Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập nhóm số 2 hình sự module 1 khoảng 18 giờ ngày 25112008, c (19 tuổi) đi...

Tài liệu Bài tập nhóm số 2 hình sự module 1 khoảng 18 giờ ngày 25112008, c (19 tuổi) đi xe máy của gia đình chở h (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp

.DOCX
8
89
107

Mô tả:

Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 TÌNH HUỐNG Khoảng 18 giờ ngày 25/11/2008, C (19 tuổi) đi xe máy của gia đình chở H (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp. Đến một quán bán đồ điện, C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30 cm và 01 chiếc cà lê choòng dài khoảng 17cm đưa cho H để phá khoá xe máy. C chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D. C dừng xe đợi ở ngoài, H vào dùng tuốc nơ vít và cà lê choòng phá khoá chiếc xe Jupiter. Thấy có người lại gần, C sợ bị phát hiện nên phóng xe đi trước. Sau khi lấy được xe, H tháo gương, biển số của xe máy vừa lấy, thay bằng biển số giả rồi đem chiếc xe trên đến gửi tại phòng trọ của T. Lúc đó T không biết chiếc xe là do H đã trộm cắp được. Ngày 27/11/2008 T đã đem chiếc xe trên nộp cho Công an. Chiếc xe trị giá 19.000.000 đồng. Hỏi: Hãy lập luận giải thích và trả lời các câu hỏi sau: 1. Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội phạm gì? (2 điểm) 2. C và H có bị coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản không? (2 điểm). 3. C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?(2 điểm) 4. Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không? (1 điểm) Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG 1.Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội phạm gì? Muốn phân loại tội phạm, ta phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đó, được quy định trong bộ luật hình sự (BLHS). Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Tội trộm cắp tài sản được quy định tại điều 138 BLHS: “Người nào trộm cắp tài sản có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết tội án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm…1” Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS và theo quy định tại: -Khoản 1 Điều 138 BLHS: mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở khoản này là đến ba năm tù nên tội này thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. -Khoản 2 Điều 138 BLHS: mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở khoản này là đến bảy năm tù nên tội này thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. 1 Trích Điều 138 BLHS, Nxb. Lao động - xã hội, Hà Nội, 2009, tr.75 Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 -Khoản 3 Điều 138 BLHS: mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở khoản này là đến mười lăm năm tù nên tội này thuộc loại tội rất nghiêm trọng. -Khoản 4 Điều 138 BLHS: mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở khoản này là tù chung thân nên tội này là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 2. C và H có bị coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản không? Trong trường hợp này, C và H được coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản, bởi những căn cứ sau:  Thứ nhất, Điều 20 BLHS có quy định: “1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. 3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.”  Thứ hai, để chứng minh C là đồng phạm với H, t xem xét và dựa trên những yếu tố: Một là, dấu hiệu về mặt khách quan. Trong mặt khác quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu: -Có từ hai người phạm tội trở lên và những người này có đầy đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm, đó là có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định ( C là Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 19 tuổi và H là 17 tuổi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS) và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể là trộm cắp xe Jupiter. -Những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý). Dấu hiệu này đòi hỏi người đồng phạm phải tham gia vào một tội phạm với một trong bốn hành vi: thực hiện tội phạm, tổ chức thực hiện tội phạm, xúi giục người khác thực hiện tội phạm, giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Đối với hành vi thực hiện tội phạm, C không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp (vì khi đó C thấy có người tới gần, sợ bị phát hiện nên đã bỏ đi trước) mà chỉ có một mình H thực hiện nên ta loại trừ trường hợp này. Đối với hành vi tổ chức (tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm) thì theo như tình tiết nêu trong tình huống, C và H đã rủ nhau đi trộm cắp, C và H đã có sự chuẩn bị là đến cửa hàng điện tử mua 1 chiếc tuốc nơ vít dài 30m và 1 cà lê choòng dài 17cm đưa cho H để đi phá khóa. Như vậy, C được coi là người tổ chức. Đối với hành vi xúi giục (xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm), thì H là người tự nguyện tham gia cùng C vào hành vi trộm cắp chứ không phải do C xúi giục, dụ dỗ hay thúc đẩy H nên C không được coi là người xúi giục. Đối với hành vi giúp sức (giúp sức người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm), do H cũng có chủ ý trộm cắp, nên khi được C giúp đỡ là C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30 cm và 01 chiếc cà lê choòng dài khoảng 17cm làm công cụ cho H để phá khoá xe máy và chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D. Từ những sự giúp đỡ ấy của C mà H đã có hành vi trộm cắp chiếc xe Jupiter. Hai là, dấu hiệu về mặt chủ quan. Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.2 Đối với dấu hiệu lỗi, về lý trí, H biết rõ hành vi trộm cắp của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội (xâm hại tới quyền sở hữu tài sản được luật hình sự Việt Nam bảo vệ) nhưng vẫn thực hiện; về ý chí, H mong muốn hành vi của mình diễn ra theo như ý định ban đầu, và trộm cắp được chiếc xe trót lọt, bằng chứng là việc sau khi trộm được chiếc xe, H đã tháo gương, tháo biển số xe và thay biển số giả, đem giấu tại phòng trọ của X. Đối với dấu hiệu mục đích, cả C và H đều có chung mục đích là trộm cắp được chiếc xe dựng trước của nhà anh D. Từ những phân tích nêu trên, chúng ta khẳng định, C và H là đồng phạm tội trộm cắp tài sản. 3. C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Trong tình huống trên, hành vi của C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội, bởi lẽ, Điều 19 BLHS quy định: “Tự ý nửa chừng phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản... 3” và theo luật hình sự Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thỏa mãn các dấu hiệu sau:  Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.  Việc chấm dứt không thực hiện trực tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát. Từ những dấu hiệu trên, trong tình huống này, hành vi của C không thỏa mãn các dấu hiệu vừa nêu. Khi dừng lại hành vi trộm cắp tài sản của mình, C đã không dừng lại tội phạm khi đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành. Thực tế, C có sự chuẩn bị trước cho hành vi phạm tội trộm cắp của 2 Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Hà Nội, 2007, tr.169 3 Trích Điều 19 BLHS, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội, 2009, tr.12 Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 mình là C đã mua 1 chiếc tuốc nơ vít và 1 chiếc cà lê choòng dùng để phá khóa xe máy. C và H đã thực hiện được hoàn thành hành vi của mình là lấy trộm chiếc xe máy Jupiter. Hành vi bỏ chạy, phóng xe đi trước do hoảng sợ vì có người lại gần xảy ra khi H chưa trộm được xe nhưng hậu quả trên thực tế xảy ra ngay sau khi C phóng xe đi trước là chiếc xe dựng trước của nhà anh D bị mất. Điều này chứng tỏ việc C bỏ đi trước không ngăn chặn được hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Do vậy, nó không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội đã thực hiện. Như vậy, hành vi phạm tội của C và H đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS: có hành vi mua dụng cụ phá khóa xe máy, phá khóa xe máy để lấy trộm và hậu quả xảy ra trên thực tế là chiếc xe dựng trước của nhà anh D bị mất. Và theo đó, C phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS. Bên cạnh đó, việc chấm dứt hành vi phạm tội của C là không tự nguyện, không dứt khoát. C không tự nguyện mà do có người lại gần, sợ bị phát hiện nên mới phóng xe đi trước. Một lần nữa, chúng ta khẳng định rằng, hành vi của C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 4. Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không? T không bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức vì những lí do sau: Điều 20 BLHS quy định: “Người giúp sức là người tạo ra điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm.” Theo đó người giúp sức là người cung cấp công cụ, phương tiện, khắc phục những trở ngại hoặc chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình...để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm được dễ dàng và thuận lợi hơn. Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 Với trường hợp này, hành vi trộm cắp tài sản của H đã kết thúc sau đó mới tới nhà T để gửi xe và nói cho T biết, đây là xe vừa trộm được. Đây không thuộc dạng giúp sức đặc biệt đã được thực tiễn xét xử từ trước tới nay thừa nhận và coi là dạng giúp sức tinh thần là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang vật chứng4...có sau khi tội phạm đã thực hiện xong vì rõ ràng, H không hề hứa hẹn trước với T là sau khi trộm cắp được xe máy thì sẽ đến giấu ở phòng trọ của T. Ta có thể mở rộng vấn đề về lời hứa hẹn trước của người giúp sức rằng tuy không tạo ra điều kiện thuận lợi cụ thể nhưng cũng tác động tích cực vào quá trình thực hiện tội phạm. Bởi vậy mà luật hình sự Việt Nam đã coi lời hứa hẹn của người giúp sức cũng là dạng giúp sức tinh thần. Lời hứa hẹn của người giúp sức có thể xảy ra trước khi quá trình thực hiện tội phạm bắt đầu nhưng cũng có thể xảy ra khi quá trình đó đang diễn ra, và luật hình sự Việt Nam cũng không đòi hỏi sự hứa hẹn của người giúp sức phải được thực hiện vì sự thực hiện lời hứa là những việc làm xảy ra sau khi tội phạm đã thực hiện xong. Và như vậy, cũng có thể nói, nếu trước khi H lấy trộm xe, T và H có hứa hẹn rằng sau khi trộm được xe H sẽ gửi xe tại phòng trọ của T thì dù sau đó, T có thực hiện lời hứa hay không thì T vẫn bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức. Khẳng định lại vấn đề cần giải quyết được nêu ở trên là: Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T không bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Hà Nội, 2009, tr. 179 Bài tập nhóm số 2 Lớp N06.TL1 - Nhóm 2 1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007. 2.Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự (Phần chung), Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005. 3.Bộ Luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb. Lao động – Xã hội. 4. Viện khoa học pháp lí - Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan