nghĩa 15 1.2 . 1. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là nguyên tắc hiến định 15 1.2 .2 . Ý nghĩa việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo 18 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định bảo 21 đảm quyền bào chữa ở V iệt Nam Chương 2 :QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THựC TRẠNG BẢO ĐẢM 25 QUYỂN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG T ố TỤNG HÌNH Sự 2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của bị 25 cáo trong tố tụng hình sự 2.1.1. Đ ịa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của bị cáo 25 2.1.2. Nghĩa vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo 34 đảm quyền bào chữa của bị cáo 2.2. Thực trạng và nguyên nhân hạn chế việc bảo đảm quyền bào 43 chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự 2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng 42 hình sự 2.2.2. Nguyên nhân hạn chế việc bảo đảm quyền bào chữa của bị 52 cáo trong tố tụng hình sự 2.2.2.1. Nguyên nhân do quy định của pháp luật 52 2.2.2.2. Nguyên nhân từ phía người tiến hành tố tụng 59 2.2.2.3. M ột số nguyên nhân khác 64 Chương 3 :MỘT s ố G IẢ I PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM QUYỂN BÀO 68 CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG T ố TỤNG HÌNH sự TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 3.1. Những yêu cầu về cải cách tư pháp 68 3.2. Những giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo 70 trong tố tụng hình sự 3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật 70 3.2.2. Giải pháp vể công tác cán bộ Tòa án 82 3.2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án, nhất là Thẩm phán, H ội 82 thẩm nhân dân có đủ trình độ chuyên môn năng lực xét xử và có đạo đức phẩm chất nghề nghiệp 3.2.2.2. Đảm bảo chính sách, chế độ đối với cán bộ Tòa án và cơ sở 86 vật chất tạo điều kiện cho cán bộ Tòa án hoạt động xét xử án hình sự đạt hiệu quả 3.2.3. Những giải pháp khác 87 KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân KSV : Kiểm sát viên VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Sô hiệu Tên bảng Trang Thống kê số lượng án và số bị cáo đã xét xử 5 năm trong 44 bảng 2.1 toàn tỉnh Thái Bình M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tàỉ Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08-N Q /TW về m ột số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong giai đoạn tới. N ghị quyết đã đề ra những nhiệm vụ trọng tâm là: K h i xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho m ọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp lu ậ t; phán quyết của Tòa án p hải căn cứ chủ yếu và kết quả tranh tụng tạ i phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn,bị đơn và những người có quyền lợ i ích hợp pháp… để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [10]. Vấn đề này tiếp tục đề cập trong N ghị quyết số 49-N Q /TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung: Đ ổ i m ới việc tổ chức phiên tòa xét xứ, xác định rỗ hơn vị tr í , quyền hạn y trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tạ i các phiên tòa xét xửy coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [12]. V ớ i tinh thần nêu trên của nghị quyết cho thấy Tòa án là m ột trong những cơ quan tư pháp sẽ được cải cách thời gian tới. V ì Tòa án là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp, nơi mà kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp... được kiểm tra, đánh giá, xem xét công khai và khách quan thông qua thủ tục tố tụng để ra các phán xét cuối cùng mang tính quyền lực nhà nước xác định bị cáo có tội hay không có tội. Song tất cả những chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra phần nhiều đều mang tính chất buộc tội. Mà việc xem xét những chứng cứ nêu trên biểu hiện dân chủ nhất tại phần tranh tụng công khai tại phiên tòa, ở đó tất cả những người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đều có quyền bình đẳng ngang nhau, những người bị buộc tội được đưa ra chứng cứ lý lẽ để phản bác lại quan điểm của bên buộc tội. Nhưng thực tế, do có hạn chế về đặc điểm thể chất hoặc tinh thần, hay hạn chế về trình độ hiểu biết pháp luật nên không phải bất cứ người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực hiện được và thực hiện có hiệu quả quyền bào chữa của mình. Cho nên cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo nguyên tắc tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đã quy định: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật nàyv [37 ]. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các vẩn đề lý luận liên quan đến vai trò của Tèm án trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo có ý nghĩa rất quan trọng của hoạt động cải cách tư pháp thời gian tói và chiến lược trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyển xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam của dân, do dân, vì dân - bảo đảm pháp chế XHCN, bảo đảm nguyên tắc "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học luật tố tụng hình sự đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề bào chữa trong tố tụng hình sự. Trong số các công trình đó phải kể đến sách của TS. Phạm Hồng Hải: uBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tộ ĩ}\ bài 2 viết của TS. Nguyễn Văn Tuân: ,’Bảo đảm quyền có người bào chữa của bị can bị cáo trong tố tụng hình sứ}\ TS. Trần Vãn Độ: "Nguyẻn tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can,bị cáo trong tố tụng hình sựy\ chuyên đề của TS. Phan Trung Hoài: "Bàn về mối quan hệ giữa chức năng buộc tội - bào chữa và xét xử trong xét xử án hình sứ'\ luận án tiến sĩ luật học của Hoàng Thị Sơn: ”Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình Si/1; bài viết của Nguyễn Tiến Đạt: "Đám bảo quyền của người bị tạm giữy bị can,bị cáo trong tô tụng hình sự Việt Nam” … Những công trình nghiên cứu cũng như bài viết này, dù ở mức độ, phạm vi khác nhau đã thể hiện tương đối rõ nét vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong quá trình tố tụng hình sự. Những đề xuất trong các công trình, bài viết đó rất có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu, học tập và áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử - giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng. Thực tế việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo cho thấy đã đạt được quyền con người, quyền công dân được đề cao... Song một số thành tựu như: bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế bất cập trong hoạt động thực tiễn đã dẫn đến tình trạng xử lý oan, sai. Để nâng cao và làm rõ hơn cơ sở lý luận - thực tiễn của việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; tác giả đã chọn đề tài "'Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự' làm luận vãn tốt nghiệp với mong muốn đề ra các giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của chế định này trong quá trình xét xử các vụ án hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài * M ục đích nghiên cứu của đề tà i Đề tài nghiên cứu thực trạng về quyền bào chữa và bảo đảm cho bị cáo được thực hiện đầy đủ quyền của mình trong hoạt động xét xử, chỉ ra những 3 hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về quyền bào chữa, bên cạnh đó đưa ra những để xuất nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. * Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài - Làm rõ hơn về mặt lý luận về quyền bào chữa và đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân của những yếu kém, bất cập trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử án hình sự. - Đề xuất những quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trên phương diện nâng cao chất lượng xét xử án hình sự. * Phạm vi nghiên cứu đề tà i , Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là một vấn đề phức tạp và còn có nhiều quan điểm. Bởi vậy trong phạm vi của một luận văn cao học không thể xem xét và giải quyết được hết mọi vấn đề mà phạm vi của đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu nội dung quy định về "Báo đảm quyền bào chữa của bị cáo và một số quy định liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự' trong hoạt động xét xử tại Tòa án. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở tiếp cận từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể và sử dụng các phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, chứng minh. Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình trong năm 2009 và có tham khảo ý kiến của cán bộ làm công tác xét xử. 5. Những đóng góp của luận văn Từ kết quả nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về ”Báo đảm quyền bào chữa của bị cáo” luận văn có những đóng góp sau: 4 - Làm rõ hơn quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự theo hướng dân chủ, nhân đạo và tiến bộ hơn. - Thấy được thực trạng và những hạn chế khi áp dụng pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo để tìm ra những quy định còn thiếu và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. - Trên cơ sở phân tích những hạn chế trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và nhận thức của bị can bị cáo trong việc thực hiện quyền bào chữa. - Luận văn có thể sử dụng như tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của các ngành, các cơ quan bảo vệ pháp luật và mọi người dân. 6. K ế t cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: M ột số vấn đề chung về quyền bào chữa của bị cáo. Chương 2: Quy định pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Chương 3: M ột số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo ưong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp. Chương 1 M Ộ T SỐ V Ấ N Đ Ể C H U N G V Ể Q U Y ỂN B ÀO C H Ữ A CỦA B Ị CÁO 1.1. K H Á I N IỆ M Q UYỂN BÀO CHỮA V À BẢO Đ Ả M Q U YỂN b à o CHỮA CỦA B Ị CÁO 1.1.1. Khái nỉệm về quyền bào chữa của bị cáo Trên thực tế ít có tác giả đề cập đến "Khái niệm quyền bào chữa của bị cáo” ,vì đây là một khái niêm đơn lẻ, bởi lẽ người bị buộc tộ i có quyền bào chữa thuộc về ba chủ thể "người bị tạm giữ, bị can và bị cáo’1nên nhiều lác giả đề cập đến ,’K hái niệm quyền bào chữa” nói chung bao gồm cả ba chủ thể trên. Song hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà khoa học pháp lý cũng như cán bộ làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật về khái niệm quyền bào chữa. Trong cuốn "Giáo trình luật tố tụng hình sự’’ Giáo sư M .x . Xtrôgôvich người Nga ông cho rằng: "Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tớ i việc bãi bỏ sự buộc tộ i và xác định bị can không có lỗ i hoặc làm giảm trách nhiệm của bị can” • Và ông cho rằng: "Quyển bào chữa của bị can bị cáo là tất cả những quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo để bảo vệ mọi sự buộc tội và được bị can bị cáo sử dụri\J92 dể bãi bỏ sự • • 參 • 參 • • • • • 參 buộc tộ i,để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình” [Dẫn theo 16, tr. 14]. Như vậy theo tác giả thì chủ thể thực hiện quyền bào chữa là bị can và quyền này được thực hiện thông qua các quyền tố tụng mà pháp luật quy đinh cho họ để hướng đến việc bãi bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình. Song quan điểm này chưa được tất cả các nhà khoa học và luật gia thừa nhận. 6 Theo quan điểm của A. Xu kharev và p. Paskevich can có khả năng chống lạ i sự buộc tộ i hoặc thông qua sự giúp đỡ của người bào chữa” • Hay qùan điểm của Ph.N. Phatkulin cho rằng: Bào chữa không chỉ thể hiện trong các hành vi tố tụng mà còn thể hiện trong các quan hệ tố tụng phù hợp với chúng… bào chữa không chỉ dừng lạ i ở việc bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tộ i và đưa ra cá tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nó thậm chí được thể hiện trong việc đảm bảo các quyền và lợ i ích được pháp luật được bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên liên quan tớ i việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án [Dẫn theo 16, tr. 16]. Theo quan điểm này thì bào chữa không chỉ là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm mà còn có sự tổng hòa các quan hệ tố tụng nhằm hướng tớ i mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc tộ i tốt hơn và đảm bảo các quyền lợ i ích hợp pháp của người đó trong vụ án. Phạm vi quyền bào chữa ở đây được tác giả mở rộng hơn. M ột số tác giả khác có quan điểm "quyền bào chữa thậm chí có cả trong trường hợp không có sự buộc tộ i” . Theo quan điểm này của tác giả thì phạm vi quyền bào chữa mở rộng ra rất nhiều, tức là kể cả sự khởi đầu của vi phạm, có khi chỉ là những lỗ i hành chính đơn thuần quyền bào chữa vẫn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở V iệt Nam trước khi có BLTTHS năm 1988 thì quyền bào chữa của người bị buộc tộ i và quyền nhờ người bào chữa của họ chỉ được thực hiện khi toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng chuyển sang Tòa án. Lúc này quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo. v ề sau BLTTHS năm 1988 và năm 2003 đã khắc phục thiếu sót này, mở rộng chủ thể quyền bào chữa cho bị can, bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và thời điểm bào chữa xuất hiện từ khi khởi tố bị can. 7 Quy định trong BLTTHS của một số nước XHCN trước đây thì "quyền hào chữa của bị can,được coi là hạn chế,vì họ chỉ có quyền bào chữa trong trong một số vụ án cụ thể"• Điều 73 BLTTHS Bungri quy định 3 trường hợp người bào chữa được tham gia từ khi khởi tố bị can: "1 ) Bị can là người chưa thành niên; 2) B ị can là người cố nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không tự bào chữa được; 3) K hi có sự đồng ý của Kiểm sát viên nếu sự tham gia của người bào chữa không gây khố khăn trong việc xác định chân lý khách quan vụ ánn [Dẫn theo 16, tr. 18]. V ới quan điểm này quyền bào chữa của bị can được coi là hạn chế, họ chỉ được nhờ người bào chữa trong các trường hợp nhất định và đặc biệt, còn các trường hợp khác họ phải tự bào chữa, quy định như trên thể hiện quyền lợ i của người bị buộc tội chỉ thuộc về một số người nhất định mà không phải dành cho tất cả những người bị buộc tội. Luật sư, TS. Phạm Hồng Hải đã định nghĩa: Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tô tụng do người bị tạm giữ, bị can, b ị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tộ i của các cơ quan tiến hành tố tụng y làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình ^ [ 1 6 , tr. 29]. Như vậy ta thấy rằng, khái niệm về quyền bào chữa được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Song tác giả cho rằng, khái niệm của các quan điểm tương đối xác đáng và khá thuyết phục. Đã nêu được lên những đặc trưng cơ bản của việc bào chữa cho đối tượng bị buộc tội. Song để có khái niệm riêng về quyền bào chữa của bị cáo ta phải xem xét những đặc trưng cơ bản sau: - Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự thuộc về người bị buộc tộ i và ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng. Đó là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án. Những người này được sử dụng các biện pháp do luật định để tự bảo vệ quyền và lợ i ích hợp pháp của mình và bình đẳng với Kiểm sát viên (KSV) trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận tại phiên tòa. 8 - Mục đích sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự là nhằm bảo vệ các quyền và lợ i ích hợp pháp của người bị buộc tộ i khỏi sự v i phạm có thể từ phía những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác. - Quy trình bào chữa thực hiện bởi người bị buộc tội, đại diện hợp pháp của họ (nếu có) hay do người mà bị can, bị cáo nhờ hoặc chỉ định được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. - Việc bào chữa được diễn ra công khai tại phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Có một sự thống nhất là: bào chữa được hiểu là việc dùng lý lẽ, chứng cứ, để bảo vệ quyền và lợ i ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Còn quyền là khái niệm pháp lý để chỉ những điều mà luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. V ớ i những phân tích nêu trên và căn cứ vào quy định của BLTTHS tác giả luận văn xin đưa ra khái niệm quyền bào chữa của bị cáo như sau: Quyền bào chữa của bị cáo là tổng th ể các quyền mà pháp luật quy định cho bị cáo để sử dụng nhằm chống lạ i một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ các quyền và lợ i ích hợp pháp khác của b ị cáo công khai tạ i phiên tòa, có sự tham gia đầy đủ của các bên tố tụng. 1.1.2. Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị cáo Bảo đảm theo nghĩa chung nhất ” ỉả làm cho chắc chắn thực hiện được những gì cần thiết, là trách nhiệm của một chủ thể ị cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền,lợ i ích của chủ thể bên kia chắc chắn được thực hiện, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi thường” [41]. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo có những đặc trưng sau: 9 - Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ (tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa). - Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa của bị cáo. V ới đặc trưng trên cho thấy ”bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là việc cơ quan và người có thẩm quyền tạo điều kiện để bị cáo thực hiện quyền bào chữa trong tiến trình tố tụng theo quy định của pháp luật” [41]. Và để thực hiện quyền bào chữa của mình bị cáo cần có những bảo đảm sau: * Bảo đảm bằng quy định pháp lu ậ t K hi vụ án có quyết định đưa vụ án ra xét xử là xuất hiện tư cách bị cáo, bị cáo lúc này là người tham gia tố tụng có những quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 50 BLTTHS và một trong những quyền cơ bản của bị cáo là quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (điểm e khoản 2 Điều 50 BLTTHS). Nhưng để thực hiện quyền bào chữa gỡ tội cho mình bị cáo được pháp luật bảo đảm dưới hai hình thức. Đó là '、 Tự bào chữ a" (bào chữa do chính bị N hờ người khác bào chữa” (bào chữa dưới sự giúp đỡ cáo thực hiện) hoặc '、 của người bào chữa). Hai hình thức này tiến hành song song và có thể sử dụng trong tất cả các trường hợp một cách đầy đủ. Thứ nhất: B ị cáo tự bào chữa. K h i nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, bị cáo biết mình bị đưa ra xét xử về tội gì theo khung khoản nào của điều luật quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Bị cáo lên kế hoạch khai báo tại phiên tòa. Tại phiên tòa bị cáo có thể nhận tội, hoặc không nhận tội, hay nhận tội ở một mức độ nhất định, kể cả việc bị cáo có quyền im lặng không khai báo. Hay bị cáo 10 nhận tội nhưng không đưa ra tình tiết tương ứng với lý lẽ của họ thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án không thể ép buộc họ xuất trình chứng cứ khẳng định sự nhận tộ i mà phải tự mình xác minh tính đúng đắn của việc nhận tội đó và làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án theo quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003 'Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tộ i” và quy định Điều 72 BLTTHS năm 2003: '、 L ờ i nhận tộ i của bị can y bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án. Không được dùng lờ i nhận tội của bị can y bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tộ i”. V ì vậy mà bị cáo luôn có quyền bào chữa giảm nhẹ lỗ i cho mình trong bất kỳ tình huống nào. Song trên thực tế cho thấy việc bị cáo uTự bào chữa” thường đem lại hiệu quả không cao. Bởi lẽ khi bị bắt giữ, bị cáo bị hạn chế một số quyền cơ bản, không được tiếp xúc với người ngoài và những người liên quan khác (trừ khi phải đối chất), nên bị cáo không được thu thập chứng cứ, không được xem xét tài liệu do cơ quan điều tra thu thập, từ đó có những ý kiến bảo vệ quyền lợ i cho mình, vì vậy việc tự bào chữa của bị cáo rất khó khăn và hạn chế. Thứ hai: N hờ người khác bào chữa. V iệc nhờ bào chữa của bị cáo được thông qua những người sau: - Người đại diện hợp pháp của bị cáo. - Luật sư, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý. V ớ i quyền và nghĩa vụ của người bào chữa quy định tại Điều 58 BL1THS,kh i tham gia tố tụng họ có quyền thu thập chứng cứ có lợ i bênh vực cho bị cáo và đi đến mục đích gỡ tội để bị cáo vô tội hoặc làm giảm nhẹ tội. So với việc bị cáo tự thực hiện quyền bào chữa thì người bào chữa do bị cáo nhờ đem lại hiệu quả cao hơn rất nhiều. Bởi lẽ người bào chữa có quyền được thu thập tài liệu đồ vật tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ bị cáo, 11 người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan tổ chức cá nhân theo yêu cầu của bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Hay đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu theo hướng có lợ i cho bị cáo như yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu thấy cần thiết và có lợ i cho người được bào chữa. Được gặp gỡ bị cáo đang tạm giam để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư nguyện vọng của bị cáo. Trên cơ sở đó người bào chữa thu thập những tình tiết gỡ tội cho bị cáo. Qua gặp gỡ trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề pháp luật và có thể tác động đến bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt, rõ ràng hơn để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đọc và ghi chép sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án giúp người bào chữa nắm được nội dung vụ án, tìm được những chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội của bị cáo, trên cơ sở đó họ chuẩn bị cho việc bào chữa. Qua việc đọc hồ sơ tài liệu vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện phát hiện những sai lầm thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền bảo đảm quyển lợ i cho bị cáo. Tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa, tại phiên tòa người bào chữa có quyền hỏi bị cáo, những người khác về những vấn đề của vụ án để có được câu trả lờ i có lợi cho bị cáo. K hi tranh luận người bào chữa phân tích, lập luận đưa ra lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lờ i buộc tộ i bị cáo. K hi tham gia tố tụng, người bào chữa có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợ i ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ sự thật, bảo vệ pháp chế. Hai mặt này có mối liên hệ mật thiết với nhau, muốn bảo vệ tốt cho người bị buộc tội thì phải tôn trọng sự thật và pháp chế, muốn bảo vệ pháp chế thì phải làm tốt nhiệm vụ của mình, Cho nên khi người bào chữa bảo vệ lọ i ích của bị cáo song với tư cách là người góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, người bào chữa luôn thực hiện nhiệm vụ bào chữa trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan • • 參 • • 參 參 i và tôn trọng pháp luật. V ì vậy người bào chữa không được chiều theo ý của bị 12 cáo để bào chữa bênh vực quyền lợ i cho họ trái sự thật và pháp luật. Do đó bên cạnh quyền, người bào chữa còn có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do luật định để làm sáng tỏ tình tiết xác định bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ lợ i ích hợp pháp của họ. Nếu bị cáo không đồng ý thì người bào chữa có quyền từ chối bào chữa nhưng không bao giờ được phép kết tội bị cáo trước tòa vì nếu người bào chữa làm như vậy là trái với chức năng của người bào chữa. Song khi đã nhận bào chữa thì người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị cáo mình đã đảm nhận, nếu không có lý do chính đáng. Những quyền nêu trên không chỉ là quyền mà còn là biện pháp quan trọng để người bào chữa bảo vệ quyền, lợ i ích hợp pháp của người bị buộc tội. V ới quy đinh này người bào chữa có quyền tự mình tiến hành các hoạt để thu thập chứng cứ, chủ động đưa ra các tài liệu đồ vật liên quan đến vụ án vào bất kỳ thời điểm nào, hay đề xuất các yêu cầu trong quá trình tố tụng như yêu cầu giám định, giám định lại, đối chất, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn... khi có căn cứ pháp lý, gặp người làm chứng, người bị hại, xem xét văn bản của các cơ quan liên quanr... Từ những chứng cứ tài liệu thu thập đã tạo cho người bào chữa có nhiều tài liệu để so sánh xâu chuỗi quá trình vi phạm của người bị buộc tội tìm ra những điểm thuận lợ i để gỡ tội cho họ. Trong khi đó người bị buộc tội (nếu đã bị tạm giữ, tạm giam) trước khi ra xét xử công khai tại phiên tòa, họ không thể biết ngưòi làm chứng, ngưòi bị hại khai thế nào, các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có nội dung ra sao để chuẩn bị bào chữa cho mình. Tuy nhiên dù bảo đảm quyền bào chữa ở hình thức nào cũng đều hướng tớ i sự gỡ tội cho bị cáo, làm sáng tỏ tình tiết khách quan của vụ án, bảo đảm sự chính xác đúng pháp luật của hoạt động tố tụng đem lại sự bình đẳng giữa cá nhân của một con người với một bên là quyền lực nhà nước thông qua những người tiến hành tố tụng mà đứng giữa hai sự đối lập này nếu không có sự "gỡ tộ i” sẽ làm cho cán cân công lý dễ bị thiên lệch về bên công quyền. 13 * Bảo đảm từ phía cơ quan,người tiến hành tố tụng và các tổ chức liên quan Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo gắn liền với nhiệm vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng và để thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, ngoài việc kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ Tòa án nói riêng nhất là lực lượng Thẩm phán, Nhà nước đã thành lập và cho phép thành lập một số cơ quan, tổ chức như Đoàn luật sư, các tổ chức trợ giúp pháp lý... để nâng cao quyền bào chữa của bị cáo. Các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, VKS,Tòa án. Thời gian qua được thay đổi nhiều, giản lược một số chức năng nhiệm vụ để tập trung nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án. Do quyền bào chữa của bị cáo chỉ được thực hiện và phát huy công khai dân chủ nhất trong quá trình xét xử tại phiên tòa, còn các giai đoạn tố tụng khác chỉ là quy trình thu thập chứng cứ nhằm mục đích thực hiện việc bào chữa. Mà chức năng xét xử, là một dạng hoạt động đặc thù của Tòa án, khác với hoạt động của cơ quan tư pháp khác. Nên trong những năm gần đây, việc tuyển dụng cán bộ Tòa án đã được nâng cao, chất lượng đào tạo Thẩm phán được chú trọng. Thẩm phán khi được phân công hồ sơ đã làm hết trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nếu bị cáo có yêu cầu nhờ người bào chữa đã hướng dẫn các thủ tục liên quan và tạo điều kiện cho người bào chữa thu thập tài liệu phục vụ cho việc bào chữa. Trong quá trình xét xử đã kết hợp cùng với H ội thẩm nhân dân (H TND ) bảo đảm m ọi quyền lợ i cho bị cáo tại phiên tòa, giúp bị cáo bình đẳng quyền bào chữa của mình với bên buộc tội. Các Đoàn luật sư hiện nay được tổ chức và hoạt động theo Luật Luật sư đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chính quy, chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền và lợ i ích hợp pháp của công dân, hạn chế tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự. Hiện nay các Đoàn luật 4 I X
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan