Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập nhóm tố tụng hình sự đề 11 ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi...

Tài liệu Bài tập nhóm tố tụng hình sự đề 11 ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong

.DOC
10
171
62

Mô tả:

Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 LỜI MỞ ĐẦU Mỗi ngành luật nói chung và Luật Tố tụng hình sự nói riêng đều có những nguyên tắc cơ bản, trong hoạt động tố tụng hình sự đó là những kim chỉ nam cho mọi hoạt động, định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn. Ngoài những quy tắc chung như: pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật... thì với tư cách là một ngành luật độc lập, LTTHS có những nguyên tắc của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ tố tụng hình sự cũng như có những biểu hiện đặc thù. Một trong những nguyên tắc đó là: Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự. Trong bài tập nhóm này sẽ trình bày những nội dung của nguyên tắc này và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. NỘI DUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. 1. Cơ sở pháp lý Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 đã ghi nhận một trong những quyền cơ bản của con người đó là quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan theo đó: “Khi một người ra quyết định chung thẩm bị kết án về một tội hình sự sau đó bản án bản án bị hủy bỏ hoặc nếu người đó lại được tuyên vô tội…thì người đó theo luật có quyền yêu cầu được bồi thường…”. Đây cũng được coi như một nguyên tắc hiến định, được qui định tại Điều 72 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2009 ( 2001 chứ?): “…Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.” Tiếp thu tư tưởng đó, BLTTHS 2003 qui định vấn đề này tại Điều 29 như sau: “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi; Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.” Hiện nay, nguyên tắc này được qui định cụ thể và thực hiện trên thực tế căn cứ trên Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước 2009 (LTNBTNN) thay thế cho Nghị quyết 388/2003/NQ –UBTVQH ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền. Việc pháp luật qui định nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan cũng xuất phát từ trách nhiệm chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 1 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 mình, các chủ thể này phải xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Trong quá trình tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi và quyết định của mình. Trong thực tiễn tố tụng, không loại trừ những trường hợp làm oan người vô tội. Do đó, cùng với việc quy định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cần phải quy định về quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. 2. Nội dung của nguyên tắc - Điều 29 BLTTHS 2003. Nguyên tắc bảo đảm quyền bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự , quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 29 BLTTHS 2003 được thể hiện ở hai nội dung sau: Thứ nhất: Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cụ thể, khoản 1 Điều 4 Luật TNBTNN 2009 quy định: “Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này.” Người bị oan là những đối tượng sau: - Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; - Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; - Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; - Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; - Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 2 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành; - Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; - Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường. Những hoạt động và quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã mang lại những hậu quả bất lợi đối với những đối tượng nêu trên, các quyền công dân cơ bản của họ bị vi phạm thì họ có quyền được bồi thường thiệt hại và khôi phục danh dự. Thứ hai, Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan, người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan đã làm oan có trách nhiệm phải bồi thường là các cơ quan tiến hành tố tụng, gốm: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Ngoài ra, còn một số các cơ quan khác có quyền tiến hành các hoạt động tạm giữ và khởi tố bị can khác như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển…Những cơ quan này chủ động giải quyết bồi thường cho người bị oan, nhân thân của người bị oan theo quy định của pháp luật. Thiệt hại được bồi thường bao gồm những thiệt hại về vật chất và tinh thần theo quy định của pháp luật như: thiệt hại do tổn thất về tinh thần; thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị oan chết; thiệt hại về vật chất trong trường hợp người bị tổn thất về sức khỏe; thiệt hại trong trường hợp tài sản của người bị oan bị xâm hại…Việc bồi thường được tiến hành trên cơ sở thương lượng hoặc Tòa án giải quyết. Cụ thể trách nhiệm bồi thường đặt ra đối với các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự như sau: - Trách nhiệm bồi thường của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự qui định tại Điều 30 LTNBTNN 2009. - Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự qui định tại Điều 31 LTNBTNN 2009. - Trách nhiệm bồi thường của Toà án nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự qui định tại Điều 32 LTNBTNN 2009. Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 3 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, xét xử, thi hành án hình sự có nghĩa vụ phải hoàn trả theo quy đinh của pháp luật (cụ thể tại Chương VII LTNBTNN 2009). Như vậy, bằng các quy định trên của pháp luật về những trường hợp một người được coi là bị oan, được bồi thường thiệt hại và những cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp nêu trên cho thấy các nhà làm luật đã ghi nhận và đảm bảo thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bồi thường thiệt hại khi họ bị oan. Thêm vào đó, việc khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan cũng được quy định rõ ràng tại điều 51 Luật TNBTTH 2009. Bằng các quy định trên, khẳng định nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan được quy định tại điều 29 BLTTHS và đã được cụ thể hóa và đảm bảo thực hiện bằng LTNBTNN năm 2009. 3.Ý nghĩa của nguyên tắc Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn đó là: Nhằm mục đích đảm bảo quyền con người, khôi phục các quyền và lợi ích của người bị oan trong tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong các hoạt động tố tụng, làm cho việc giải quyết vụ án ngày càng đúng đắn và hợp pháp hơn. Đồng thời ngăn chặn những hậu quả xấu đối với người bị oan về: quyền tự do thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tinh thần, tài sản của công dân bị xâm phạm. Thể hiện sự kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta trong việc khắc phục các trường hợp làm oan người vô tội và xử lý những người có trách nhiệm, đảm bảo các quyền và lợi ích cơ bản của công dân, qua đó, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP. 1. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự 1.1 Những kết quả đạt được Dựa trên nền tảng là quy định tại Điều 29 BLTTHS năm 2003, tiếp đó là Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 và mới nhất là năm 2010, LTNBBNN có hiệu lực đánh dấu một bước tiến đáng kể cho việc thực hiện nguyên tắc này, với việc quy định một cách cụ thể, rõ ràng căn cứ xác định thiệt hại, các trường hợp được bồi thường thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường, thủ tục giải quyết bồi thường cũng như việc cấp kinh phí bồi thường… tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Điều này thể hiện quan điểm của Nhà nước rất coi trọng vấn đề giải quyết thỏa đáng quyền lợi cho người bị thiệt hại do hành vi của cơ quan nhà nước, thể hiện được tính dân chủ trong tư tưởng lập pháp của nước ta. Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 4 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 Theo báo cáo của các cơ quan tư pháp, trong những năm qua các cơ quan này đã tích cực, chủ động trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan và đạt được những kết quả nhất định, cụ thể:  Đối với ngành Tòa án: Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành thẩm định và làm thủ tục đề nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí bồi thường tổng cộng 83 vụ với 86 người bị kết án oan, tổng số tiền chi trả bồi thường là 9.562.063.000 đồng1. Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2011 của Tòa án nhân dân tối cao năm 2010 thì chỉ tính riêng trong năm 2010 Tòa án các cấp đã thụ lý 26 đơn yêu cầu bồi thường do bị kết án oan, đã thương lượng thành công 23 trường hợp.  Đối với ngành kiểm sát: tính đến hết năm 2009 ngành kiểm sát đã tổ chức tiếp nhận và bồi thường 147 trường hợp với tổng số tiền bồi thường là 8,9 tỷ đồng. Trong đó có 42 trường hợp quá trình thương lượng, bồi thường thiệt hại về vật chất không thành, người được bồi thường đã khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự ra Tòa án2.  Đối với các ngành khác, công tác giải quyết bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan cũng được thực hiện một cách nghiêm túc bảo đảm khắc phục thiệt hại một cách nhanh chóng, kịp thời cho người bị oan. Điều này được thể hiện trực tiếp trong các báo cáo tổng kết hàng năm hay báo cáo trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hộ, kỳ họp Ủy ban thường vụ Quốc hội của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan đến hoạt động này. Những kết quả đạt được cho thấy sự nỗ lực, chủ động của các cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người bị oan. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho nền pháp chế của dân, do dân và vì dân mà nước ta đang xây dựng. 1.2. Những vướng mắc trong việc bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự Bên cạnh những thành tựu đạt được kể trên thì việc bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự cũng gặp phải một số vướng mắc như sau: Thứ nhất, hạn chế liên quan đến hoạt động lập pháp: - Về các trường hợp được bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 26 LTNBTNN: Khoản 1 điều 26 quy định trường hợp được bồi thường đầu tiên đó là: “Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật”. Điều này có thể hiểu, nếu họ bị tạm giữ và có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ không được bồi thường. Tuy nhiên hiểu thế nào về “hành vi vi phạm pháp luật”? Hiện nay vẫn chưa có văn bản giải thích rõ điều này. Theo ngôn từ của luật, “hành vi vi phạm pháp luật” có thể bảo gồm vi phạm 1 2 Tòa án nhân dân tối cao (2010), Công văn số 48/TANDTC-TK ngày 17/3/2010 về việc trả lời chất vấn Đại biểu Quốc hội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo công tác tổng kết năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010. Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 5 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 trong cả các lĩnh vực như hành chính, lao động, dân sự, hôn nhân và gia đình…Như vậy, nếu họ bị tạm giữ oan và sau đó người ta phát hiện họ đã vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực đã nêu trên thì họ không được bồi thường. Điều này đã không bảo đảm tối đa quyền lợi của những người bị tạm giữ oan, vì ở một số ngành luật như: dân sự, hôn nhân và gia đình…thì dù họ có hành vi vi phạm pháp luật cũng không được áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ. Do vậy, pháp luật quy định như vậy là chưa được thỏa đáng và chưa bảo vệ được quyền lợi cho những người bị tạm giữ oan. Khoản 4 Điều 26 LTNBTNN 2009 (trích ở phần nội dung), theo quy định này thì có những trường hợp mặc dù người đó bị khởi tố, truy tố, xét xử oan về một hoặc một số tội nào đó những hình phạt của những tội còn lại bằng hoặc nhiều hơn so với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì họ cũng không được bồi thường. Tuy nhiên, trong thực tế, một người không phạm tội một hoặc một số tội mà lại bị cơ quan có thẩm quyền kết luận là họ phạm tội đó, đặc biệt là những tội liên quan đến quan hệ tình dục, quan hệ nhân thân thì sự ảnh hưởng về tinh thần của người bị oan ở đây là không nhỏ, vậy ai sẽ bù đắp những thiệt hại về tinh thần này cho họ? Trong trường hợp này mặc dù họ không bị tước đoạt đi quyền tự do thân thể quá mức mà họ phải chịu nhưng họ lại bị xâm phạm quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm – một nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 7 BLTTHS. Do vậy, quy định này của pháp luật vẫn chưa bảo đảm được quyền lợi của những người bị oan do lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng. - Về trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan, quy định này vẫn có phần chưa chặt chẽ. Theo quy định của luật, thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người được bồi thường là thủ tục bắt buộc do cơ quan có trách nhiệm bồi thường tổ chức. Quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết việc bồi thường thiệt hại ra Tòa chỉ được thực hiện sau khi đã tiến hành thương lượng. Vậy nếu cơ quan có trách nhiệm bồi thường không tổ chức thương lượng thì cơ quan nào sẽ có thẩm quyền giải quyết quyền lợi cho người bị oan. Vấn đề này cần được các nhà làm luật chú ý để bảo vệ quyền lợi cho người bị oan. - Về vấn đề khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị oan. Điều 51 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định về các trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải khôi phục danh dự cho người bị oan. Tuy nhiên, việc khôi phục này chỉ được thực hiện khi rơi vào một trong ba trường hợp quy định tại khoản 1, 2 và 3 điều 26. Có thể thấy quy định này vẫn chưa thỏa đáng, bởi khi đã làm oan cho những người vô tội thì dù ở bất cứ mức độ nào cũng sẽ ảnh hưởng đến danh dự của người bị oan nên việc khôi phục danh dự, quyền lợi cho họ cần được thực hiện trong tất cả các trường hợp. Việc bị oan ở đây là bị quy kết oan về việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nên dù ít hay nhiều cái nhìn của xã hội đối với người bị oan cũng sẽ xấu đi. Do vậy, việc khôi phục danh dực cho người bị oan phải được mở rộng hơn so với quy định của pháp luật hiện nay. Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 6 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 Thứ hai:hạn chế liên quan đến hoạt động thực hiện pháp luật: - Nhiều trường hợp các cơ quan giải quyết vụ án không xác định được cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết quyền lợi cho người bị oan dẫn đến tình trạng quyền lợi của người bị oan không được giải quyết. Khi giải quyết một vụ án, các cơ quan phải phối hợp với nhau chặt chẽ, toàn diện. Chính vì vậy, khi có oan sai, việc xác định lỗi thuộc về cơ quan nào không phải là vấn đề đơn giản. - Nhiều cơ quan khi nhận được đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại đã chậm trễ trong việc xác định thiệt hại và tổ chức thương lượng hay thực hiện việc bồi thường không đúng thủ tục theo quy định của pháp luật làm cho quyền và lợi ích của người bị oan không được bảo đảm. Nhiều trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại lờ đi hoặc kéo dài việc bồi thường thiệt hại, hay xem nhẹ việc phục hồi danh dự cho người bị oan, sợ uy tín của cơ quan bị ảnh hưởng nên chỉ lẳng lặng bồi thường vật chất cho họ mà không tiến hành việc xin lỗi, cải chính công khai, khiến cho quyền lợi của người bị oan không được giải quyết một cách thỏa đáng. Ví dụ: vụ việc của anh Phạm Việt Nam Hòa Bình. Từ hành động giúp một người bị tai nạn giao thông đưa vào viện nhưng ngay ngày hôm sau anh lại bị bắt tạm giam vì người bị hại khai chính anh Bình là thủ phạm gây ra vụ tại nạn. Ròng rã qua bốn năm, 18 tháng ngồi tù và 17 lần ra tòa với ba phiên tòa của các cấp xét xử mới tuyên anh Bình không phạm tội, anh mới được minh oan. Anh được VKSND TP HCM hỗ trợ 30 triệu đồng một cách lặng lẽ mà không được xin lỗi công khai trên báo chí. Ngoài việc bồi thường về vật chất, anh muốn "danh dự phải được khôi phục để mọi người biết đến nỗi oan ức của mình cũng như gây dựng lại niềm tin trong xã hội" nhưng giờ đây quyền lợi hợp pháp, chính đáng vẫn chưa trọn vẹn3. Thứ ba: hạn chế liên quan đến các hoạt động khác Trình độ hiểu biết pháp luật của người bị oan và thân nhân của họ cũng đang gây ra những trở ngại cho việc giải quyết quyền lợi cho chính bản thân người bị oan. Đa số các trường hợp họ thường đưa ra mức bồi thường quá cao khiến cho việc thương lượng giữa họ với cơ quan trực tiếp bồi thường không thành nên phải nhờ Tòa án giải quyết. Điều này khiến cho việc bồi thường trở nên chậm trễ, ảnh hưởng đến chính quyền lợi của người bị oan. Ví dụ: Vụ ông Hoàng Minh Tiến bị oan. Ông đã yêu cầu VKSND Hà Nội bồi thường 4,072 tỷ đồng cho 13 khoản mà ông và gia đình phải gánh chịu trong thời gian vướng vào vòng lao lý. Trong số này có tiền tổn thất tinh thần, tiền lương, tổn thất do không triển khai được hợp đồng với đối tác khi ông bị bắt giam... Giữa VKSND Hà Nội và ông Hoàng Minh Tiến đã có nhiều buổi thương lượng, nhưng mới thống nhất được một số khoản tiền cơ bản. Theo đó, phía VKS chỉ chấp nhận bồi thường gần 28 triệu đồng, vì thế ông Tiến đã kiện VKSND Hà Nội và nhờ tòa án quận Hai Bà Trưng - Hà Hội phán quyết4. 3 4 http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Nhung-vuong-mac-trong-boi-thuong-oan-sai/10879479/218/ http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Nhung-vuong-mac-trong-boi-thuong-oan-sai/10879479/218/ Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 7 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 2. Nguyên nhân của những vướng mắc trong việc bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của những người bị oan trong tố tụng hình sự Thứ nhất: trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật (như đã phân tích ở trên) có nhiều quy định còn nhiều bất cập, chưa thể hiện được tính bao quát, triệt để trong quy định của pháp luật; chưa giải quyết thỏa đáng tất cả các trường hợp bị oan. Do vậy khi áp dụng trên thực tế đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Thứ hai: đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, đội ngũ cán bộ, công chức ở cả cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn thiếu, thực tế cho thấy khối lượng vụ án cần phải giải quyết càng ngày càng nhiều trong khi nhân lực không tăng lên đáng kể. Với một áp lực công việc và khối lượng công việc lớn như vậy thì khó có thể tránh được sai sót. Đồng thời điều này cũng kéo theo công tác bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan nhiều trường hợp vẫn để tồn đọng, không giải quyết nhanh chóng, kịp thời quyền lợi cho người bị oan. Về chất lượng, đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về đạo đức nghề nghiệp lẫn trình độ chuyên môn. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự nghiêm túc trong việc giải quyết quyền lợi của những người bị oan, nhiều trường hợp khi nhận được đơn yêu cầu bồi thường của người bị oan vẫn làm ngơ không tiến hành giải quyết, một phần là sợ trách nhiệm, một phần là coi nhẹ quyền lợi của người bị oan khiến tốc độ giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan hiện nay vẫn còn chậm. Thứ ba: sự thiếu đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của một bộ phận những người hoạt động trong các cơ quan hỗ trợ cho hoạt động giải quyết quyền lợi cho người bị oan, đó là cơ quan giám định, định giá, thống kê…Nhiều trường hợp kết quả giám định, định giá không được khách quan, theo hướng bất lợi cho người bị oan; kết quả thống kê còn chậm cập nhật khiến cho công tác quản lý những trường hợp oan sai còn nhiều hạn chế từ đó làm cho hiệu quả của công tác bồi thường không cao. Thứ tư: sự thiếu hiểu biết pháp luật của người bị oan và thân nhân của họ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết quyền lợi cho người bị oan. Do không hiểu biết pháp luật nên số tiền bồi thường mà họ đưa ra thường rất cao, nhiều khi không có căn cứ hoặc không phù hợp với pháp luật. Điều này khiến cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người được bồi thường không thống nhất được mức bồi thường dẫn đến việc giải quyết bồi thường còn nhiều chậm chễ. Thứ năm: tiềm lực kinh tế hạn hẹp của đất nước cộng với công tác hoạch định chính sách tài chính, sự phân công, phân cấp chưa rõ ràng, thủ tục phức tạp cũng là nguyên nhân Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 8 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 khiến cho hoạt động bồi thường thiệt hại cho người bị oan không đạt được hiệu quả như mong muốn. 3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự Thứ nhất: Xây dựng các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại. Các quan điểm của Đảng về cải cách hành chính và cải cách tư pháp cần được quán triệt thành những định hướng chỉ đạo việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp việc bồi thường thiệt hại cho các trường hợp oan sai do các cơ quan tố tụng gây ra, cụ thể là:  Phạm vi oan sai mà người gánh chịu được quyền yêu cầu bồi thường, mức độ và cách thức bồi thường phải được quy định bằng Luật, đảm bảo tính công bằng nhng phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội ở từng giai đoạn, có tính khả thi.  Phạm vi trách nhiệm bồi thường: Nên quy định theo hướng liệt kê các trường hợp được coi là bị oan trong tố tụng hình sự; nhưng cần làm rõ hơn nội dung của trường hợp được coi là “Không thực hiện hành vi phạm tội” để khắc phục những khó khăn, vướng mắc hiện nay.  Về xác định thiệt hại và mức bồi thường: Theo nguyên tắc chung, quan hệ bồi thường thiệt hại mang bản chất của quan hệ dân sự; trong đó, việc cần thiết là phải xác định mức bồi thường trên thiệt hại thực tế đã xảy ra. Tuy nhiên, trong họat động tố tụng hình sự, do tính chất đặc biệt của chủ thể gây thiệt hại cũng như những biện pháp đã tác động, nên việc xác định mức bồi thường cần được quy định trên cơ sở bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nhưng mặt khác không làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.  Thủ tục, trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại phải đơn giản, rõ ràng, thuận tiện và nhanh chóng, dứt điểm phù hợp với yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và tư pháp nhằm vừa bảo vệ triệt để các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vừa giảm thiểu những tổn thất, đau khổ kéo dài mà người bị oan sai tiếp tục phải gánh chịu.  Tạo ra và đảm bảo thực thi các cơ chế hữu hiệu để tăng cường sự giám sát, kiểm tra của công dân, của xã hội đối với các quá trình tố tụng cũng nh đối với việc Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện việc bồi thường cho người bị oan sai theo quy định của pháp luật. Chính cơ chế giám sát và tự giám sát này sẽ góp phần quan trọng thực hiện chủ trưong đã được Đại hội Đảng IX một lần nữa khẳng định: “cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai”. Thứ hai: Tăng cường công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp và nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ cho những người tiến hành tố tụng. Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 9 Bài tập nhóm tháng 1 Lớp: N10 – TL3- Nhóm 3 - Đây là công tác có ý nghĩa và vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành pháp luật có bản lĩnh chính trị, có ý thức trách nhiệm cao trong việc chấp hành pháp luật. Bởi vì, một trong những nguyên nhân chủ yếu của vi phạm pháp luật dẫn đến làm oan người vô tội là do cán bộ điều tra còn non kém về trình độ pháp luật, nghiệp vụ. Do vậy, việc đào tạo, đào tạo lại, tập huấn tại chỗ cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động tố tụng. Theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức rà soát, phân loại cán bộ để điều chuyển những cán bộ không đủ năng lực trình độ, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm kém sang làm công tác khác, không để số cán bộ này trực tiếp thực hiện công tác điều tra tội phạm; thay vào đó là những cán bộ có khả năng, ý thức trách nhiệm cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, có trình độ pháp luật và nghiệp vụ vững vàng làm công tác điều tra tội phạm để bổ sung cho lực lượng điều tra viên, nhất là ở cơ quan điều tra Công an cấp huyện. - Quy định thêm mức xử lý kỷ luật thật nghiêm khắc đối với người gây ra oan sai. Nếu gây ra án oan sai, tổ chức xin lỗi, Nhà nước trả tiền bồi thường thì quá đơn giản cho các cơ quan tố tụng. Có hình thức xử lý kỷ luật thật nặng đối với người gây ra oan sai cũng là cách hiệu quả để thúc đẩy tiến trình cải cách tư pháp. KẾT LUẬN Thực tiễn tố tụng hình sự đã cho thấy, bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc quan trọng của LTTHS. Để thực hiện nguyên tắc này một cách hiệu quả cần có những quy định pháp luật đầy đủ, cụ thể, hợp lý làm cơ sở cho việc giải quyết bồi thường, khôi phục danh dự cho người bị oan; có cơ chế phù hợp và hiệu quả để thực hiện; nâng cao trình độ nhận thức của công dân để họ biết và thực hiện tốt được quyền được khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại. Bài làm đọc lên nghe có vẻ khá ổn, nhưng có một vấn đề lớn đó là nó rất giống một quyển khóa luận: thứ duy nhất trên thư viện làm về vấn đề này và nhóm mình không phải là nhóm duy nhất làm về đề này. Cái phần thực trạng ấy ở trên ấy dài hơn một chút, nhưng mà tớ cắt bớt đi lấy ý hay và dễ hiểu thôi, không biết thế nào nữa? Trường Đại Học Luật Hà Nội Bộ môn: Luật Tố tụng Hình sự Trang 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan