Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập nhóm tháng 2 môn luật hôn nhân và gia đình (10 điểm)...

Tài liệu Bài tập nhóm tháng 2 môn luật hôn nhân và gia đình (10 điểm)

.DOCX
16
76
116

Mô tả:

MỤC LỤC MỤC LỤC.................................................................................................................1 MỞ ĐẦU...................................................................................................................2 NỘI DUNG...............................................................................................................2 I. CHẾ ĐỊNH PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.......2 1. Căn cứ pháp lý................................................................................................2 2. Nội dung việc phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng...............................3 a. Các trường hợp chia tài sản............................................................................3 b. Nguyên tắc phân chia......................................................................................5 c. Cách thức phân chia tài sản............................................................................5 d. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng.....................8 II. TÍNH PHÙ HỢP CỦA VIỆC PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ- XÃ HỘI HIỆN NAY.....................................................................................................9 1. Tình hình kinh tế - xã hội................................................................................9 a) Tình hình kinh tế.............................................................................................9 b) Tình hình xã hội............................................................................................10 2. Tính phù hợp của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân............................................................................................................10 a) Tính phù hợp với điều kiện kinh tế................................................................10 b) Tính phù hợp với điều kiện xã hội................................................................13 KẾT LUẬN.............................................................................................................15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................16 1 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 MỞ ĐẦU. Tài sản là một nội dung quan trọng trong quan hệ giữa vợ và chồng. Chính vì lẽ đó, vấn đề quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nói riêng và giữa các thành viên trong gia đình nói chung là một trong những nội dung điều chỉnh cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình. Bên cạnh việc quy định tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo nền tảng vật chất cho việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam còn quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chế định này hàm chứa nhiều nội dung tích cực, tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội hiện nay. Để phần nào làm dõ hơn vấn đề này, nhóm em xin trình bày bài tập nhóm số 2 của mình theo đề tài : “Chứng minh việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay”. Dù đã rất cố gắng, nhưng vì nhiều lý do nên bài làm của chúng em vẫn không tránh khỏi có những thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp của thầy cô và các bạn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG. I. CHẾ ĐỊNH PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH. 1. Căn cứ pháp lý. Vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình. Do đó chúng ta có thể tìm thấy các quy phạm pháp luật về vấn đề trên trong Luật hôn nhân và gia đình( Luật HN&GĐ) năm 2000 và các văn bản hướng dân có liên quan. 2 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 Xuất phát từ thực tế ngày càng nhiều các cặp vợ chồng muốn chia tài sản chung của mình trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, để thực hiện nghĩa vụ tài sản riêng, để cấp dưỡng riêng và lý do chính đáng khác, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 , đã tiếp tục quy định chế định tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.Quy định tại điều 29 và điều 30. Điều 29 quy định: “ Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận. Điều 30 quy định hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng” Các quy định này hướng dẫn từ Điều 6 đến Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. 2. Nội dung việc phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng. a. Các trường hợp chia tài sản. Theo quy định tại điều 29 thì việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành trong các trường hợp sau: 3 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 - Trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng: xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra. - Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: nếu vợ (chồng) phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. - Trường hợp có lý do chính đáng khác: việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích của gia đình, lợi ích vợ chồng hoặc của người thứ ba. Vì vậy, lý do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại tùy từng trường hợp có khác nhau. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp vợ, chồng muốn trốn tránh thực hiện nghĩa vụ riêng của mình đã cùng nhau bàn bạc thỏa thuận chia tài sản chung. Để tránh tình trạng này, Khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ quy định : “2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.” Sở dĩ pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba (người có quyền lợi liên qua đến tài sản của vợ chồng). Điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định các trường hợp vợ chồng chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ tài sản sẽ bị Tòa án tuyên bố vô hiệu bao gồm: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; Nghĩa vụ bồi 4 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 thường thiệt hại; Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Nghĩa vụ nộp thuế, tài chính đối với Nhà nước; Nghĩa vụ trả nợ… b. Nguyên tắc phân chia. Việc phân chia tài sản dựa vào các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc tự thỏa thuận của vợ chồng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung”. Nếu vợ chồng thoả thuận được trong việc chia tài sản thì sự thoả thuận của vợ chồng đó được lập thành văn bản và được Nhà nước công nhận. - Nguyên tắc phân chia tài sản: Thông thường để đảm bảo quyền và lợi ích của hai bên ngang nhau thì cách chia hợp lí nhất đó là chia đôi khối lượng tài sản cần chia. Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ quy định vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Theo đó : Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các qui định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ. Tuy nhiên luật HN&GĐ năm 2000 lại không quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân như Luật HN&GĐ năm 1986. Đây có thể là do nhà làm Luật đã lãng quyên. c. Cách thức phân chia tài sản Phân chia theo thoả thuận. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 29 khoản 1, việc chia tài sản chung phải được lập thành văn bản. Điều luật chắc chắn chỉ được áp dụng 5 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 trong trường hợp giữa vợ và chồng có sự thoả thuận về cách chia. Nếu vợ và chồng không đồng ý với nhau về cách chia, thì không thể có chuyện vợ hoặc chồng ký vào văn bản phân chia một cách tự nguyện. Cần nhấn mạnh rằng luật chỉ đòi hỏi việc thoả thuận chia tài sản chung phải được lập thành văn bản, chứ không yêu cầu lập văn bản trước cơ quan công chứng, chứng thực. Các nội dung chủ yếu của văn bản bao gồm: - Lý do chia tài sản; - Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia; - Phần tài sản còn lại không chia, nếu có; - Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; - Các nội dung khác, nếu có. Phân chia bằng con đường tư pháp . Việc phân chia bằng con đường tư pháp là trường hợp phân chia theo quyết định của tòa án. Trường hợp này được luật dự kiến cho trường hợp giữa vợ và chồng không có được sự thoả thuận cần thiết (“nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”- Khoản 1 điều 29 Luật HN&GĐ). “Không có được sự thoả thuận cần thiết” bao hàm cả trường hợp “không thể có sự thoả thuận” do vợ hoặc chồng vắng mặt, mất tích hoặc ở trong tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình. Thực ra, ngay cả trong trường hợp vợ hoặc chồng không nhận thức được hành vi của mình mà có người giám hộ, ta không biết chắc liệu, trong khung cảnh của luật thực định, việc chia tài sản chung có thể được thực hiện bằng con đường 6 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 thoả thuận giữa chồng (vợ) và người giám hộ của vợ (chồng) không nhận thức được hành vi của mình. Luật viết chưa có quy định rõ ràng ở điểm này. Trong trường hợp vợ hoặc chồng ở trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi, dường như người làm luật muốn rằng người bị hạn chế năng lực hành vi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật để tham gia vào việc thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng, bởi vì rõ ràng, phân chia tài sản chung không phải là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Vấn đề, dẫu sao, có thể trở nên rắc rối, nếu người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi lại là vợ hoặc chồng của đương sự. Tất nhiên, người bị hạn chế năng lực hành vi không thể xin phép người đại diện để phân chia tài sản chung, rồi sau đó, lại thoả thuận với chính người đại diện này về nội dung của việc phân chia. Hẳn, người bị hạn chế năng lực hành vi phải yêu cầu người đại diện từ bỏ vai trò đại diện của mình, để Toà án có thể chỉ định một người đại diện khác. Trường hợp phân chia tài sản chung theo yêu cầu của chủ nợ riêng. Khi thay mặt người mắc nợ để yêu cầu phân chia tài sản chung, chủ nợ chỉ thực hiện các quyền của người mắc nợ; bởi vậy, việc phân chia tài sản chung theo sáng kiến của chủ nợ của vợ hoặc chồng không nhất thiết phải được thực hiện bằng con đường tư pháp. Chủ nợ có thể thay người mắc nợ yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng; nếu vợ (chồng) của người mắc nợ đồng ý, thì các bên có thể thoả thuận về việc phân chia; nếu vợ (chồng) của người mắc nợ không đồng ý, thì chủ nợ có thể yêu cầu phân chia bằng con đường tư pháp. - Ấn định khối tài sản chia phân chia theo thoả thuận. Việc ấn định khối tài sản chia trong trường hợp phân chia theo thoả thuận không phức tạp. Vợ chồng có quyền tự do xác định nội dung khối tài sản chia theo ý mình: hoặc chia toàn bộ tài sản chung hiện hữu, hoặc chỉ chia một phần tài sản chung. Phân chia bằng con đường tư pháp. 7 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 - Việc ấn định khối tài sản chia trong trường hợp phân chia bằng con đường tư pháp. Nếu giữa vợ và chồng đã có sự thoả thuận về nội dung khối tài sản chia nhưng không có sự thoả thuận về cách chia, thì thẩm phán có thể tạm yên tâm khi thực hiện công việc xét xử của mình: vấn đề chỉ là chia như thế nào. Trái lại, nếu vợ và chồng muốn chia nhưng lại không thoả thuận được về nội dung khối tài sản chia (chẳng hạn, người chỉ muốn chia một phần, người kia muốn chia toàn bộ; người muốn chia một số tài sản này, người muốn chia một số tài sản khác), thì thẩm phán sẽ gặp khó khăn trong việc xác định khối tài sản chia. Tương tự, trong trường hợp một người muốn chia tài sản chung nhưng người khác lại không muốn: ngay nếu như xác định được rằng người muốn chia hoàn toàn có lý do chính đáng để yêu cầu chia, thì thẩm phán vẫn còn phải đứng trước vấn đề chia bao nhiêu thì vừa và chia những thứ nào. Có vẻ như việc phân chia tài sản chung bằng con đường tư pháp chỉ được dự kiến trong trường hợp thứ nhất nêu trên, nghĩa là khi vợ chồng đã thoả thuận được về nội dung khối tài sản chia nhưng không thoả thuận được về cách chia. Tất nhiên, khi quyết định chia như thế nào trong trường hợp này, thẩm phán phải dựa vào công sức đóng góp: việc chia tài sản được thực hiện như trong trường hợp ly hôn. d. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng. Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về hậu quả việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân như sau: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Như vậy, theo tinh thần của quy định này thì các tài sản không được chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng 8 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 trong thời kỳ hôn nhân làm phát sinh quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ/chồng với khối tài sản mà họ được phân chia và cả hoa lợi lợi tức từ khối tài sản này. Không thể chia những tài sản sẽ có trong tương lai, cũng không thể thỏa thuận đi ngược lại so với những nguyên tắc chi phối thành phần cấu tạo của các khối tài sản trong thời kì hôn nhân, nên vợ chồng cũng không thể bằng việc chia tài sản chung mà chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật quy định. Các quy tắc liên quan vẫn tiếp tục được áp dụng: tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân là tài sản chung, tài sản chung còn lại không chia hết, tài sản được tặng cho chung, di tặng chung, hoa lợi, lợi tức có được từ phần tài sản chung còn lại… Việc chia tài sản chung không làm ảnh hưởng đến quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam không phải là sự quy định gián tiếp cho việc ly thân, pháp luật Việt Nam hiện không có chế định ly thân. II. TÍNH PHÙ HỢP CỦA VIỆC PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾXÃ HỘI HIỆN NAY. 1. Tình hình kinh tế - xã hội a) Tình hình kinh tế Kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986, nước ta đã xóa bỏ chế độ kinh tế bao cấp mà thay và đó là một chế độ kinh tế thị trường định hướng XHCN (Xã hội chủ Nghĩa). Biểu hiện cụ thể đầu tiên dễ nhận thấy là việc xuất hiện nhiều hình thức sở hữu và đa dạng về thành phần kinh tế. Cho đến nay, dù hình thức sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò quan trọng nhất nhưng nhà nước luôn công nhận quyền sở hữu của cá nhân, của các tổ chức, khuyến khích cá nhân lao động, kinh doanh làm giàu hợp 9 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 pháp, thành phần kinh tế tư nhân, ngoài quốc doanh được tạo nhiều điều kiện phát triển. Điều đó được nhà nước quy định trong Hiến pháp 1992, BLDS 2005… Cá nhân có quyền sở hữu tài sản và tự do kinh doanh, đầu tư kinh doanh. Chính vì vậy, qua từng năm, tình hình kinh tế của các đơn vị kinh doanh ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chất và lượng. Chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng cao, nhu cầu sinh hoạt đã không dừng lại ở “ăn no, mặc ấm”. b) Tình hình xã hội Dân trí ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy, mỗi cá nhân ngày càng có sự nhận thức về quyền và nghĩa vụ của mình thông qua học tập, tuyên truyền, thông tin đại chúng. Nhu cầu văn hóa, giáo dục, y tế rất được quan tâm. Bình đẳng giới ngày càng được tôn trọng. Trong gia đình, vai trò của người phụ nữ được nhìn nhận khác trước. Công tác thực hiện bình đẳng giới, “vì sự tiến bộ của phụ nữ” được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội coi trọng. Chủ trương sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật ngày càng được quán triệt sâu rộng trong xã hội. 2. Tính phù hợp của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. a) Tính phù hợp với điều kiện kinh tế Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân hoàn toàn phù hợp với điều kiện của kinh tế hiện nay và tạo điều kiện cho vợ/chồng thực hiện quyền có tài sản riêng và các quyền tự do kinh doanh, tiến hành các giao dịch dân sự có giá trị lớn. Điều này nhằm khắc phục tình trạng người chồng nắm quyền quản lý toàn bộ tài sản chung của vợ chồng để kinh doanh, dẫn đến nhiều khi thua lỗ, phá sản tài sản trong khi người vợ không được phép lên tiếng, không được phép can thiệp vào công việc kinh doanh của chồng chỉ vì muốn giữ cho gia đình mình yên ấm. Đây chính là trường hợp cần áp dụng việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Khi đó, vợ/chồng sẽ có thể thực hiện quyền tự do 10 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 kinh doanh, quyền có tài sản riêng, đây là quyền đã được Hiến định. Bên cạnh đó, quyền tự do cá nhân của riêng vợ/chồng ấy lại không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình. Giả sử anh A và chị B đã kết hôn. Do anh A cần vốn để kinh doanh nên anh chị thỏa thuận chia 1 tỷ đồng là tài sản chung của vợ chồng. Trong văn bản thỏa thuận ghi rõ chia cho anh A 300 triệu đồng, chị B 700 triệu đồng. Ngoài ra, anh chị không có thỏa thuần nào khác. Sau đó, anh A làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất. Như vậy, trong tình huống này, do anh A và chị B đã chia tài sản chung nên anh A chỉ có thể lấy 300 triệu của riêng mình để kinh doanh cũng như trả nợ, đền bù thiệt hại do làm ăn thua lỗ. Còn số tiền 700 triệu là tài sản riêng của chị B nên dù vẫn trong thời kì hôn nhân nhưng không ai có thể yêu cầu chị B trích lấy số tiền 700 triệu để thực hiện nghĩa vụ về tài sản cho anh A. Nếu anh A và chị B không chia tài sản thì số tiền thực hiện nghĩa vụ tài sản ngay lúc đó sẽ lớn hơn nhiều. Điều này không có nghĩa khuyến khích chia tài sản trong thời kì hôn nhân để kinh doanh, đến khi gặp rủi ro đỡ phải trả nợ nhiều. Bởi bồi thường thiệt hại, trả nợ, thực hiện nghĩa vụ tài sản không sớm thì muộn đều phải thực hiện. Tuy nhiên, nếu hai vợ chồng chia tài sản chung thì sẽ hạn chế mức chi trả ngay lúc gặp rủi ro, có điều kiện hơn trong việc cùng nhau gây dựng lại, vẫn đảm bảo đời sống thiết yếu cho gia đình. Đó mới là ý nghĩa của vấn đề đang được đề cập. Vậy phải chăng cứ làm ăn thua lỗ là chia tài sản chung để trốn tránh nghĩa vụ tài sản? Điều này đã được pháp luật dự liệu và quy định tại Khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong trường hợp kinh doanh không thành công, gặp rủi ro, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã phát huy vai trò tích cực. Vậy khi kinh doanh không thành thì gia đình là “phao cứu sinh” nhưng khi kinh doanh lời lãi thì sao? Sau khi phân chia tài sản chung, vợ/chồng hoàn toàn có thể khôi phục lại chế độ tài sản chung hoặc sáp nhập một phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung 11 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 của vợ chồng. Việc thỏa thuận này được thực hiện bằng văn bản và được làm chứng hoặc công chứng, chứng thực. Bên cạnh đó, việc chia tài sản chung còn có thể được chấp nhận khi để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Thoạt tiên, khi nghe đến chia tài sản chung với mục đích để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, chúng ta có thể suy nghĩ ngay, đó là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của người thứ ba. Tuy nhiên, theo nhóm, quy định này vừa đảm bảo quyền và lợi ích cho cả vợ chồng lẫn người thứ ba. Ví dụ, anh A và chị B kết hôn năm 1999, đến năm 2001, chị B sinh cháu C. Năm 2006, do mâu thuẫn sâu sắc, tình trạng hôn nhân trầm trọng, anh A và chị B ly hôn. Theo thỏa thuận, chị B sẽ nuôi cháu C và anh A sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng. Năm 2007, anh A kết hôn với chị X và vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu C. Năm 2009, anh A thất nghiệp do công ty phá sản. Đồng thời lúc đó, chị B yêu cầu anh A tăng mức cấp dưỡng. Anh A và chị X quyết định chia tài sản chung với tỉ lệ phù hợp, nhằm để anh A tiếp tục cấp dưỡng cho cháu C với mức phù hợp với tình hình kinh tế xã hội lúc đó và trong điều kiện kinh tế cho phép của gia đình. Qua ví dụ trên, có thể thấy việc chia tài sản của anh A và chị X là hoàn toàn hợp lý. Không những để đảm bảo quyền lợi cho cháu C tiếp tục nhận được cấp dưỡng từ bố. Mà gia đình anh A – chị X cũng đảm bảo tránh vì việc cấp dưỡng dẫn đến việc ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, tránh đòi hỏi quá đáng của chị B. Số tiền cấp dưỡng chỉ được lấy trong số tài sản riêng của anh A. Nên dù có thể tỉ lệ chia tài sản của anh A và chị X không bằng nhau, nhưng không ai có thể đòi hỏi anh A phải lấy tiếp tài sản riêng của chị X, bởi cấp dưỡng cho cháu C là nghĩa vụ dân sự của riêng anh A, không phải của chị X. Cũng không thể đòi hỏi anh A lấy tiếp thêm trong tài sản chung bởi sử dụng tài sản chung phải có sự đồng ý của chị X. Nếu anh A và chị X không chia tài sản, thì rất có thể việc cấp dưỡng cho cháu C sẽ lại là điều tạo bất hòa giữa hai vợ chồng, thực tế đã xảy ra rất nhiều 12 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 trường hợp như vậy. Việc cấp dưỡng có thể không chỉ dừng lại như trong ví dụ về con riêng ở trên mà còn có thể mở rộng ra trường hợp cấp dưỡng cho cha mẹ, anh chị em khác . b) Tính phù hợp với điều kiện xã hội Việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 công nhận vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là hợp lý. Bởi từ năm 2000, nước ta đã trải qua gần 15 năm đổi mới và 8 năm thực hiện Hiến pháp 1992, Hiến pháp của thời kỳ Đổi mới, công tác thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, “vì sự tiến bộ của phụ nữ” được đặc biệt coi trọng. Hiến pháp 1992 đã kế thừa các chế định về quyền bình đẳng nam nữ của các Hiến pháp trước đây. Trong Nghị quyết Nghị quyết số 11-NQ/T.Ư về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày 27 tháng 4 năm 2007 cũng ghi nhận mục tiêu của Đảng : “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”. Việc quy định phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ở Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có thể nói đã làm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp. Ngoài ra, bước sang thế kỉ mới, những quan niệm của người dân ngày càng mở rộng hơn nên sẽ dễ dàng chấp nhận quy định đó hơn. Nếu tinh thần này được đặt vào Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, chắc chắn sẽ là quy định chẳng bao giờ được áp dụng và nhân dân sẽ phản ứng rất gay gắt, thậm chí giảm niềm tin vào đường lối của Đảng, vào con đường xây dựng xã hội chủ 13 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 nghĩa, bởi con đường đó, đường lối đó được coi là đi ngược hẳn lại những quan niệm bao đời, những gì đã ăn sâu vào nếp sống nếp nghĩ của nhân dân. Bởi vào thời điểm đó, nếu một gia đình phân định ra đây là tài sản của anh, đây là tài sản của tôi, thì đó là một điều “vô cùng bất bình thường”, người vợ trong gia đình đó sẽ được coi là “mất nết”. Thậm chí đến giờ,vẫn sẽ có những ý kiến thủ cựu cho rằng, chia tài sản chung là một sự ích kỷ, rằng “việc anh, anh lo, việc tôi, tôi lo”, làm mất bản sắc văn hóa tuyền thống yêu thương, gắn bó, hòa hợp giữa vợ và chồng: “của chồng công vợ”. Tuy nhiên, thực tế, pháp luật chỉ công nhận việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân ở một số trường hợp, chứ không phải tùy tiện. Thứ hai, không phải cứ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là mọi tài sản đều phải chia. Vợ, chồng vẫn có thể để lại tài sản chung để duy trì cuộc sống gia đình, tùy theo thỏa thuận của hai bên. Và pháp luật cũng đã quy định trong trường hợp tài sản chung đã được chia hết hoặc tài sản chung không đủ đề thực hiện những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì mỗi bên vợ/ chồng có nghĩa vụ trích tài sản riêng của mình để duy trì cuộc sống gia đình. Như đã trình bày ở trên, quan niệm của mỗi người giờ không còn đặt nặng lễ giáo, tam tòng tứ đức, xuất giá tòng phu. Nếu trước đây, dù người chồng có vũ phu, có cờ bạc, rượu chè, trăng hoa… thì người vợ vẫn phải chấp nhận, thậm chí vẫn phải phục tùng chồng lẫn nhà chồng mà không một lời oán thán, coi đó là nghĩa vụ, là chuyện đương nhiên. Còn nay, người vợ trong mỗi gia đình đã được yêu thương nhiều hơn, đã được thông cảm, dần dần được bình quyền, đã có hiểu biết hơn để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng có thể được Tòa án giải quyết cho ly hôn mà không còn bị dư luận xì xào. Nhưng nếu vì con cái, vì danh dự, họ không muốn ly hôn, họ có thể thỏa 14 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 thuận để chia tài sản chung. Luật hôn nhân và gia đình tôn trọng vấn đề này bởi việc chia tài sản chung là do có sự thỏa thuận và nhất trí của cả hai vợ chồng nhằm ổn định cuộc sống của mỗi bên và hôn nhân của họ vẫn tồn tại trước pháp luật. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý đó là “lý do chính đáng” phải là lý do hết sức đặc biệt. Việc Tòa án cho phép chia tài sản chung phải được đánh giá kỹ lưỡng về bản chất và mức độ trầm trọng của các nguyên nhân làm rạn nứt gia đình. Nếu không đánh giá đúng lý do chính đáng sẽ dẫn tới việc lạm dụng các quy định của pháp luật, nhằm mục đích không chính đáng làm phản tác dụng và giảm giá trị của quy phạm pháp luật. KẾT LUẬN Từ những trình bày ở trên, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Việc quy định phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ở Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có thể nói đã làm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên Luật quy định về vấn đề này vẫn còn những thiếu sót và bất cập, quy định “mở” chưa được cụ thể hóa, vì vậy pháp luật cần dự liệu và bổ sung thêm về vấn đề này cho hoàn thiện, tạo thuận lợi cho quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong trường hợp này cũng như thực tiễn xét sử các vụ án tại Tòa. 15 LỚP N02 TL02 NHÓM 3 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Luật HN&GĐ năm 2000. 2. Luật HN&GĐ năm 1986. 3. Luật Dân sự Việt Nam 2005. 4. Chính phủ (2001), nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000. 5. Nguyễn Văn Cừ (2008), chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội 6. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học. 7. Nguyễn Văn Cừ (2000) “ chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân khi hôn nhân đang tồn tại”, tạp chí tòa án nhân dân, trang 18-21. 8. Nguyễn Hồng Hải (2003) “ Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong TKNH”, tạp chí Luật học. 9. Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường (2003), :Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 10.Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, NXB Công an nhân nhân, Hà Nội. 11.http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-chia-tai-san-chung-vo-chong-trong-thoiky-hon-nhan-37580/ 16 LỚP N02 TL02 NHÓM 3
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan