Lời mở đầu
Trong đà phát triển của nền kinh tế khi doanh nghiệp muốn phát triển bền
vững trên thị trường cần tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua
quá trình “tự lớn lên ” của chính mình; thể hiện bằng những biện pháp như nâng
cao năng lực tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi
chiến lược sản xuất kinh doanh…và cả việc tìm kiếm “vận may” trên thương
trường.
Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp,
theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập
hội…được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Điều này ở nước ta đựơc ghi
nhận trong Bộ luật Dân sự và trong luật doanh nghiệp và pháp luật cạnh tranh. Tuy
nhiên, pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử dụng đến tận
cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những phương thức chân chính.
Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh tế
thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh gay gắt, nhu
cầu đáp ứng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài chính…mà khả năng
của từng nhà tư bản riêng rẽ không thể đáp ứng được mà vấn đề tập trung kinh tế
luôn diễn ra trên thương trường. Do đó, cần một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và
đồng bộ để kiểm soát tập trung kinh tế một cách tốt nhất.
Bài luận của nhóm D1 -3 nghiên cứu pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và
thực tiễn thực hiện, mong sẽ giúp người đọc có một cách tiếp cận gần hơn, dễ dàng
hơn với vấn đề này.
1
Nội dung
I.
Khái quát chung về tập trung kinh tế.
Theo khoa học kinh tế: hành vi tập trung kinh tế được hiểu là việc làm giảm
số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông qua các hành vi
sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp
trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất.
Nhưng theo khoa học pháp lý thì luạt cạnh tranh không định nghĩa về hành vi
tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế theo Điều
16.
Như vậy, có thể hiểu đặc điểm của hành vi tập trung kinh tế là: chủ thể của
tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường; hành vi tạp trung
kinh tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật
và hậu quả của tạp trung kinh tế là việc hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế lớn mạnh thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan trên thị trường.
Có nhiều cách phân loại tập trung kinh tế nhưng chủ yếu căn cứ vào vị trí
của chủ thể tham gia tập trung, theo cấp độ kinh doanh sẽ phân thành tập trung kinh
tế theo chiều ngang và tập trung kinh tế theo chiều dọc. Tập trung kinh tế theo
chiều ngang diễn ra giữa các doanh nghiệp cùng ở một cấp độ trong chuỗi sản xuất
hay nói cách khác đó là những doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan.
Tập trung kinh tế theo chiều dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các cấp độ khác
nhau.
Bên cạnh đó, tập trung kinh tế còn có nhiều ảnh hưởng lớn đến môi trường
cạnh tranh. Nó làm hạn chế cạnh tranh xong lại tạo ra những doanh nghiệp có quy
mô kinh doanh lớn, tiềm lực tài chính mạnh hơn, giảm chi phí đầu tư, chi phí sản
xuất, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh.
II.
Quy định của pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế.
Tập trung kinh tế là khái niệm dùng để chỉ sự tích tụ, tập trung của doanh
nghiệp trên thị trường nhằm hình thành doanh nghiệp lớn hơn.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam không thiết kế mô hình kiểm soát tập trung
kinh tế theo các dạng như các nước trên thế giới mà thiết kế theo các hình thức
pháp lý của tập trung kinh tế nhằm tạo cơ sở cho các quy định có liên quan. Theo
Điều 16 Luật cạnh tranh do quốc hội ban hành ngày 3/12/2004 thì: “Tập trung kinh
tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: 1. Sáp nhập doanh nghiệp; 2. Hợp nhất
doanh nghiệp; 3. Mua lại doanh nghiệp; 4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp; 5.
2
Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.”
2.1 Các hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật hiện hành.
Điều 17 Luật cạnh tranh đưa ra khái niệm pháp lý của các hình thức tập
trung kinh tế. Các quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định các
hình thức tập trung kinh tế theo luật định, phân biệt với các hình thức tích tụ vốn
khác. Như vậy, theo quy định pháp luật bao gồm năm hình thức tập trung kinh tế.
2.1.1 Sát nhập doanh nghiệp.
“Sáp nhập doanh nghiệp là một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. (Điều 17 luật cạnh tranh).
Mô hình: A + B = B’
Như vậy, sau khi sáp nhập, doanh nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại và bị
xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Công ty nhận sáp nhận sáp nhập được hưởng
các quyền, lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm về nghĩ vụ của công ty bị sáp
nhập.
Định nghĩa về hành vi sáp nhập doanh nghiệp tại khoản 1 Điều 17 Luật cạnh
tranh về cơ bản là phù hợp với quy định của Điều 94 của BLDS; Điều 152 Luật
doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 xác định cụ thể việc sáp
nhập với tư cách là một hình thức tổ chức lại doanh nghiệp nên pháp luật quy định
chủ yếu về tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Trong luật Cạnh tranh sáp nhập là
một hình thức tập trung kinh tế nên bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa khả năng hình
thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường và có khả năng thực hiện hành vi
gây cản trở cạnh tranh.
2.1.2 Hợp nhất doanh nghiệp.
Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh quy định: “ hợp nhất doanh nghiệp là việc
hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.”
Mô hình: A + B = C
Sau khi hợp nhất doanh nghiệp, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt sự
tồn tại. Công ty hợp nhất được được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp và chịu
trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán và các nghĩa vụ khác.
3
Khái niệm này tương tư khái niệm hợp nhất theo Luật doanh nghiệp là cũng
làm thay đổi cơ cấu của doanh nghiệp, hình thành một doanh nghiệp có quy mô lớn
hơn các doanh nghiệp trước đó.
2.1.3 Mua lại doanh nghiệp.
Theo quy định tại khoản 3 Luật cạnh tranh: “mua lại doanh nghiệp là việc
một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ
để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề củ liên doanh bị mua lại”.
Mua lại doanh nghiệp bao gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ hoặc một
phần doanh nghiệp. Có một số ý kiến cho rằng mua lại doanh nghiệp về bản chất
chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp. Bởi vì khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp,
người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý kiến này vẫn còn là đề
tài tranh luận. Mua lại một phần doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua
tài sản, mua cổ phần của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc
một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Về bản chất pháp lý, mua lại doanh nghiệp là hình thức tập trung kinh tế
bằng biện pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa doanh nghiệp mua lại và doanh
nghiệp bị mua lại. Việc mua lại không phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa
hai doanh nghiệp nói trên. Một số trường hợp mua lại doanh nghiệp khác không
được coi là TTKT. Đó là trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng, mua
lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời hạn dài nhất là một năm
không bị coi là TTKT nếu doanh nghiệp mua lại không thực hiện quyền kiểm soát
hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại, hoặc thực hiện quyền này chỉ trong khuôn
khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại đó. Quy định này của pháp luật Việt
Nam đã có sự tương đồng với pháp luật kiểm soát kinh tế quy định tại khoản 5a
Điều 3 của quy chế 139/2004 của liên minh châu Âu.
Về quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại, pháp luật cạnh
tranh quy định quyền kiểm soát hoặc chi phối được hiểu là trường hợp doanh
nghiệp mua lại dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ
chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị
hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm
soát đủ để doanh nghiệp mua lại chi phối các chính sách tài chính. Luật doanh
nghiệp năm 2005 không trực tiếp sử dụng thuật ngữ quyền chi phối hoặc kiểm soát
doanh nghiệp khác mà sử dụng quan hệ mẹ - con giữa các công ty để thể hiện mối
quan hệ sử hữu. Về ý nghĩa pháp lý, quy định trong hai văn bản luật Cạnh tranh và
4
luật Doanh nghiệp là tương đồng, song về căn cứ xác định và giá trị ứng dụng lại
có nhưng khác biệt đáng kể.
2.1.4 Liên doanh giữa các doanh nghiệp
Khoản 4 Điều 17 luật cạnh tranh: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là
việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghia vụ
và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.”
Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham
gia thành lập một doanh nghiệp mới. sự tồn tại của doanh nghiệp mới tạo ra mối
liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia. Xét về bản chất, hoạt động liên doanh
đồng nghĩa với họt động góp vốn doanh nghiệp được quy định theo Luật doanh
nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng và Luật đầu tư. Do đó, ngoài các
quy định của Luật cạnh tranh, hoạt động liên doanh còn chịu sự điều chỉnh bởi các
quy định về đăng ký kinh doanh, về thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư
trong các văn bản nói trên.
Có thể nói, hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp và hợp nhất doanh
nghiệp cùng nhằm mục đích tạo ra chủ thể pháp lý mới trên thị trường có sức mạnh
kinh tế lớn hơn, song sự khác biệt cơ bản giữa hai hành vi được thể hiện ở chỗ: đối
với hành vi hợp nhất doanh nghiệp, sau khi chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp để hình thành doanh nghiệp mới thì sự tồn tại của các doanh
nghiệp bị hợp nhất chấm dứt về mặt pháp lý. Còn đối với hành vi liên doanh, các
doanh nghiệp chỉ góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp để hình
thành một doanh nghiệp mới, song các donh nghiệp góp vốn liên doanh vẫn tồn tại
địa vị pháp lý của mình.
2.1.5 Các hành vi tập trung kinh tế khác.
Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam khi sử dụng phương
pháp liệt kê nhưng vẫn dự phòng một số điều khoản mở. Quy định dự phòng nhằm
cho phép bổ sung khi cần thiết những hành vi tập trung kinh tế khác đã được ghi
nhận ở pháp luật chuyên ngành hoặc có thể xuất hiện trong thực tiễn kinh doanh.
2. 2 Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế
2.2.1 Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
Dưới sức ép cạnh tranh thì việc tập trung nguồn lực kinh doanh diễn ra khá
phổ biến, để kiểm soát hoạt động này nhà nước đã quy định cụ thể ghi nhận trong
Luật cạnh tranh năm 2004.
Theo quy định tại Điều 18 Luật cạnh tranh năm 2004 “Cấm tập trung kinh
tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên
5
50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của Luật này
hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật”.
Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm tập trung kinh
tế và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp tập
trung kinh tế. Những trường hợp tập trung kinh tế mà thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn mang bản
chất hạn chế cạnh tranh nên việc tập trung kinh tế đã hình thành một doanh nghiệp
nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp khi chiếm trên 50% tại thị trường
liên quan bị cấm tập trung kinh tế, quy định như này đảm bảo sự phát triển, cạnh
tranh bình đẳng giữa tất cả các doanh nghiệp với nhau. Đồng thời pháp luật cũng đã
dự liệu trường hợp các doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế có thị phần
kết hợp với các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khác chiếm trên 50% trên
thị trường liên quan nhưng doanh nghiệp đó vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và
nhỏ thì vẫn được thực hiện tập trung kinh tế. Như vậy, đã tạo ra cơ hội cạnh tranh
thúc đẩy sự phát triển bền vững, lành mạnh cho nền kinh tế.
2.2.2 Các trường hợp tập trung kinh tế miễn trừ cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 19 Luật cạnh tranh năm 2004 các trường hợp miễn
trừ cạnh tranh gồm: “1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; 2. Việc tập trung kinh tế có
tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ.”. Căn cứ vào quy định này có thể thấy khi một trong các doanh
nghiệp đang thực hiện tập trung kinh tế mà lâm vào tình trạng phá sản hoặc có
nguy cở giải thể thì nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ cho doanh nghiệp bằng cách
vẫn cho họ thực hiện tập trung kinh tế để khôi phục lại đà phát triển cho doanh
nghiệp. Doanh nghiệp đang trong nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản
là doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán chứ
không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp dừng hoạt động và không có nghĩa là xã
hội không có nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Bộ trưởng bộ Công
thương xem xét và quyết định bằng văn bản với những trường hợp này.
Trong trường hợp những ngành nghề mà doanh nghiệp thực hiện tập trung
kinh tế thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu hoặc có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội thì nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp một cách tốt nhất nhằm
nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế từ sự phát triển của doanh
6
nghiệp. Thủ tướng chính phủ xem xét và quyết định bằng văn bản với những
trường hợp này. Quy định pháp luật về tập trung kinh tế rất chặt chẽ và cụ thể
nhưng không thể tránh khỏi nhưng thiếu sót khi áp dụng vào thực tế, những thiếu
sót này cần sớm phát hiện và khắc phục.
2.2.3 Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo
Quyền tự do kinh doanh là quyền tự quyết của các doanh nghiệp nhưng để
đảm bảo hoạt động này diễn ra bình đẳng thì pháp luật quy định các trường hợp
tập trung kinh tế phải thông báo Điều 20 Luật canh tranh năm 2004. Theo quy định
pháp luật các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30%
đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó
phải thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trước khi tiến hành
tập trung kinh tế. Như vậy, để đảm bảo hoạt động này diễn ra bình đẳng thì pháp
luật bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành khai báo với nhà nước và hoạt động
này chỉ áp dụng với một nhóm đối tượng nhất định khi doanh nghiệp đó chiếm thị
phần lớn trên thị trường. Nhà nước thông qua pháp luật để kiểm soát nền kinh tế
phát triển một cách bền vững và công bằng.
Nếu tập trung kinh tế thuộc diện phải thông báo thì thủ tục xem xét các vụ
tập trung kinh tế bao gồm: Bước 1: Thông báo tập trung kinh tế, gồm việc nộp hồ
sơ thông báo tập trung kinh tế và cơ quan có thẩm tiến hành xem xét các nội dung
chính sau: xác định và mô tả thị trường liên quan; xác định các doanh nghiệp tham
gia thị trường liên quan và ngưỡng nhất định để kiểm soát tập trung kinh tế; Bước
2: Thụ lý hồ sơ thông báo tập trung kinh tế; Bước 3: Trả lời thông báo về hồ sơ tập
trung kinh tế; Bước 4: Thực hiện thủ tục tập trung kinh tế tại cơ quan đăng ký kinh
doanh. Sau khi hoàn tất các bước trên doanh nghiệp tiến hành tập trung kinh tế.
2.2.4 Hình thức xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế
Bất kỳ hành vi trái với quy định của pháp luật do các chủ thể tiến hành đều
phải chịu hình thức xử lý tương ứng mức độ vi phạm. Vi phạm pháp luật về tập
trung kinh tế được hiểu là việc các doanh nghiệp thực hiện một trong hai hành vi:
tiến hành tập trung kinh tế tại các trường hợp bị cấm; tiến hành tập trung kinh tế mà
không thông báo nếu thuộc trường hợp phải thông báo. Đối với hành vi vi phạm
pháp luật về tập trung kinh tế, các doanh nghiệp vi phạm phải chịu hình thức xử
phạt về via phạm hành chính là phạt tiền với các mức khác nhau nhưng tối đa chỉ
đễn 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế.
7
Bên cạnh đó mức vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp còn có thể bị áp
dụng hình thức xử phạt bổ sung như biện pháp khắc phục hậu quả, bị thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc buộc chia tách, sát nhập doanh nghiệp đã
hợp nhất, sát nhập… theo quy định của Luật cạnh tranh và Nghị định
120/2005/NĐ_CP ngày 30/09/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
cạnh tranh.
III. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về tập trung kinh tế.
3.1 Thực tiễn thực hiện các quy định về hình thức tập trung kinh tế.
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không nêu lên định nghĩa hành vi tập
trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức. Theo đó, trong quá trình thực hiện các
quy định của pháp luật về tập trung kinh tế đã nhận thấy:
Pháp luật về cạnh tranh của các nước đều thống nhất coi sáp nhập doanh
nghiệp là một hành vi tập trung kinh tế điển hình. Trong những năm gần đây, M&A
trở nên sôi động hơn tại Việt Nam. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tại hội thảo năm 2005 chỉ có 18 vụ M &A với tổng giá trị là 61
triệu đôla Mỹ, năm 2006 có 32 vụ với tổng giá trị các thương vụ là 245 triệu đôla
Mỹ. Năm 2007, Việt Nam có hơn 90 vụ M &A với giá trị giao dịch là hơn 1, 7 tỷ
đôla Mỹ và năm 2008, đã có gần 40 vụ sáp nhập và mua lại với tổng giá trị gần 30
triệu đôla Mỹ. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong 5 đến 10 năm tới, sẽ
có từ 30% đến 50% doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ sáp nhập hoặc bị sáp nhập với
các đối tác khác.
Hoạt động M &A tiếp tục diễn ra sôi động do đây là một hình thức đầu tư
ngày càng phổ biến và tiện lợi; do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Việt Nam
trong thời gian qua; do nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao những cơ hội đầu tư tại
Việt Nam cũng như do những cam kết của Chính phủ Việt Nam trong lộ trình thực
hiện khi gia nhập WTO; và do những ảnh hưởng quốc tế với sự góp mặt của hàng
loạt quỹ đầu tư trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, quy định về hợp nhất doanh nghiệp của Luật Cạnh tranh không hoàn
toàn phù hợp với Luật Doanh nghiệp. Ta dễ dàng nhận thấy, các thuật ngữ trong
hai luật này tuy trùng nhau nhưng lại không đồng nhất. Ví dụ nếu so sánh về mặt từ
ngữ thấy theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì các công ty sáp nhập, hợp nhất phải là
công ty “cùng loại nhau” còn ở Luật Cạnh tranh 2004 thì không quy định cụm từ
này. Đặc biệt là đối với thủ tục thực hiện hợp nhất doanh nghiệp hầu như phụ
thuộc vào Luật Doanh nghiệp 2005. Do đó, việc giải thích hợp nhất doanh nghiệp ở
Luật Doanh nghiệp 2005 có ảnh hưởng rất lớn đến thủ tục thực hiện. Một số vấn đề
8
trên đã thể hiện rằng, thực tế thực hiện hợp nhất doanh nghiệp ở nước ta còn nhiều
bất cập, gây khó dễ cho các chủ doanh nghiệp trong công cuộc tập chung kinh tế.
Những cái vướng khi đã tồn tại ngay trong khái niệm của hợp nhất doanh nghiệp
thì khi có mục đích thực hiện các thương vụ sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp
cần chú ý đến ngay từ khái niệm này.
Qua quy định ta thấy mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn
bộ và mua lại một phần doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng trường hợp
mua lại toàn bộ doanh nghiệp thì về bản chất chính là hình thức sáp nhập doanh
nghiệp. Bởi vì khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp, người mua trở thành chủ sở hữu
doanh nghiệp cũng như tài sản doanh nghiệp, được hưởng các quyền và nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đó. Duy có một điểm khác biệt giữa hai hình
thức này, đó là việc doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không? Tùy
thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp mua, nếu doanh nghiệp bị mua chấm
dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập, còn nếu nó tiếp tục hoạt động như một chủ thể
kinh doanh độc lập thì sẽ trở thành công ty con trong một tập đoàn kinh tế.
Và theo quy định về trường hợp mua lại doanh nghiệp thì khi áp dụng trên
thực tế phần lớn các giao dịch lớn thường là do các công ty nước ty nước ngoài
mua lại một phần hoặc toàn bộ một doanh nghiệp Việt Nam hoặc giữa các doanh
nghiệp trong nước, tuy nhiên cũng có những trường hợp ngược lại khi công ty Việt
Nam mua lại công ty nước ngoài. Các thương vụ thành công đáng kể nhất có thể kể
đến là trường hợp Kinh Đô- một doanh nghiệp tư nhân lớn trong ngành sản xuất,
chế biến thực phẩm, bánh kẹo đã mua lại bộ phận kinh doanh kem Wall’s của tập
đoàn đã quốc gia Unilever và tận dụng tốt hệ thống phân phối sẵn có để phát triển.
Ngoài ra, công ty này còn mua lại một phần hàng loạt các doanh nghiệp khác hoạt
động trong ngành liên quan như công ty nước giải khát Sài Gòn và có kế hoạch sáp
nhập hai công ty Kinh đô và Kinh Đô miền Bắc. Một trường hợp tương tự là
thương vụ ICA Pharmaceuticals Việt Nam mua lại thương hiệu Tobicom của hãng
dược phẩm Hàn Quốc Ahn Gook Pharm.
Ngoài ra, hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam cũng đã xuất hiện hình
thức mua lại giữa các công ty 100% vốn nước ngoài (chẳng hạn, vụ Savills Việt
Nam mua lại toàn bộ Chesterton Petty trong lĩnh vực bất động sản.
Về liên doanh giữa các doanh nghiệp được quy định tại Khoản 4 Điều 17
Luật Cạnh tranh thì thông thường ở Việt Nam, cứ nói đến liên doanh là chúng ta
nghĩ ngay đến liên doanh với nước ngoài vì hình thức này được quy định trong
9
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên thuật ngữ liên doanh cũng xuất
hiện ở một số văn bản khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà
nước... nhưng không có định nghĩa cụ thể. Luật Cạnh tranh đã đưa ra khái niệm về
liên doanh nhưng không nói đến quốc tịch của các bên liên doanh, do đó có thể
hiểu rằng việc liên doanh có thể tiến hành giữa các doanh nghiệp Việt Nam với
nhau hoặc giữa một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam với một hoặc nhiều doanh
nghiệp nước ngoài, miễn là có mục đích thành lập một doanh nghiệp mới.
Tập trung kinh tế là nhu cầu và hiện tượng thông thường trong kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, đến một mức độ nào đó, một vụ tập trung kinh tế lớn (“những
đám cưới voi”) sẽ dẫn đến việc hình thành các doanh nghiệp độc quyền. Vì lẽ đó,
pháp luật cạnh tranh luôn có nhiệm vụ phải “tỉnh táo” để kiểm soát nguy cơ dẫn
đến độc quyền không do cạnh tranh lành mạnh đem lại.
Theo Princewaterhouse Coopers, hàng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán sáp
nhập doanh nghiệp hàng đầu thế giới, trong năm 2007 thì hoạt động tập trung kinh
tế đã gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển mạnh mẽ về khuôn khổ pháp lý đã
hấp dẫn các nhà đầu tư vào Việt Nam, nhu cầu tái cơ cấu của nội tại các doanh
nghiệp, sự gia tang nhanh của thi trường chứng khoán. Tuy nhiên, đến nửa năm
2008, cả số lượng và giá trị các giao dịch được công bố đều giảm.
Xét theo báo cáo mới nhất của tổng cục thống kê, xét về mặt địa bàn có 6
tỉnh/thành phố có nhiều dự án chuyển nhượng với tổng vốn đầu tư chuyển nhượng
trên 1 tỉ USD là thành phố HCM, Đồng Nai, Hà Nội, Bình Dương và Quảng Ngãi.
Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore là những quốc gia/vùng lãnh thổ có
nhiều dự án được chuyển nhượng vốn lớn nhất với số lượng lần lượt là : 235, 153,
110 và 87. Điều này cũng dễ hiểu vì các quốc gia, vùng lãnh thổ trên cũng xếp vị trí
đầu trong danh sách các nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Cũng theo những báo cáo trên, một số dự án chuyển nhượng vốn là công ti cổ
phần hữu hạn Vedan Việt Nam, Công ti TNHH nhà máy tàu biển Huyndai –
Vinashin, Công ti TNHH kumho Asiana Plaza Saigon, …
3.2 Thực tiễn thực hiện các quy định về thông báo tập trung kinh tế và xử lý vi
phạm.
Trong năm 2007, Cục QLCT chính thức tiếp nhận 01 hồ sơ thông báo tập
trung kinh tế đối với trường hợp một doanh nghiệp của Thái Lan mua lại một công
ty trong nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hóa chất – nhựa chuyên dụng thuộc
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian xử lý vụ việc, các bên liên
10
quan đã đi đến quyết định không thực hiện hợp đồng nữa. Ngoài ra, kể từ khi Luật
Cạnh tranh có hiệu lực, đã có khoảng 20 trường hợp tập trung kinh tế tiến hành
tham vấn (bằng văn bản hoặc làm việc trực tiếp) với Cục QLCT, trong đó chủ yếu
là các vụ việc diễn ra trong các ngành bán lẻ, hóa chất, thiết bị viễn thông, công
nghệ thông tin, dịch vụ giải trí. Cục QLCT (Ban Giám sát và Quản lý cạnh tranh),
đã phối hợp với các cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Sở để hướng dẫn doanh
nghiệp thực hiện đúng pháp luật về tập trung kinh tế. Năm 2008, Cục QLCT đã tiếp
nhận 02 Hồ sơ tập trung kinh tế thuộc loại hình mua lại và hợp nhất trong lĩnh vực
điện tử và giấy. Nhìn chung, số vụ việc tập trung kinh tế có thông báo cho Cục
QLCT, tính đến nay còn ít nếu so với tổng số các vụ mua lại và sáp nhập diễn ra tại
thị trường Việt Nam thời gian qua (trên 100 vụ), điều này cho thấy các hoạt động
tập trung kinh tế thuộc đối tượng phải thông báo là rất ít tại Việt Nam. Mặt khác,
việc thông báo tập trung kinh tế căn cứ theo tiêu chí thị phần cũng làm cho khá
nhiều doanh nghiệp “cho rằng” thị phần của mình không đạt ngưỡng và như vậy,
cũng không phải thông báo với Cục QLCT.
Trong thời gian qua cùng với việc thực thi các quy định về xử lý vi phạm tập
trung kinh tế thì các vụ vi phạm đã giảm nhiều, vấn đề thực thi pháp luật được thực
hiện chỉn chu, nghiêm chỉnh hơn. Nó khẳng định tính ứng dụng và giá trị của pháp
luật ngày càng được tôn trọng, nâng cao trong đời sống.
IV. Nhận xét
4.1. Những vấn đề bất cập khi áp dụng các quy phạm pháp luật về hiện
tượng tập trung kinh tế.
Qui định của Nhà nước liên quan đến hoạt động tập trung kinh tế được đề cập
đến trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau . Do chịu sự điều tiết của nhiều văn
bản pháp luật khác nhau nên trên thực tế hoạt động tập trung kinh tế vẫn còn tồn tại
lỗ hổng và trở ngại do chúng tạo ra cho những người hoạt động trong lĩnh vực này.
4.1.1. Những vấn đề pháp luật còn để trống:
Hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam trong thời gian gần đây bùng nổ rầm
rộ và phát triển mạnh mẽ trên thị trường, nhưng hiệu quả mang lại không như mong
muốn, bởi hệ thống pháp luật của chúng ta còn thiếu.
Điều 94 và điều 95 BLDS 2005 quy định việc sáp nhập hợp nhất chỉ được tiến
hành giữa các pháp nhân cùng loại, nhưng lại không đưa ra khái niệm pháp nhân
cùng loại dẫn đến nhiều kho khăn cho người áp dụng. Như vậy muốn thực hiện tập
trung kinh tế giữa các pháp nhân không cùng loại chỉ có hai cách là mua lại hoặc
liên doanh, tuy nhiên hiện tại lại chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn hoạt
11
động tập trung kinh tế giữa các pháp nhân không cùng loại. Ngay cả trong Luật
Cạnh tranh cũng không định nghĩa rõ ràng về hoạt động mua lại.Chính điều này sẽ
gây ra nhiều tranh cãi khi xác định giữa việc mua cổ phần và việc mua lại tài sản
của một doanh nghiệp.
Bên cạnh đó việc pháp luật cạnh tranh chỉ kiểm soát và cấm đoán các hành vi
tập trung theo chiều ngang cho thấy giới hạn điều chỉnh của pháp luật. Trong khi
đó, các hiện tượng tập trung kinh tế theo chiều dọc hoặc tập trung hỗn hợp cũng đã
được các nhà kinh tế học khuyến cáo về khả năng gây hại cho thị trường cạnh
tranh. Luật Cạnh tranh hiện nay cấm những hoạt động sáp nhập và mua lại có thể
dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% “thị trường
liên quan”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật
không có quy định rõ ràng về khái niệm “thị trường liên quan”. Và trong trường
hợp một doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng (có nhiều thị trường khác nhau)
thì tuỳ theo các cách tính khác nhau có thể dẫn tới kết quả là doanh nghiệp đó có
thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50% hoặc có thể dưới Nếu như chúng ta
không quy định rõ cách tính thị thị trường liên quan thì trong tương lai sẽ có những
trường hợp áp dụng luật pháp không thống nhất xảy ra như.
4.1.2. Những trở ngại khi tiến hành tập trung kinh tế tại việt nam.
Thiếu tính rõ ràng trong luật sở hữu, bao gồm việc đưa ra các mức độ về
quyền sở hữu cho nhà đầu tư nước nước ngoài theo cam kết với WTO. Pháp luật về
quyền sở hữu quy định tại Hiến pháp và Bộ luật Dân sự đang có nhiều điểm bất cập
và bất hợp lý: Công ty nước ngoài không thể thành lập các công ty mẹ đầu tư tại
Việt Nam, các vấn đề xung quanh việc hoàn tất việc mua bán tài sản, có những văn
kiện mới chính thức về nguồn vốn, cơ cấu doanh nghiệp được pháp luật cho phép
nhừng các cơ quan có thẩm quyền chưa quen với việc áp dụng, thiếu các thông tin
có sẵn trên các phượng tiện thông tin đại chúng.
Hiện nay, quy định về hoạt động tập trunh kinh tế Việt Nam nằm rải rác trong
BLDS, Luật doanh nghiệp và Luật Cạnh tranh,..Việc thiếu thông tin trong các
quyết định tập trung kinh tế sẽ mang lại rủi ro cho chính doanh nghiệp.
Ngoài ra về thủ tục còn nhiều khâu của Việt Nam đã làm nhiều nhà đầu tư
“ngán” mỗi khi có ý định tập trung kinh tế tại Việt Nam. Chẳng hạn, khi mua 10%
hoặc 20% cổ phần của một doanh nghiệp, ở nước ngoài chỉ cần mất khoảng 1 đến 2
ngày thì thời gian đó tại Việt Nam ít nhất cũng phải mất vài tháng mới xong khâu
thẩm tra, phê duyệt…
4.2. Đề xuất, kiến nghị.
12
4.2.1. Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng tuân thủ các nguyên tắc
sau đây:
Pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những trường hợp tập
trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những trường hợp có
tác dụng tích cực cho nền kinh tế.
Các thủ tục cần được thực hiện không bị lạm dụng để gây khó khăn cho doanh
nghiệp,không cản trở các chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh
nghiệp.
Để cải thiện môi trường kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách cũng cần
nhìn nhận theo hướng khách quan và tích cực, nghĩa là hỗ trợ và tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, những chủ thể chính trên thị trường, có khả năng
tiếp cận, gia nhập thị trường
Tiếp đó, cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi tập trung
kinh tế, đặc biệt là quan niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực
pháp luật có liên quan
Những quan niệm không đầy đủ trong pháp luật đầu tư, doanh nghiệp cần
được sửa đổi cho phù hợp với nội dung tương ứng trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra,
khả năng mở rộng khái niệm về tập trung kinh tế cũng cần được nghiên cứu đối với
những trường hợp liên kết thông quaviệc quản lý mà không là sở hữu vốn hay tổ
chức lại.
4.2.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tập trung kinh tế.
“Tư vấn” cho các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng chính sách, nhiều
chuyên gia nhận định, các giao dịch mua bán công ty về cơ bản là tự do khế ước,
do đó các bên tự tìm thông tin,tự mặc cả giá thành, tự lo lấy thương vụ.
Bên cạnh đó, để bảo vệ cạnh tranh thì quyền lực của Cục Quản lý cạnh tranh
và Hội đồng cạnh tranh quốc gia (quyền điều tra, truy xét, ban hành các phán quyết
có hiệu lực như bản án…) phải được thực thi nghiêm túc. Việc xây dựng một hệ
thống đăng ký kinh doanh độc lập - chia sẻ thông tin mang tính quốc gia, xoá bỏ
tính “cát cứ” của các sở kế hoạch và đầu tư được đánh giá là một ưu tiên hàng đầu.
4.2.3.Đối với cộng đồng doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần xây dựng được kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch
trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động tập trung kinh tế nói riêng.
13
Kết bài
Tập trung kinh tế là hình thức mà các doanh nghiệp hướng đến trong nền
kinh tế hội nhập và phát triển. Tại Việt Nam, tập trung kinh tế diễn ra phong phú và
đa dạng, hoạt động này được nhà nước quan tâm và ban hành hệ thống văn bản
pháp luật để điều chỉnh. Từ những quy định cụ thể của pháp luật đến áp dụng vào
thực tiễn đạt được nhiều thành tựu nhưng bên cạnh đó còn tồn tại thiếu sót cần khắc
phục để đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Luật hà Nôi, tập bài giảng Luật cạnh tranh, Hà Nội, 2011
2.
Luật cạnh tranh năm 2004
3.
Bộ luật Dân sự
4.
Nghị định 120/2005/NĐ_CP ngày 30/09/2005 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
5.
nghị đinh 116/2005/NĐ – CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
6.
Cục quản lý cạnh tranh – Bộ công thương, Báo cáo tạp trung kinh tế tại Việt
Nam – hiện tượng và dự báo, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009.
7.
http://www.qlct.gov.vn/Web/Content.aspx?distid=95&lang=vi-VN
15
MỤC LỤC
Lời mở đầu................................................................................................................1
Nội dung....................................................................................................................2
I.
Khái quát chung về tập trung kinh tế.............................................................2
II.
Quy định của pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế.............................2
2.1 Các hình thức tập trung kinh tế theo pháp luật hiện hành...........................3
2. 2 Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế..........................................................5
III.
Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về tập trung kinh tế....................8
3.1 Thực tiễn thực hiện các quy định về hình thức tập trung kinh tế.................8
3.2 Thực tiễn thực hiện các quy định về thông báo tập trung kinh tế và xử lý vi
phạm.....................................................................................................................10
IV.
Nhận xét........................................................................................................11
4.1. Những vấn đề bất cập khi áp dụng các quy phạm pháp luật về hiện tượng
tập trung kinh tế...................................................................................................11
4.2. Đề xuất, kiến nghị.........................................................................................12
Kết bài.....................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................15
16
Lời mở đầu
Trong đà phát triển của nền kinh tế khi doanh nghiệp muốn phát triển bền
vững trên thị trường cần tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua
quá trình “tự lớn lên ” của chính mình; thể hiện bằng những biện pháp như nâng
cao năng lực tài chính, cải tiến tổ chức quản lý, phát triển công nghệ mới, thay đổi
chiến lược sản xuất kinh doanh…và cả việc tìm kiếm “vận may” trên thương
trường.
Tập trung kinh tế là hiện tượng thuộc về quyền tự do của các doanh nghiệp,
theo các nguyên lý của kinh tế thị trường mà ở đó quyền tự do khế ước, tự do lập
hội…được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Điều này ở nước ta đựơc ghi
nhận trong Bộ luật Dân sự và trong luật doanh nghiệp và pháp luật cạnh tranh. Tuy
nhiên, pháp luật cạnh tranh chỉ đảm bảo cho các doanh nghiệp sử dụng đến tận
cùng những khả năng sẵn có của mình bằng những phương thức chân chính.
Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu của tư bản trong kinh tế
thị trường. Vì những lý do khác nhau trong nền kinh tế như cạnh tranh gay gắt, nhu
cầu đáp ứng công nghệ mới, nhu cầu về vốn và sức mạnh tài chính…mà khả năng
của từng nhà tư bản riêng rẽ không thể đáp ứng được mà vấn đề tập trung kinh tế
luôn diễn ra trên thương trường. Do đó, cần một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và
đồng bộ để kiểm soát tập trung kinh tế một cách tốt nhất.
Bài luận của nhóm D1 -3 nghiên cứu pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế và
thực tiễn thực hiện, mong sẽ giúp người đọc có một cách tiếp cận gần hơn, dễ dàng
hơn với vấn đề này.
17
- Xem thêm -