Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập lớn về thừa kế thế vị theo qui định trong bộ luật dân sự năm 2005 môn lu...

Tài liệu Bài tập lớn về thừa kế thế vị theo qui định trong bộ luật dân sự năm 2005 môn luật dân sự học phần 1

.DOC
23
92
70

Mô tả:

Mục Lục Trang A.MỞ ĐẦU 2 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 I.Những vấn đề chung về thừa kế và thừa kế thế vị. 1.Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế. 2.Khái niệm thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị. 3 3 4 2.1 Khái niệm thừa kế theo pháp luật a Diện thừa kế 4 b Hàng thừa kế 4 2.2 Khái niệm chung về thừa kế thế vị 3.Các quy định của pháp luật dân sự về thừa kế thế vị qua các thời kỳ. II.Một số vấn đề về thừa kế thế vị theo quy định của BLDS 2005. 5 6 1.Điều kiện hưởng thừa kế thế vị. 8 2.Các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị. 8 2.1 Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường. a Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà. b .Chắt thế vị cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ. 2.2. Thừa kế thế vị trong trường hợp có nhân tố con nuôi. 9 9 9 2.3. Thừa kế thế vị của con riêng, cha dượng, mẹ kế. 12 2.4. Thừa kế thế vị trong trường hợp con được sinh ra theo phương pháp khoa 13 học. 2.5. Thừa kế thế vị trong trường hợp có vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS. 3.Mối quan hệ thừa kế theo hàng và thừa kế thế vị. III.Một số bất cập trong quá trình áp dụng các quy định về thừ kế thế vị trong Bộ luật Dân sự 2005 và hướng hoàn thiện các quy định đó. 1.Thừa kế thế vị trong trường hợp có nhân tố con nuôi. 14 15 16 16 2. Thừa kế thế vị của con riêng, cha dượng, mẹ kế. 17 3.Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học. 18 4. Về thừa kế thế vị trong trường hộ vi phạm khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005. 20 C.KẾT LUẬN 21 21 A.MỞ ĐẦU Trong nề kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các quan hệ xã hội ngày càng trở nên đa dạng. Khi con người bắt đầu tích lũy về tài sản thì cũng đặt ra yêu cầu pháp luật bảo hộ vấn đề quyền sở hữu tài sản và chuyển dịch khối tài sản đó sau khi chết. Thừa kế trở nên đặc biệt quan trọng được nhà nước ghi nhận và bảo hộ và cụ thể hóa trong BLDS. Cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của cuộc sống các quy định của pháp luật về thừa kế cũng ngày được hoàn thiện dần. Thừa kế tài sản là phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản được thể hiện ở sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống theo các nguyên tắc và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trong đó, thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt được hưởng di sản của ông, bà, hoặc cụ với tư cách thay thế vị trí của người cha hoặc người mẹ để nhận phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt đáng lẽ được hưởng nếu còn sống. Kể từ năm 1945 đến nay, bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, các quy định về thừa kế thế vị ngày càng được bổ sung và hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt những quy định của pháp luật hiện hành đã thể hiện sự bảo vệ , củng cố và duy trì truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Tuy nhiên, có nhiều quy định của pháp luật về thừa kế thế vị còn chưa rõ ràng, dẫn đến sự chưa thống nhất và chưa có cách giải quyết đồng bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài: “Thừa kế thế vị theo qui định trong Bộ luật dân sự năm 2005”. 21 B.NỘI DUNG I.Những vấn đề chung về thừa kế và thừa kế thế vị. 1.Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế. Thừa kế di sản theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế, người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người được hưởng tài sản của người đã chết để lại được gọi là người thừa kế. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, mà không là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, nhưng người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan nhà nước hay bất kỳ một chủ thể nào khác thỏa mãn các quy định của pháp luật người được có tài sản chỉ định hưởng di sản theo di chúc. Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc, điều kiện, trình tự, hình thức để lại di sản và hưởng di sản thừa kế, quyền khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền thừa kế của mình và phủ định quyền thừa kế của người khác. Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa hẹp là quyền dân sự cụ thể của người được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế có quyền hưởng di sản, quyền từ chối nhận di sản, quyền khởi kiện hay không khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền hưởng di sản của mình trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Ngoài hai cách hiểu trên, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự giữa những người có quyền hưởng di sản với nhau và giữa những người thừa kế với người không có quyền hưởng di sản. Quan hệ thừa kế là một loại quan hệ pháp luật về di sản. Quan hệ này là hệ quả của quan hệ sở hữu và đồng thời cũng là căn cứ xác lập quyền sở hữu của người được thừa kế nhận di sản. Tính chất hai chiều của quan hệ thừa kế đã tạo điều kiện cho sự hình thành các quan hệ về tài sản khác của các chủ thể tham gia vào quan hệ thừa kế. Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy, nó chứa đựng những yếu tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật. Chế định thừa kế bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sởn hữu của họ trong việc để lại tài sản sau khi họ chết cho những người còn sống có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định (theo di chúc hoặc theo pháp luật). Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu tài sản của cá nhân, vì vậy Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Các hình thức dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật 21 là những cơ sở xác lập quyền sở hữu đối với di sản của người được hưởng thừa kế hợp pháp. 2.Khái niệm thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị. 2.1 Khái niệm thừa kế theo pháp luật Pháp luật thừa kế Việt Nam từ trước đến nay cũng như pháp luật thừa kế của các nước trên thế giới đều quy định cá nhân có quyền để lại di sản của mình sau khi chết cho những người thân thích theo một trong hau hình thức: thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. Pháp luật tôn trọng quyền sở hữu của công dân nên đã quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt khối tài sản của mình cho những người khác với ý chí hoàn toàn tự nguyện. Bên cạnh đó, trong những trường hợp mà việc định đoạt khối tài sản của người chết không thể thực hiện được bằng di chúc thì việc phân chia di sản đó sẽ được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Điều 674 BLDS 2005 quy định: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự hàng thừa kế do pháp luật quy định”. Như vậy, khác với thừa kế theo di chúc là những người thừa kế được chỉ định một cách cụ thể trong di chúc do người để lại di sản lập theo ý chí tự nguyện của họ, trong hình thức thừa kế theo pháp luật, người thừa kế là những người do pháp luật quy định gồm những người thân thuộc và có mối quan hệ gần gũi nhất đối với người để lại di sản. Phạm vi những người thừa kê theo pháp luật rất rộng và được quy định thành những hàng thừa kế nhất định. Việc hưởng di sản của người để lại di sản sẽ tuân theo một số nguyên tắc cụ thể: hàng thừa kế trước loại trừ hàng thừa kế sau và sẽ không bao giờ có trường hợp hai người ở hai hàng thừa kế khác nhau cũng được nhận di sản thừa kế theo hình thức thừa kế theo pháp luật; những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng kỉ phần bằng nhau. a Diện thừa kế Diện thừa kế theo quy định của pháp luật là phạm vi những người được pháp luật xác định có thể được hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật. Diện thừa kế qua các chế độ xã hội đều có một đặc điểm chung, đó là chủ yếu do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối, mặt khác, nó cũng tùy thuộc vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội và dựa trên những quy định pháp luật của chính chế độ xã hội đó mà phạm vi những người thuộc diện thừa kến theo pháp luật để xác đinh phạm vi những người được hưởng thừa kế dựa trên ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. b Hàng thừa kế Không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng được hưởng di sản thừa kế mà họ chỉ có thể được hưởng nếu thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện do pháp luật quy định hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thừa 21 kế. Trên cơ sở xác định diện thừa kế, pháp luật quy định những người có thể được hưởng di sản thừa kế của người chết được xếp theo thứ tự các hàng thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên và những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, di ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Khi chia thừa kế theo hàng thừa kế, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần bằng nhau, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Khi tất cả các hàng thừa kế đều không còn người thừa kế thì di sản thuộc về Nhà nước. 2.2 Khái niệm chung về thừa kế thế vị. Để giải quyết thỏa đáng quyền thừa kế thế vị của các cháu nội, ngoại hoặc chắt nội, ngoại trong trường hợp cha mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, BLDS 2005 đã thừa kế các quy định cũ đồng thời bổ sung quy định mới về thừa kế thế vị. cụ thể , Điều 677 BLDS 2005 quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống” Quy định trên không những phù hợp về mặt thực tế mà còn phù hợp với bản chất của thừa kế thế vị. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ liệt kê các trường hợp thừa kế thế vị mà chưa định nghĩa thế nào là thừa kế thế vị. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà XB CAND xuất bản năm 1999 định nghĩa “Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế”. Mặt khác, theo tinh thần của Điều luật trên thừa kế thế vị chỉ đặt ra khi người được thế vị (con hoặc cháu) chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản (ông, bà hoặc cụ). Vì thế, có thể hiểu, thừa kế thế vị là việc cháu hoặc chắt được hưởng di sản 21 của ông, bà, hoặc cụ với tư cách thay thế vị trí của người cha hoặc người mẹ để nhận phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt đáng lẽ được hưởng nếu còn sống. Pháp luật quy định về thừa kế thế vị là nhằm bảo vệ quyền lợi của các cháu, các chắt của người để lại di sản một cách trực tiếp nhất. Tuy nhiên, bản chất của thừa kế thế vị là không phải mọi trường hợp người cha, người mẹ không thể nhận di sản của ông, bà hoặc cụ thì người con có thể thay vị trí của người cha, người mẹ ấy để nhận. Việc áp dung thừa kế thế vị sẽ bị loại trừ nếu người được thế vị là con hoặc cháu của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản đó nhưng không có quyền hưởng di sản do đã vi phạm Khoản 1 Điều 643 trước khi chết. Trên cơ sở đó, Điều 677 BLDS năm 2005 đã quy định các trường hợp thừa kế thế vị để hưởng di sản thừa kế chính đáng của cháu, chắt được đảm bảo. 3.Các quy định của pháp luật dân sự về thừa kế thế vị qua các thời kỳ. Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến năm 1858 – khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta. Trong lĩnh vực dân sự, pháp luật của nước ta thời kỳ này được xây dựng theo khuôn mẫu của luật Cộng hòa Pháp, có cả biến cho phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội lúc bấy giờ đang bị chia làm 3 kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Tại ba kỳ có ba bộ luật: An Nam pháp quy giản yếu( năm 1883), Dân luật Bắc kỳ (năm 1931), Hoàng Việt Trung Kỳ bộ luật( năm 1936, 1938, 1939). Theo quy định của Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ, quyền thừa kế trước hết thuộc về các con của người để lại di sản của ông, bà. Lần đầu tiên trong pháp luật dân sự Việt Nam đã quy định về thừa kế thế vị, theo quy định tại các điều từ Điều 337 đến Điều 343 Dân luật Bắc Kỳ và từ Điều 332 đến Điều 338 Hoàng Việt Trung Kỳ bộ luật đều quy định: “Các con của người để lại di sản, con trai, con gái được chia đều nhau. Nếu có người con nào chết trước thì con cháu của người ấy thế vị”. Có thể nói, đây là điểm mốc đánh dấu sự xuất hiện quy định về thừa kế thế vị trong pháp luật dân sự quy định về thừa kế. Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, trước yêu cầu cấp bách của việc xóa bỏ các tàn tích của chế độ phong kiến trong lĩnh vực dân sự. Sắc lệnh số 97/SL, ngày 22/5/1950 được ban hành sửa đổi một số quy lệ và chế định trong luật dân sự. Về thừa kế thế vị, Sắc lệnh còn quy định cho người đang là con nuôi của người khác lại chết trước cha, mẹ để thì các con của người đó được thừa kế thế vị. Mặc dù Sắc lệnh số 97/SL đã quy định một số nguyên tắc về thừa kế nhưng trong trường hợp nào được thừa kế theo pháp luật thì vẫn chưa đề cập. Nhằm khắc phục tình trạng còn thiếu văn bản pháp luật về thừa kế, dựa trên thực tiễn xét xử, Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông tư số 1742-NBC ngày 18/9/1956, trong đó diện thừa kế có mở rộng hơn nhiều. Tuy chưa có quy định cụ thể về hàng thừa kế, 21 nhưng tại Điều 4, Điều 5 của Thông tư thì thứ tự thừa kế theo pháp luật bước đầu được xác định. - Thứ tự thứ nhất gồm có: vợ hoặc chồng và các con của người chết (là những người được hưởng di sản trước những người thân thuộc khác của người để lại di sản). - Thứ tự thứ hai gồm có: Cha mẹ của người để lại di sản; sau cha mẹ đến các hàng thừa kế khác. Về thừa kế thế vị: Các cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản được thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu chết trước ông bà. Hiến pháp năm 1959 được ban hành đã chính thức ghi nhận quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân (Điều 14) nhưng lúc này vẫn chưa có pháp luật dân sự hoàn thiện. Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn xét xử, ngày 27/8/2968 Thông tư số 594/TT-NCLP của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế được ban hành trong đó quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trong hàng thừa kế thứ nhất, nếu người con lại chết trước người để lại di sản thì con cháu của người này được thay mặt bố, mẹ mình đã chết trước”. Cũng theo Thông tư 594/TT-NCLP, con nuôi và bố mẹ nuôi được thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất, nhưng người đang làm con nuôi của người khác lại không có quyền thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ và của những người cùng huyết thống khác. Theo đó, con của người đang là con nuôi của người khác không được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp cha mẹ đẻ của họ chết trước ông bà. Ngược lại, nếu con nuôi chết trước cha mẹ nuôi thì con của người con nuôi đó được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà nhận nuôi cha hoặc mẹ họ. Thông tư số 81/TT-TANDTC ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản có quy định đầy đủ hơn những trường hợp thừa kế theo pháp luật và lần đầu tiên thừa kế thế vị của con nuôi được đề cập đến trong Thông tư này: “Người con nào (kể cả con nuôi) chết trước người để thừa kế thì các con của người đó (tức là cháu của người để thừa kế) sẽ hưởng phần thừa kế của bố, mẹ mình (thừa kế thế vị)”. So với các văn bản trước thì Thông tư số 81/TT-TANDTC có quy định về thừa kế thế vị có sự khác biệt cơ bản chỉ là quy định cháu được thừa kế thế vị. Pháp lệnh thừa kế được ban hành ngày 30/8/1990 là văn bản pháp luật điều chỉnh riêng về lĩnh vực thừa kế ở nước ta. Quyền thừa kế thế vị được ghi nhận trong một điều luật riêng và được củng cố, bổ sung phù hộ với điều kiện thực tế hơn nhưng văn bản quy định về thừa kế thế vị trước đó. Điều 26 Pháp lệnh thừa kế quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết 21 trước người để lại di sản , thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Để phù hợp với sự đổi mới mọi mặt của đất nước và đáp ứng như cầu của toàn xã hội trong thời kỳ đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế. Hiến pháp 1992 đã được ban hành. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, những nguyên tắc về thừa kế di sản và những quy định về quyền thừa kế của công dân đã được pháp điển hóa một cách cụ thể trong BLDS đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1995. Chế định thừa kế trong BLDS 1995 đã kế thừa hầu hết các quy định của Pháp lệnh thừa kế, tuy nhiên trong từng điều khoản cụ thể đã có sự chỉnh lý và bổ sung nhằm đưa các quy định của pháp luật về thừa kế vào cuộc sống một cách hữu hiệu hơn. Theo đó, vấn đề về thừa kế thế vị được quy định tại Điều 680 BLDS 1995. Qua 10 năm thi hành BLDS 1995, thực tiễn xét xử cho thấy những quy định pháp luật về thừa kế đã đi vào cuộc sống. Tuy nhiên trong suốt quá trình 10 năm đó, có rất nhiều các văn bản pháp luật có liên quan được ban hành, như Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Luật Đất đai năm 2003…dẫn đên những bất cập nhất định, đó là những quan hệ liên quan đến tài sản, quyền sử dụng đất và những quan hệ khác so liên quan đến thừa kế. Vì vậy, BLDS 2005 ra đời đã bổ sung chỉnh sửa một số quy định của BLDS 1995 cho phù hộ với thực tế và có tính áp dụng trong đời sống cao hơn. Quy định về thừa kế thế vị cũng được sửa đổi bổ sung cho phù hợp, theo đó pháp luật bổ sung trường hợp cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt “chết cùng một thời điểm” với người để lại di sản chứ không chỉ quy định trường hợp “chết trước” mới có quyền hưởng thừa kế thế vị như quy định của BLDS năm 1995. Một số vấn đề pháp lý xung quanh quan hệ thừa kế thế vị sẽ được đề cập và phân tích rõ sau đây. II.Một số vấn đề về thừa kế thế vị theo quy định của BLDS 2005. 1.Điều kiện hưởng thừa kế thế vị. Trước hết, muốn được hưởng thừa kế thế vị thì người thừa kế thế vị phải đảm bảo những điều kiện của người thừa kế theo pháp luật đó là: cháu phải còn sống vào thời điểm ông, bà chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt phải sống vào thời điểm cụ chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của cụ. Cũng trong điều kiện này, nhưng ở một hoàn cảnh đặc biệt hơn là cháu sinh ra sau khi ông, bà chết nhưng đã thành thai trước khi ông, bà cũng là người thừa kế thế vị tài sản của cụ. Điều 677 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Theo quy định trên, cháu 21 hoặc chắt được thừa kế thế vị của ông, bà nội, ngoại hoặc cụ nội, ngoại với những điều kiện: - Cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông bà nội, ông bà ngoại hoặc các cụ nội, cụ ngoại; - Cháu hoặc chắt chỉ được thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà hoặc của các cụ phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt được hưởng nếu còn sống. Điểm khác biệt giữa quy định về thừa kế thế vị của BLDS 1995 và BLDS 2005 là: nếu như trước đây BLDS 1995 chỉ quy định điều kiện cha hoặc mẹ chết trước ông, bà hoặc cụ chứ không quy định điều kiện “chết cùng thời điểm” như BLDS 2005. Sự thay đổi này là hoàn toàn hợp lý bởi trong thực tế có nhiều trường hợp ông và bố chết cùng 1 thời điểm trong một tai nạn mà không xác định được ai là người chết trước, ai là người chết sau. Do đó, sự thay đổi này còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền hưởng thừa kế của cháu và chẳ trong việc hưởng di sản của ông, bà và cụ. 2.Các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị. 2.1 Thừa kế thế vị trong trường hợp thông thường. a Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà. Cháu sẽ được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà trong các trường hợp cụ thể sau: - Trong trường hợp cha đẻ chết trước hoặc cùng một thời điểm với ông nội hoặc bà nội thì con được thay thế vị trí của cha để hưởng phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống. - Trong trường hợp mẹ đẻ chết trước hoặc cùng thời điểm với ông ngoại, hoặc bà ngoại thì con được thay thế vị trí của mẹ để hưởng phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống. Các trường hợp đều có một điểm chung là giữa người để lại di sản, người được thế vị và người thế vị đều có quan hệ huyết thống trực hệ. b .Chắt thế vị cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ. Chắt sẽ được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ trong các trường hợp cụ thể sau: Trường hợp ông nội, bà nội chết trước người để lại di sản là cụ, cha cũng chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông nội, bà nội thì chắt được hưởng phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di san chết. 21 Trường hợp ông ngoại, bà ngoại chết trước người để lại di sản là cụ, mẹ cũng chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông ngoại, bà ngoại thì chắt được hưởng phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết. Trường hợp ông, bà, cha, mẹ đều chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp ông, bà chết trước người để lại di sản, cha mẹ chết sau ông, bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ chắt được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp ông, bà không được quyền hưởng di sản của cụ và cha, mẹ chết trước cụ thì chắt cũng được thế vị cha, mẹ đẻ để hưởng thùa kế đối với di sản của cụ (nếu cụ không còn người thừa kế di sản ở hàng thứ nhất). Việc nhận con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo thủ tục luật định sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi là quan hệ cha mẹ và con đặc biệt, vì quan hệ này không phát sinh trên cơ sở tự nhiên và gắn với huyết thống giữa hai bên. 2.2. Thừa kế thế vị trong trường hợp có nhân tố con nuôi. Do đó, mối quan hệ này cần có những quy phạm pháp luật điều chỉnh kịp thời và đúng đắn. Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định: “1.Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con, giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan” Quy định này không những quy định mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ nuôi mà còn quy định mối quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ nuôi, trong đó bao gồm nhiều mối quan hệ khác nhau như: quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi con nuôi với những người anh, chị, em ruột của người nhận nuôi… Trong mối quan hệ với những thành viên này của gia đình cha mẹ nuôi, người con nuôi có được coi như con đẻ của người nhận nuôi hay không, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ của người nhận nuôi hay không, quy định điều luật chưa được sáng tỏ. Xuất phát từ cách quy định không rõ ràng này mà trên thực tế xuất hiện một số quan điểm cơ bản trái ngược nhau. 21 - Quan điểm thứ nhất cho rằng: giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi chỉ tồn tại mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau, được điều chỉnh với quy định tại Điều 49 Luật HN&GĐ 2000 – theo đó con nuôi chỉ có mối quan hệ với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi khi con nuôi sống chung với những thành viên này, còn khi không sống chung thì giữa họ cũng không tồn tại quyền và nghĩa vụ gì cả. Do đó, quy định tại Điều 47,48,58,59 Luật HN&GĐ 2000 cũng không được áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ giữa họ với nhau. Về quan hệ thừa kế, giữa con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi như cha mẹ đẻ, các con đẻ, anh chị em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi sẽ không có quyền thừa kế theo luật của nhau theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005. Tương tự, con nuôi cũng không được hưởng thừa kế thế vị theo Điều 677 BLDS năm 2005 đối với tài sản của cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha mẹ đẻ mình. - Quan điểm thứ hai cho rằng theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi thì giữa con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giống như con đẻ. Điều này là hợp lí khi việc nuôi con nuôi được xác lập theo trình tự nuôi con nuôi đầy đủ. Quan điểm trong việc xây dựng Luật nuôi con nuôi là “Con nuôi không chỉ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lí đối với cha mẹ nuô mà còn với ông, bà nội ngoại anh, chị em trong gia đình cha mẹ nuôi”, vì vậy để tạo môi trường tốt cho trẻ em được nhận làm con nuôi, để con nuôi có thể hòa nhập với gia đình cha mẹ nuôi thì con nuôi không chỉ có mối quan hệ với bản thân người nhận nuôi mà còn cần thiết lập mối quan hệ gắn bó về quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình người nhận nuôi. Theo đó, quyền thừa kế của người được nhận nuôi được bảo đảm như đối với con đẻ trong gia đình người nhận nuôi con nuôi – nghĩa là người con nuôi và những người khác trong gia đình người nhận nuôi như cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi, con đẻ của người nhận nuôi, anh chị em ruột của người nhận nuôi là những người thừa kế theo pháp luật với nhau và quan hệ thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 cũng sẽ phát sinh khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định. Vấn đề thứ hai cần được nhắc tới chính là quan hệ giữa con đã cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ. Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định, về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ được chuyển từ cha mẹ đẻ sang cho cha mẹ nuôi kể từ ngày việc nuôi con nuôi được pháp luật công nhận – cha mẹ đẻ không còn quyền của cha mẹ đối với con đã cho làm con nuôi. Từ quy định này có thể thấy, việc nuôi con nuôi được xác lập theo hai hình thức nuôi con nuôi đầy đủ và nuôi con nuôi đơn giản – trong đó hình thức nuôi con nuôi đầy đủ là hình thức mà khi quan hệ nhận nuôi con nuôi phát sinh theo căn cứ luật đinh thì đồng thời với việc đó là việc chấm dứt hoàn toàn các quyền và nghĩa vụ giữa người con được nhận làm con nuôi này sẽ gắn với một hệ quả pháp lý khác nhau. 21 Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi là quyền dân sự của mỗi cá nhân. Vấn đề thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi trong BLDS hiện nay được quy định tại Điều 678, theo đó: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 Bộ luật này”. Việc phân tích mối quan hệ giữa người được nhận là con nuôi với các thành viên khác trong gia đình người nhận nuôi con nuôi, cũng như mối quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với chính cha mẹ đẻ của họ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quan hệ thừa kế nói chung cũng như quan hệ thừa kế thế vị nói riêng có phát sinh hay không và nếu có thì sẽ phát sinh trong những trường hợp nào? Bởi vẫn biết quan hệ thừa kế thế vị không chỉ dựa trên cơ sở mối quan hệ huyết thống mà còn dựa trên mối quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, tuy nhiên, quy định của điều luật liên quan đến vấn đề thừa kế thế vị có nhân tố co nuôi còn quá chung chung nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và chưa thống nhất trong quá trình giải quyết tranh chấp của các cơ quan có thẩm quyền. 2.3. Thừa kế thế vị của con riêng, cha dượng, mẹ kế. Theo quy định của pháp luật, thì con riêng của vợ của chồng với cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế theo pháp luật của nhau và các con của họ còn được thừa kế thế vị theo Điều 679 BLDS: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này” Người con riêng của vợ hay chồng người chết không được thừa kế di sản của người chết theo pháp luật, vì giữa họ không có quan hệ huyết thống và không có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Nhưng nếu họ thể hiện được nghĩa vụ nuôi dưỡng chăm sóc nhau như cha con, mẹ con và thương yêu nhau như ruột thịt, thì họ có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau. Quan hệ chắm sóc, nuôi dưỡng, yêu thương nhau giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ. của chồng được thể hiện ở những mối quan hệ sau: - Không có sự phân biệt đối xử giữa con riêng của vợ với các con chung của họ. Cha kế, mẹ kế coi con riêng của vợ, của chồng như con ruột của mình và không dừng lại ở mặt hình thức mà được thể hiện trên thực tế nghĩa vụ: Yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục các con, chăm lo việc học tập và phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Điều kiện để con riêng và cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau chính là họ đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Những căn cứ trên được xác định thì con riêng của vợ, của chồng chết trước cha kê, 21 mẹ kế thì con của người con riêng đó được thừa kế thế vị như những người con, người cha khác của người để lại di sản theo quy định tại Điều 680 BLDS. Thừa kế thế vị không những chỉ phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống, mà còn phát sinh giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng nhau, yêu thương nhau. Sự thể hiện nghĩa vụ theo luật định hay tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng trên tình yêu thương, có trách nhiệm và công bằng là căn cứ được thừa kế thế vị cho những người con của con riêng mà người để lại di sản là cha kế, mẹ kế sau người con riêng đó. Quy định trên có tính nhân đạo và nhằm để giáo dục lòng nhân ái trong quan hệ giữa những thành viên trong một gia đình, mặc dù giữa họ không có quan hệ huyết thống và luật không quy định họ là giám hộ theo pháp luật của nhau. Quy định của pháp luật phù hợp với cuộc sống thực tế và những hoàn cảnh của đời sống xã hội. 2.4. Thừa kế thế vị trong trường hợp con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh có thể sinh con theo phương pháp khoa học, đáp ứng nguyện vọng thiết tha muốn được làm cha, làm mẹ của họ. Tuy nhiên, vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học là một vấn đề khá phức tạp, đặc biệt là về mặt pháp lý, bởi trong chừng mực nào đó đã làm thay đổi quan niệm truyền thống và quan niệm huyết thống giữa cha, mẹ và con. Chính vì vậy, ngày 12/02/2003, Chính phủ đã ban hành Nghi định số 12/2003/NĐ-CP quy định về con sinh theo phương pháp khoa học. Một vấn đề căn bản trong trường hợp cháu được hưởng di sản của ông, bà là: Nếu bố, mẹ của cháu là con được sinh ra theo phương pháp khoa học thì khi bố, mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà cháu có được thừa kế thế vị di sản của ông, bà hay không? Thời gian gần đây, ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã xuất hiện tương đối phổ biến những đứa trẻ sinh ra do được thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm. Vấn đề này đến nay vẫn khá phức tạp và gây khá nhiều tranh cãi trong việc xác định các vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề thừa kế. Việc xác định cha, mẹ, con sinh ra theo phương pháp khoa học được quy định tại Điều 20 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP, theo đó: “Trẻ ra đời do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân”. Điều 6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP đã nghiêm cấm hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Như vậy, cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân được xác định là cha, mẹ đối với đứa trẻ sinh ra do thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản. Người phụ nữ sống độc thân đương nhiên được xác định là mẹ đẻ của đứa trẻ và do đó, vấn đề thừa kế thế vị di sản do ông ngoại để lại khi người mẹ của đứa trẻ đó chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà là hoàn toàn có cơ sở. Việc xác định cha, mẹ cho con sinh ra 21 trong trường hợp này là căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa cha, mẹ của đưá trẻ và pháp luật mặc nhiên thừa nhận quan hệ cha, mẹ và con giữa họ. Người con được sinh ra theo phương pháp khoa học này có địa vị pháp lý tương tự như người con đẻ được sinh ra từ các cặp vợ chồng khác, do vậy vấn đề thừa kế thế vị cũng đương nhiên được đặt ra và được xác định tương tự như những trường hợp đã được trình bày ở những phần trên. Con được sinh ra do thực hiện công nghệ hôc trợ sinh sản không đươc quyền yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Việc yêu cầu dùng phương pháp khoa học giám định gen, thử máu để xác địn cha, mẹ, con trong trường hợp này là không có giá trị. 2.5. Thừa kế thế vị trong trường hợp có vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS. Những người thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 bao gồm: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó. - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hướng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng. - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Quyền hưởng di sản của cá nhân luôn được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội có một số trường hợp cá biệt người thừa kế thế vi phạm nghiêm trọng hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội bị pháp luật tước quyền hưởng di sản. Trước năm 1945, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến ở nước ta cũng có những quy định về người thừa kế không có quyền hưởng di sản của người quá cố - quy định cụ thể tại Điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 306 Dân luật Trung Kỳ. Sau năm 1945, chỉ đến khi Pháp lệnh thừa kế 1990 được ban hành thì vấn đề người thừa kế không có quyền hưởng di sản mới được pháp luật dự liệu một cách đầu đủ tại Điều 7 Pháp lệnh thừa kế. Nội dung của quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh được kế thừa tại Điều 646 BLDS 1995 và đến nay được quy định tại Điều 643 BLDS 2005. Những trường hợp được liệt kê theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 ở trên là những người không được quyền hưởng di sản, vì họ không còn xứng đáng được quyền hưởng thừa kế di sản của người chết để lại nữa. Khi nghiên cứu về thừa kế thế vị, cần thiết phải đặt ra vấn đề trong trường hợp của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản, nhưng người con đó khi còn sống đã có một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, thì cháu có được thừa kế thế vị di sản của ông, bà hay 21 không? Pháp luật của nước ta kể từ năm 1945 cho đến nay chưa có quy định nào quy định về trường hợp này. Dựa vào quy định tại Điều 677 BLDS 2005 quy định về thừa kế thế vị: cháu thế vị cha hoặc mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà để hưởng phần di sản của ông, bà mà nếu còn sống, cha hoặc mẹ cuae cháu sẽ được hưởng, quy định như vậy tương tự đối với trường hợp thừa kế thế vị của chắt. Như vậy, có nghĩa là pháp luật quy định ngoài điều kiện cha hoặc mẹ của cháu, chắt được thừa kế thế vị nhận di sản của ông, bà hoặc cụ, một điều kiện nữa là cha, mẹ của cháu hoặc chắt phải được hưởng di sản nếu còn sống. Vì vậy, mà nếu hiểu theo từng câu chũ thì có thể kết luận: nếu lúc còn sống, cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt đã có những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì dù cha, mẹ của cháu hoặc chắt có chết trước cùng thời điểm với ông, bà hoặc cụ thì quan hệ thừa kế thừa kế thế vị cũng không được phát sinh. Tuy nhiên, nhận thấy trên thực tế, nếu quy định như điều luật sẽ không đảm bảo được quyền thừa kế của các cháu, chắt trong thực tế và không phù hợp với bản chất của những quy định khác của pháp luật, cụ thể là những quy định về trách nhiệm hình sự quy định. 3.Mối quan hệ thừa kế theo hàng và thừa kế thế vị. Quan hệ thừa kế theo hàng nói chung và quan hệ thế vị nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ: quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo hàng nhưng hàng thừa kế lại là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong một số trường hợp sau: Trường hợp thứ nhât, hàng thừa kế là căn cứ để xác định phần di sản mà người thừa kế thế vị được hưởng. Đó là trường hợp, con hoặc cháu của người để lại di sản là người được thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản. Do vậy, con của người con hoặc người cháu đó được thừa kế thế vị cha hoặc mẹ mình. Phần di sản mà cháu hoặc chắt thay thế cha, mẹ họ được hưởng tương ứng với phần di sản mà người cha, người mẹ của người thừa kế thế vị được hưởng từ di sản của ông, bà hoặc cụ. Tuy nhiên, dù người thừa kế thế vị chỉ là một người hay gồm nhiều người thì những người thừa kế thế vị cũng chỉ được hưởng chung một suất thừa kế được chia theo pháp luật mà người được thừa kế theo hàng ( cha, mẹ người thừa kế thế vị) được hưởng nếu còn sống. Trường hợp thứ hai, hàng thừa kế là căn cứ để chắt được hưởng thừa kế thế vị trong trường hợp: cụ chết, ông, bà là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất, nhưng ông, bà lại không có quyền hưởng do vi phạm Điều 643 BLDS 2005. Do vậy, những người ở hàng thừa kế thứ hai được hưởng thừa kế, trong đó có cháu, nhưng cháu lại chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cụ, nên chắt được thừa kế thế vị để hưởng suất thừa kế được chia theo pháp luật mà người thừa kế theo hàng ( cháu)_ được hưởng nếu còn sống. Như vậy, nếu cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai thì 21 chắt cũng không được thừa kế thế vị trong trường hợp trên và khi đó quyền lợi của cháu chưa được đảm bảo một cách triệt để. - Mặt khác, theo quy định về người thừa kế theo pháp luật tại Điều 676 và thừa kế thế vị Điều 677 BLDS năm 2005 thì cháu, chắt thuộc phạm vi những người thừa kế theo pháp luật của ông, bà, cụ. theo đó, mối quan hệ giữa thừa kế theo hàng và thừa kế thế vị của cháu, chắt được thể hiện trong các trường hợp: + Trường hợp không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, trong đó có cha hoặc mẹ của cháu thì cháu được thừa kế thế vị mà không phải là thừa kế theo hàng. + Trường hợp không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì cháu được hưởng thừa kế theo hàng thứ hai + Trong trường hợp ở hàng thừa kế thứ nhất còn những người thừa kế khác ngoài cha hoặc mẹ cháu thì mặc dù cha, mẹ cháu không có quyền hường, bị truất quyền hưởng hoặc từ chối nhận di sản thì cháu không được hưởng di sản vì cháu thuộc hàng thừa kế thứ hai. Khi đó, di sản được chia cho những người thừa kế khác có quyền hưởng thừa kế tại hàng thứ nhất. Như vậy, cháu chỉ có thể hưởng di sản theo hàng thừa kế thứ hai hoặc thừa kế thế vị mà không thể hưởng thừa kế thế vị vừa hưởng thừa kế theo hàng của ông, bà nội, ngoại. Tương tự, chắt sẽ được hưởng thừa kế theo hàng nếu hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa kế thứ hai đều không còn ai do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp, không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai do đã chết nói riêng thì chắt nói riêng và những người ở hàng thừa kế thứ ba nói chung được hưởng di sản theo hàng. Nếu những người thừa kế ở hàng thứ hai được hưởng di sản nhưng đều đã chết trong đó, cha, mẹ chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được thừa kế thế vị mà không là người thừa kế hàng thứ ba. Nếu những người hàng thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều không còn do không có quyền hưởng, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì chắt thừa kế theo hàng ba cùng với những người thừa kế khác tại hàng ba nếu có. III.Một số bất cập trong quá trình áp dụng các quy định về thừ kế thế vị trong Bộ luật Dân sự 2005 và hướng hoàn thiện các quy định đó. 1.Thừa kế thế vị trong trường hợp có nhân tố con nuôi. - Điều 678 BLDS chỉ quy định chung chung là con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 677 BLDS. 21 Vì vậy, dẫn tới cách hiểu khác nhau và áp dụng không thống nhất trong những trường hợp: + Khi người nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc cùng một thời điểm với cha mẹ đẻ của họ thì người con nuôi của họ có được thừa kế thế vị không? + Khi người con nuôi chết trước hoặc cùng một thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì con đẻ của người con nuôi có được thừa kế thế vị không? + Khi người con nuôi chết trước hoặc cùng một thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì con nuôi của người con nuôi có được thừa kế thế vị không? Trên thực tế hiện nay có rất nhiều hình thức con nuôi như: Con nuôi có quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, con nuôi thực tế tức chỉ có mối quan hệ nhận con nuôi miệng và có quan hệ nuôi dưỡng…Từ thự thực tế như vậy, thiết nghĩ pháp luật cần có quy định cụ thể về vấn đề thừa kế của con nuôi. 2. Thừa kế thế vị của con riêng, cha dượng, mẹ kế. Quy định tại Điều 679 về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế như hiện nay thì việc xác định quyền thừa kế theo pháp luật của nhau giữa con riêng và cha kế, mẹ kế là một vấn đề phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng quy phạm để giải quyết tranh chấp thực tế phát sinh. Con riêng và cha dượng, mẹ kế cũng có thể được thừa kế của nhau nếu họ đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Nhưng pháp luật Việt Nam cho tới nay chưa có sự giải thích chính thức khái niệm này. Điều đó có thể dẫn tới thực trạng khi người để lại di sản được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của người đó mà những người thừa kế khác không công nhận quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế đó. Trong bối cảnh khung pháp lý chưa đầy đủ, các tòa án khó có cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của con riêng và cha dượng, mẹ kế. Như vậy, mặc dù quy định về quan hệ nuôi dưỡng không thuộc lĩnh vực thừa kế nhưng đó cũng là cơ sở để giải quyết quan hệ thừa kế theo pháp luật. Do đó, khái niệm “nuôi dưỡng” nói chung và khái niệm “chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con” nói riêng cần phải làm sáng tỏ trong pháp luật, để góp phần bảo về tốt hơn nữa các quyền lợi về mặt nhân thân cũng như tài sản của công dân, trong đó có quyền thừa kế giữa nhưng người có quan hệ nuôi dưỡng với nhau, quyền thừa kế giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế. Điều 38 Luật HN&GĐ quy định con riêng và cha kế, mẹ kế có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau nếu họ không cùng chung sống với nhau thì không có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. Pháp luật nên quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và cha kế, mẹ kế không phụ thuộc vào nơi cư trú của họ mà phải căn cứ vào việc giữa họ có thực sự thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con hay không và cần quy định những điều kiện nào được coi là chăm sóc, nuôi dưỡng cũng chỉ cần một bên có đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, 21 mẹ con thì vẫn được thừa kế của nhau và trong trường hợp người con riêng chết trước hoặc cùng một thời điểm với cha kế, mẹ kế thì con của người con riêng đó được hưởng thừa kế thế vị. 3.Thừa kế thế vị trong trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học. Có thể nói thành tựu của sự phát triển không ngừng về khoa học kĩ thuật đã biến sự mong mỏi tha thiết được làm cha, làm mẹ của các cặp vợ vô sinh trở thành hiện thực. vấn đề này được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật riêng do Chính phủ ban hành, đó là Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 quy định về sinh con theo phương pháp khoa học. Như đã phân tích, người con được sinh ra theo phương pháp khoa học được xác định là con của cặp vợ chồng vô sinh và có các quyền, nghĩa vụ như người con đẻ được sinh ra ở những cặp vợ chồng khác. Vì vậy, khi người con sinh ra theo phương pháp khoa họăc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha, mẹ là người để lại di sản thì người con đẻ của người con được sinh ra theo phương pháp đó sẽ được thừa kế thế vị tài sản do ông, bà của mình để lại. Người con sinh ra theo phương pháp khoa học không được quyền yêu cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Vì vậy, thừa kế thế vị đương nhiên không đặt ra giữa người con được sinh ra theo phương pháp khoa học và người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Cũng từ việc sinh con theo phương pháp khoa học, vấn đề xác định tư cách pháp lý của cha, mẹ và con sinh ra trong trường hợp này cũng trở thành một yêu cầu bức thiết đối với pháp luật. Qua tham khảo các tài liệu có liên quan đến vấn đề này, thiết nghĩ có một số vướng mắc cần đặt ra như sau: Thứ nhất, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP có quy định về việc lưu giữ tinh trùng. Giả thiết, hai vợ chồng mong muốn có con và thực hiện việc sinh con theo phương pháp khoa học, trong quá trình thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, tinh trùng của người chồng đã được lưu giữ tại cơ sở lưu giữa tinh trùng thì người chồng chết, nhưng người vợ vẫn mong muốn có con với người chồng đã chết đó của mình. Đứa con được sinh ra trong trường hợp này rõ ràng là con ruột của bố đã chết đó, và nếu bố chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà nội thì xét về mặt đạo lý, đứa bé hoàn toàn có quyền được thừa kế thế vị thay thế vị trí của bố mình để hưởng di sản của ông, bà để lại. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý thì điều kiện hưởng thừa kế của người thừa kế theo pháp luật thì cá nhân phải “sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”. Nghĩa là đứa bé được sinh ra theo phương pháp khoa học muốn thừa kế thế vị hưởng di sản của ông, bà thì cũng phải sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm ông hoặc bà chết. Trong trường hợp này, rõ ràng đứa trẻ sinh ra và còn sống nhưng lại được thành thai sau khi người để lại di sản chết. Như vậy, vô tình pháp luật hiện hành đã tước đi quyền 21 được hưởng thừa kế thế vị di sản từ ông, bà của người cháu này khi bố cháu đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà. Thiết nghĩ, pháp luật thừa kế của nước ta cần có những quy định bổ sung các trường hợp thừa kế thế vị để quyền lợi của các cháu được bảo vệ tốt hơn nữa, nhất là trong trường hợp cháu được sinh ra theo phương pháp đặc biệt này. Thứ hai, trường hợp người vợ thực hiên sinh con theo phương pháp khoa học mà không phải tinh trùng của người chồng, sau đó người chồng không thừa nhận đứa con đó là con của mình mà chỉ coi đó là con riêng của vợ thôi thì sao? Điều này liên quan trực tiếp đến vấn đề xác định người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cụ thể là xác định cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ. Vì thế, pháp luật cần sớm có hướng dẫn cụ thể vấn đề này, từ đó làm cơ sở giải quyết quyền lợi mọi mặt của những người liên quan, suy rộng ra để có thể bảo vệ quyền lợi cho cháu chắt trong trường hợp cha, mẹ của cháy, chắt (là người được sinh ra theo phương pháp khoa học) chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà (cặp vợ chồng vô sinh sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản) – vì nếu người con sinh ra theo phương pháp khoa học không được người cha công nhận là con đẻ của mình thì có thể ảnh hưởng đến tư cách thừa kế theo pháp luật của họ, và do đó một cách gián tiếp ảnh hưởng đến quyền thừa kế của cháu và chắt (nếu có thừa kế thế vị phát sinh). Hay có quan điểm phân vân cho rằng có trường hợp nào người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi yêu cầu để lại di sản thừa kế cho người con được sinh ra từ việc người phụ nữ độc thân hoặc cặp vợ chồng vô sinh nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi của người đó hay không, và nếu có yêu cầu để lại thừa kế cho người con được sinh ra theo phương pháp khoa học đó thì sẽ giải quyết thế nào? Vấn đề thừa kế thế vị có phát sinh trong trường hợp này hay không? Những quy định của pháp luật hiện nay cho thấy, pháp luật mặc nhiên quy định người con được sinh ra do thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm là con của cặp vợ chồng vô sinh. Quan hệ cha, mẹ và con trong trường hợp này được xác định như quan hệ giữa cha, mẹ đẻ và con đẻ trong những cặp vợ chồng không sử dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản khác. Vì thế, dù người vợ sinh con do sử dụng tinh trùng của người khác thì đứa trẻ sinh ra vẫn được xác định là con chung của hai vợ chồng và quan hệ thừa kế phát sinh một cách bình thường. Cũng từ những quy định của pháp luật, thiết nghĩ trên thực tế rất ít những trường hợp người cho tinh trùng, cho noãn , cho phôi có thể biết được những thông tin về người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi của mình. Nhưng nếu có trường hợp người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi biết được người con được sinh ra do sử dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản là do nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi của mình và muốn để lại thừa kế cho người con đó thì thiết nghĩ hoàn toàn có thể chấp nhận được. Bởi lẽ, bản chất của việc pháp luật quy định con sinh ra đã thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền tự yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi là để bảo vệ một cách tối đa quyền của những người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi, quy định như 21 vậy nhằm khuyến khích việc cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi của mọi người, để tạo cơ hội thỏa mãn khát khao được làm cha, làm mẹ của mình; nhưng trong trường hợp người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi có yêu cầu để lại thừa kế cho người con được sinh ra từ việc nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi của họ thì hoàn toàn có thể chấp nhận được. Quan hệ thừa kế sẽ phát sinh trong trường hợp người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi định đoạt tài sản thừa kế của mình cho người con được sinh ra theo phương pháp khoa học băng hinhg thức thừa kế theo di chúc. Quan hệ thừa kế theo hình thức thừa kế theo pháp luật không thể phát sinh được bởi lẽ người con được sinh ra theo phương pháp khoa học này xác định là con chung của cặp vợ chồng vô sinh hoặc con đẻ của người phụ nữ sống độc thân chứ không phải con của người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Vì vậy, nếu xác định là quan hệ thừa kế theo pháp luật thì sẽ không chính xác, vì người con đó không được xác định thuộc hàng thừa kế nào của người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi cả. Do quan hệ thừa kế chỉ có thể phát sinh trên cơ sở di chúc hợp pháp nên vấn đề thừa kế thế vị trong trường hợp này là không phát sinh. 4. Về thừa kế thế vị trong trường hộ vi phạm khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005. Trong trường hợp này, pháp luật nên quy định cho cháu và chắt vẫn được hưởng thừa kế thế vị di sản của ông, bà hoặc cụ để lại, dù cho trước đó cha, mẹ của họ lúc còn sống đã có hành vi vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 (chỉ trừ trường hợp chính người cháu hoặc chắt đó bị truất quyền hưởng di sản hoặc bị tước quyền hưởng di sản do có nhưng hành vi quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS) bởi lẽ trong trường hợp này cháu không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi do cha, mẹ mình gây ra. BLDS quy định về việc tước quyền thừa kế của những người không được quyền hưởng di sản do đã có một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 643 thì không được quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Nhưng những người bị kế án về hành vi theo quy định tại khoản 1 Điều 643 vẫn được hưởng di sản , nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Biết rằng trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người có hành vi phạm tội, do vậy các cháu hoặc chắt của người để lại di sản không thể gánh chịu những hành vi độc lập của cha, mẹ trong quan hệ cụ thể này. Quyền thừ kế thế vị của các cháu hoặc các chắt không thể bị pháp luật tước bỏ khi mà giữa cha, mẹ và các con hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự với tư cách cá nhân và hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu chỉ hiểu một cách máy móc là cha hoặc mẹ của cháu khi sống không có quyền hưởng di sản thì cho dù cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt có chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông bà nội, ngoại hoặc cụ ngoại thì cháu cũng không được thừa kế thế vị là đã sa vào tình trạng “quýt làm cam chịu”, trái với bản chất của pháp luật thừa kế hiện đại và trái với truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế thế vị trong nhân dân. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan