LỜI MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội, một chế định pháp luật đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
nuôi…; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, tinh thần tương thân,
tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Đặc biệt, đối với những
trẻ em mồ côi, không ai nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục thì việc nuôi con nuôi
được xem là vấn đề cấp thiết, đảm bảo cho hầu hết trẻ em được nuôi dưỡng giáo
dục tốt và được sống trong môi trường gia đình. Pháp luật Việt Nam cũng đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm về vấn đề nuôi con nuôi cũng như tham gia các
công ước quốc tế về trẻ em. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời đã xây dựng
được một khung pháp luật thống nhất và tương đối ổn định, có giá trị áp dụng lâu
dài với hiệu lực pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Tuy nhiên không thể tránh khỏi sự khác biệt, đối lập giữa các quy định pháp luật
với nhau.Vì vậy giữa chế định nuôi con nuôi trong Luật HN và GĐ năm 2000 và
Luật nuôi con nuôi năm 2010 có rất nhiều điểm khác nhau. Chính vì vậy em xin
chọn đề tài: “Điều kiện nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi 2010 trong mối
liên hệ với điều kiện nuôi con nuôi theo luật hôn nhân gia đình năm 2000”. Do
sự hạn chế về kiến thức và hiểu biết nên bài làm còn nhiều sai sót. Kính mong sự
đóng góp ý kiến của thầy cô để bài làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niệm “Con nuôi”
- Dưới góc độ xã hội: con nuôi là con của người khác nhưng được một người
hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thỏa mãn
những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên.
- Dưới góc độ pháp lí: con nuôi là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định
được một hoặc hai người là vợ, chồng công nhận làm con qua những thủ tục pháp
lí nhất định mà giữa hai bên không có quan hệ huyết thống trực hệ, không sinh
thành ra nhau và không phải là anh chị em ruột của nhau.
2. Khái niệm “Nuôi con nuôi”
Trong khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có quy định:
“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con
nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con
nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã
hội”. Trong khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi 2010 cũng có quy định tương tự:
“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi
và người được nhận làm con nuôi”.
Dưới góc độ là sự kiện pháp lí, việc nuôi con nuôi là cấu thành sự kiện – sự
kiện pháp lí phức hợp.
- Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi: Người nhận nuôi con nuôi phải
thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ
cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Ý chí, mong muốn đó của người nhận nuôi phải
được thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi;
- Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm
con nuôi: ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải
minh bạch, và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không có bất
2
cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào. Nói cách khác, ý chí
đó phải hoàn toàn độc lập. Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con
nuôi của người khác. Sự đồng ý đó có thể thể hiện bất cứ lúc nào nhưng nó chỉ có
ý nghĩa sau khi đứa trẻ được sinh ra mà còn sống;
- Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi: Khoản 2 Điều 71 Luật HN&GĐ
năm 2000 và khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi có quy định: “Việc nhận trẻ em
từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó”.
Trong trường hợp này đứa trẻ tuy chưa được coi có năng lực hành vi đầy đủ
nhưng đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày
tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi người khác,
cũng như cảm nhận được sự an toàn hay không an toàn khi được cho làm con
nuôi người khác, khi phải thay đổi môi trường sống… Do đó, pháp luật quy định
đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có
liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ từ
đủ 9 tuổi trở lên là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lí;
- Sự thể hiện ý chí của Nhà nước. Ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc
công nhận (hay không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng kí
việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng kí nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi
được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp
lí của việc nuôi con nuôi.
II. Điều kiện nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi 2010 trong mối liên hệ với
điều kiện nuôi con nuôi theo luật hôn nhân gia đình năm 2000.
1. Điều kiện của việc nuôi côn nuôi.
1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi.
Trước hết, Luật NCN đã thống nhất các điều kiện của người được nhận làm
con nuôi trong nước và nước ngoài, vì vậy điều kiện của người được nhận làm
con nuôi trong nước và ngoài nước như nhau. Theo quy định thì ngoài việc đáp
3
ứng những điều kiện nuôi con nuôi trong nước, Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐCP còn quy định thêm các điều kiện cho trẻ em được nhận làm con nuôi nước
ngoài. Luật NCN đã quy định chung điều kiện của người được nhận làm con nuôi
tại điều 8, không phân biệt nuôi trong nước hay nuôi con nuôi có yếu tố nứơc
ngoài. Vì vậy sự khác nhau cơ bản giữa Luật NCN và Luật HN&GĐ về vấn đề
này ở một số điểm sau:
Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định “ người
được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống” còn Luật NCN lại
quy định tại Khoản 1 Điều 8 về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là “
Trẻ em dưới 16 tuổi”.
Tại sao lại có sự khác biệt này? Đó là bởi vấn đề về độ tuổi của người được
nhận làm con nuôi, với mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em được
nhận làm con nuôi trong môi trường gia đình nên độ tuổi của trẻ em được nhận
làm con nuôi trong Luật NCN có quan hệ và gắn bó mật thiết với độ tuổi được coi
là trẻ em trong Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Vì vậy, Luật NCN tăng
độ tuổi của người được làm con nuôi thành “dưới 16 tuổi”( Điều 8 Khoản 1),
nhằm phù hợp với độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật Chăm sóc, bảo vệ
và giáo dục trẻ em năm 2005 (theo điều 1, trẻ em theo quy định của luật này là
công dân Việt Nam từ 16 tuổi trở xuống). Như vậy, trừ các trường hợp ngoại lệ
được quy định tại khoản 2 điều 8, đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật này
chính là trẻ em, quy định này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi. Quy định này
nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước đồng thời vẫn
đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế với trường hợp người nước
ngoài nhận nuôi.
Thứ hai, theo Khoản 1 Điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định: Người trên
15 tuổi có thể đựơc nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn. Còn tại
4
Khoản 2 Điều 8 Luật NCN lại quy định trường hợp ngoại lệ về độ tuổi người
được nhận làm con nuôi là người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu được cha
dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Ở đây có 2 sự khác nhau, đó là:
+ Luật NCN không quy định vấn đề “được nhận làm con nuôi nếu là thương binh,
người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu
cô đơn”. Vì những trường hợp này chỉ là quan hệ vì mục đích chăm sóc, phụng
dưỡng.
Việc loại bỏ các trường hợp này phù hợp với mục đích và nguyên tắc nuôi
con nuôi là để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình; còn công tác đảm bảo cuộc
sống cho thương binh, người tàn tật, người già yếu cô đơn sẽ do pháp luật về an
sinh xã hội điều chỉnh.
+ Phần lớn những người ở độ tuổi từ 16 đến 18 chưa thể tự nuôi sống bản thân,
tâm sinh lí cũng chưa phát triển hoàn thiện. Vì vậy pháp luật quy định người ở độ
tuổi này có thể được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm
con nuôi để đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Hiện nay có tương đối
nhiều hồ sơ xin nhận trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi. Việc
giải quyết cho trẻ em làm con nuôi của người cha dượng hoặc mẹ kế nhằm đảm
bảo cho trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái
khi trẻ em có cha mẹ kết hôn với người nước ngoài và người cha, người mẹ kế
của trẻ em muốn nhận trẻ em đó làm con nuôi.
Thứ ba, theo khoản 2 điều 68 Luật HN và GĐ năm 2000: “ Một người chỉ có thể
làm con nuôi một người hoặc của cả hai vợ chồng” còn tại khoản 3 Điều 8, Luật
NCN năm 2010 lại quy định: “ một người chỉ được làm con nuôi của một người
độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Quy định của luật HN và GĐ chưa
làm rõ vấn đề một người đã có vợ hoặc chồng có được phép nhận con nuôi riêng
5
hay không. Luật NCN đã có sự thay đổi, hiểu theo quy định của khoản 3 điều 8,
luật chỉ cho phép một người độc thân hoặc cả hai vợ chồng nhận con nuôi. Như
vậy, Luật NCN không cho phép người đã có vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng,
việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng. Đây cũng là một
điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia
đình trọn vẹn, có sự yêu thương của tất cả các thành viên trong gia đình.
1.2. Điều kiện đối với người nhận con nuôi
* Nuôi con nuôi trong nước
Nuôi con nuôi vì mục đích xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận
nuôi con nuôi với người được nhận nuôi để trẻ em có sự chăm sóc ,giáo dục tốt
nhất. Pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
nuôi con nuôi ,trước hết là vì lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi. Điều
kiện của người nhận con nuôi là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo cho mục
đích của việc nuôi con nuôi trong thực tế.
Ngoài các điều kiện để đảm bảo cho việc nuôi con nuôi đạt được mục đích
tốt đẹp thì luật quy định việc nuôi con nuôi giữa những người có quan hệ họ hàng
với nhau sẽ rất thuận lợi và được khuyến khích nhưng quan hệ huyết thống giữa
họ phải đảm bảo trong một phạm vi nhất định. Luật Nuôi con nuôi có quy định
thêm về điều kiện đối với người nhận con nuôi ở khoản 2 điều 14 như sau:
“Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng
làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp
dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này”. Cũng giống như lí giải đối
với người được nhận làm con nuôi trên ,thì việc trẻ em được những người thân
trong gia đình nhận nuôi dưỡng là việc rất đáng trân trọng. Quy định này cũng
phù hợp với Thông tư 08/BTP là quan hệ giữa người xin nhận con nuôi là cô, cậu,
dì, chú, bác với trẻ em là cháu được xin làm con nuôi (theo bên nội hoặc bên
ngoại ),…thì không giải quyết. Để đảm bảo trật tự gia đình không bị đảo lộn và
6
lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi thì quy định trên là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên việc quy định giới hạn tuổi tối đa của cha mẹ nuôi cũng có ý nghĩa
không nhỏ. Việc nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại một gia đình cho đứa trẻ,
gia đình đó càng giống, càng tương hợp với gia đình tự nhiên của trẻ thơ càng tốt,
vì vậy “sẽ không hợp với tự nhiên chút nào nếu trẻ ở với các cặp vợ chồng đã quá
tuổi sinh nở”. Hơn nữa, khi tuổi đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
trẻ được nhận nuôi. Vì vậy, để phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và có
tính khả thi, pháp luật nên quy định hạn chế tuổi tối đa của người nhận nuôi con
nuôi, chẳng hạn người nhận nuôi con nuôi là người không quá 60 tuổi. Luật nuôi
con nuôi chưa đề cập đến vấn đề này cũng là 1 hạn chế.
* Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Ví dụ : Cháu Huỳnh Đức Hiếu sinh ngày 20/5/1999 bị đục giác mạc, vỡ màng
bụng và không có hậu môn. Sau nhiều lần được phẫu thuật và chữa trị tại
St.Johannes một bệnh viện tại Salzburg, nay cháu đã trở thành một bé trai phát
triển tốt trong sự chăm sóc của cha mẹ nuôi người nước ngoài.
Ví dụ trên đã cho ta thấy việc trẻ em được người nước ngoài nhận làm con
nuôi là điều hết sức tốt đẹp nếu họ có đủ điều kiện chăm lo cho đứa trẻ đó có một
mái ấm hạnh phúc và một tương lai tươi sáng. Thế nhưng, liệu cho trẻ em nhận
làm con nuôi người nước ngoài có đảm bảo được sự an toàn và lợi ích của trẻ em
hay không? Vấn đề này chưa được đặt ra trong Luật hôn nhân và gia đình năm
2000.Vì thế, để bảo đảm quyền và lợi ích của trẻ em, về phần nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài, Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định về điều kiện đối
với người nhận con nuôi như sau: “1.Người Việt Nam định cư ở nước
ngoài,người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con
nuôi phải có đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó
thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này.
7
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều
kiện theo quy định tai điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người
được nhận làm con nuôi thường trú.”
Quy định trên cho thấy việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phải đảm
bảo đủ điều kiện pháp luật nơi người nhận nuôi thường trú và đủ điều kiện của
người nhận nuôi con nuôi theo điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010. Đó là nhằm
ngăn chặn việc nhận nuôi trẻ em vào những mục đích xấu như đánh đập, hành hạ
hay làm nô lệ…Nó thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta nhằm bảo đảm
cho trẻ em được sống trong môi trường giáo dục tốt nhất để phát triển cả về thể
chất lẫn trí tuệ .
Việt Nam hiện đã kí 16 Hiệp định về con nuôi quốc tế với 10 nước và vùng
lãnh thổ, có 68 văn phòng đại diện của các Tổ chức Con nuôi quốc tế được Bộ Tư
pháp cấp phép hoạt động tại Việt Nam. Thông qua các Tổ chức này, cha mẹ nuôi
người nước ngoài nộp hồ sơ xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi tại Bộ Tư pháp.
Năm 2006 số trẻ em Việt Nam được cho đi làm con nuôi người nước ngoài là
1.550 em, năm 2007 là 2.000 em.
1.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể:
Theo Luật NCN, việc cho trẻ em làm con nuôi vẫn cần phải có dự đồng ý
của cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em từ 09 tuổi trở lên. Luật còn quy định rõ
sự đồng ý này là phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực không bị ép buộc, không bị
đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích
vật chất khác (Điều 21). Luật NCN còn quy định: Cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý
cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, đây là quy định
nhằm tránh các trường hợp cha mẹ đẻ và các cá nhân tổ chức khác có sự thoả
thuận cho trẻ làm con nuôi trước khi sinh, hoặc cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc
biệt đã chấp nhận con vừa sinh ra làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ
lưỡng.
8
Luật NCN đề cập vai trò của UBND trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ
hoặc người giám hộ của trẻ theo quy định của Khoản 2 Điều 21, nội dung tư vấn
về các vấn đề như mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên
quan sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Trong Nghị định 19/2011/NĐCP hướng dẫn thi hành Luật NCN, trước hết “ công chức tư pháp- hộ tịch phải tư
vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục phù hợp với điều kiện
và khả năng thực tế của gia đình, trường hợp cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp
cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn
đầy đủ cho những người liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ
giữa các bên sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Quy định này là cần
thiết bởi sự tư vấn của UBND sẽ giúp cho cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ hiểu
rõ các vấn đề về nuôi con nuôi , đặc biệt là những hệ quả pháp lí của việc nuôi
con nuôi, từ đó cha mẹ đẻ có suy nghĩ kĩ lưỡng về việc có cho trẻ làm con nuôi
hay không . Sau khi tư vấn, cán bộ tư pháp – hộ tịch sẽ tiến hành thủ tục lấy ý
kiến của những người trên theo quy định tại điều 20. Đối với trường hợp nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài , việc lấy ý kiến của các chủ thể được quy định tại điều
21 Luật NCN sẽ thuộc trách nhiệm của Sở Tư pháp, việc lấy ý kiến phải lập thành
văn bản và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến . Đây là một quy
định mới của Luật NCN 2010 so với Luật HN&GĐ 2000 đồng thời cũng tương
thích với công ước quốc tế về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi giữa các nước.
Như vậy về điều kiện nuôi con nuôi, Luật NCN có sự bổ sung trong các khía
cạnh: Điều kiện của người được nhận làm con nuôi, điều kiện của người nhận
nuôi con nuôi và điều kiện về ý chí của các bên chủ thể. Đối với vấn đề này, Luật
NCN có sự kế thừa các quy định hợp lí của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời
có sự sửa đổi, bổ sung để các quy định cụ thểm rõ ràng hơn.
9
2. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có
một số thay đổi so với Luật hôn nhân gia đình năm 2000. Hệ quả chấm dứt việc
nuôi con nuôi thì không có gì thay đổi.
- Điểm mới thứ nhất: quan hệ giữa con nuôi với các thành viên trong gia
đình cha mẹ muôi.
Theo khoản 1 điều 24: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và
các thành viên khác của gia đ.nh cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối
với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự
và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Như vậy, theo khoản 1 điều 24 Luật nuôi con nuôi thì giữa con nuôi và các
thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật. Như anh, chị em trong gia đình cũng có nghĩa
vụ yêu thương, quan tâm chăm sóc em nuôi như người thân trong gia đình để trẻ
em được sống trong một mái ấm toàn diện về cả mặt vật chất và tinh thần, tránh
sự phân biệt đối xử gây tổn thương tâm lí ở trẻ.
- Điểm mới thứ hai: việc xác định dân tộc của con nuôi.
Theo khoản 2 điều 75 Luật hôn nhân và gia đình: “Việc xác định dân tộc
của con nuôi được thực hiện theo quy định của điều 30 Luật dân sự.”
Khoản 2 điều 30 Luật dân sự : “Người đã thành niên có quyền yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của người cha hoặc người mẹ, nếu cha, mẹ thuộc hai
dân tộc khác nhau; b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường
hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác”.
Khoản 3 điều 24 Luật nuôi con nuôi đã quy định lại: “Dân tộc của con nuôi
là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi”. Với quy
10
định này bởi trẻ em bị bỏ rơi không biết cha mẹ đẻ là ai đồng thời cũng không thể
biết dân tộc của mình. Nhưng theo em cần quy định nếu trẻ em được nhận làm
con nuôi mà vẫn còn cha mẹ đẻ thì cả dân tộc cũng được đổi theo dân tộc của bố
mẹ nuôi nếu có sự đồng ý của cha mẹ đẻ.
Ví dụ: Vợ chồng ông Bỉnh là người dân tộc Kinh, cư trú tại phường X, thành phố
Thái Nguyên. Ông Bình có 1 người bạn thân dân tộc Tày không có con sống ở
huyện Y của tỉnh Cao Bằng. Do hoàn cảnh nhà đông con cộng với tình cảm thân
thiết giữa ông với người bạn thân mà ông đã cho đứa con gái út tên An lên 10 tuổi
của ông làm con nuôi cho gia đình ấy. Do điều kiện học tập và trình độ ở huyện
miền núi còn nhiều hạn chế nên ông Bình muốn đổi dân tộc cho An theo dân tộc
của mẹ nuôi dể có được điểm ưu tiên khi vào đại học cũng như học ở các trường
chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc quy định dân tộc cho con nuôi vẫn chưa rõ ràng
và hoàn chỉnh ngay cả trong Luật mới. Vì thế đây cũng là 1 hạn chế của Luật nuôi
con nuôi.
- Điểm mới thứ ba: quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ.
Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, khi quan hệ nuôi con nuôi được
xác lập thì quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ chưa chấm dứt hoàn toàn.
Bên cạnh được hưởng quyền và nghĩa vụ, trong quan hệ nuôi con nuôi thì người
con vẫn được hưởng một số quyền lợi trong quan hệ với cha mẹ đẻ. Chính vì thế
đặt ra một số vấn đề mà chưa có cơ sở pháp lí để giải quyết:
+ Nếu phát sinh tranh chấp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi với con thì giải quyết
thế nào? Trong quan hệ nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trước hết
thuộc về cha mẹ nuôi nhưng luật chưa có quy định về vấn đề này.
+ Khi cho con làm con nuôi, thì quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con vẫn còn tồn tại
nhưng luật không có quy định cụ thể về việc giữa cha mẹ đẻ và con thì quyền,
nghĩa vụ nào chấm dứt và quyền, nghĩa vụ nào tồn tại. Như vậy khi có tranh chấp
xảy ra sẽ rất khó để giải quyết.
11
Ví dụ: Ông bà A, B có 3 người con. Do điều kiện hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên
năm 2002, ông bà đã quyết định cho đứa con út 12 tuổi tên T làm con nuôi của
gia đình ông bà H và K. Do xích mích, T đã đánh nhau và làm bạn của mình bị
thương nặng. Gia đình người bạn bị đánh đó đã yêu cầu bố mẹ nuôi của T bồi
thường tiền viện phí và thuốc thang chăm sóc. Nhưng bố mẹ nuôi của T lại cho
rằng, chỉ nhận T làm con nuôi còn trách nhiệm vẫn thuộc về bố mẹ đẻ. Chính điều
này xảy ra mâu thuẫn mà Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa quy định rõ
để có căn cứ giải quyết. Chính vì thế mà khoản 4 điều 24 Luật nuôi con nuôi đã
quy định: “Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác,
kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí,
định đoạt tài sản riêng đối với con đ. cho làm con nuôi.”
Quy định như vậy hoàn toàn hợp lí với thực tế cuộc sống hiện nay. Đồng
thời nó khắc phục được sự thiếu tính đồng bộ và thống nhất, nhiều vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn chưa có cơ sở pháp lí để giải quyết. Như vậy so với Luật
HN&GĐ năm 2000 có thể thấy Luật NCN quy định cụ thể hơn về mối quan hệ
pháp lí 3 bên sau khi việc nuôi con nuôi được xác lập. Theo điều 24 Luật NCN
mối quan hệ này có chiều hướng mở tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa cha mẹ đẻ
với cha mẹ nuôi . Việc quy định vậy nhằm tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi.
3. Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi:
Một điểm mới nữa là cha mẹ nuôi phải có nghĩa vụ báo cáo tình hình phát
triển của con nuôi với các cơ quan có thẩm quyền. Nghĩa vụ này được đặt ra đối
với cả trường hợp nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Về vấn đề này, theo quy định trước đây cha mẹ nuôi phải báo cáo tình hình
phát triển của con nuôi 6 tháng một lần trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm báo
cáo một lần cho đến khi 18 tuổi( Điều 1 khoản 13 Nghị định 69/2006/NĐ- CP) .
12
Theo đánh giá của những người thực hiện công tác tiếp nhận báo cáo hàng năm,
việc báo cáo định kì phải được thưc hiện đến khi trẻ 18 tuổi là quá dài, điều này
dẫn tới sự khó khăn, bất cập khi xử lí các báo cáo. Để giải quyết tình trạng này
Luật NCN quy đinh cha mẹ nuôi phải có trách nhiệm báo cáo tình hình phát triển
của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, nôi dung báo cáo là về tình trạng sức khoẻ, thể
chất, tinh thần, sự hoà nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng
( Điều 39 Luật NCN). Quy định này vừa mang tính khả thi, tương đồng với pháp
luật các nước láng giềng.
Như vậy có thể thấy rõ hai điểm tiến bộ về hệ quả pháp lí của Luật NCN.
Thứ nhất Luật đã quy định rất cụ thể về mối quan hệ 3 bên giữa cha mẹ nuôi –
con nuôi – cha mẹ đẻ để từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời luật NCN đã quy định
hợp lí hơn về việc báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, làm cho các quy định
về vấn đề này trở nên khả thi hơn. Tuy nhiên cũng có một điểm hạn chế của Luật
NCN chỉ quy định về hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi trong nước mà không quy
định rõ về hệ quả nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
4. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung và một số ý kiến hoàn thiện về điều
kiện và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi.
4.1 . Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi
* Điều kiện của người được nhận làm con nuôi
Điều 4 Luật NCN quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống
trong môi trường gia đình gốc. Theo nguyên tắc này, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn
khả năng nuôi dưỡng giáo dục thì mới có thể cho trẻ làm con nuôi. Tuy nhiên,
nguyên tắc này lại không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiên của
người được nhận nuôi. Sự thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn đến tình trạng mặc
dù cha mẹ đẻ vẫn có đủ điều kiện nuôi dưỡng nhưng vẫn cho trẻ làm con nuôi.
Như vậy việc nuôi con nuôi được tiến hành không vì lợi ích của trẻ em, không
13
đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc.
Vì vậy, trong điều kiện của người được nhận làm con nuôi cần bổ sung thêm quy
định về khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đẻ, cha mẹ đẻ chỉ được cho
con đẻ của mình làm con nuôi người khác trong trường hợp không có khả năng
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Vấn đề này cũng được quy định trong pháp
luật về nuôi con nuôi của một số nước. Ví dụ, Luật NCN của Trung Quốc quy
định điều kiện của người được nhận làm con nuôi tại Điều 4 “ cha mẹ đẻ của trẻ
em đó không có khả năng nuôi chúng vì những khó khăn đặc biệt”. Luật NCN
cần tham khảo và bổ sung vấn đề này.
4.2.Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi
Luật NCN không có quy định nào về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi chỉ được quy định tại điều
24 thuộc chương 2- Nuôi con nuôi trong nước. Vấn đề đặt ra là điều 24 có thể
được áp dụng cho các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không?
Không thể áp dụng Điều 24 cho mọi trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Vì một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
những quy định khác nhau để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con
nuôi. Ví dụ, khoản 2 Điều 137 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga quy định: “trẻ
em được cho làm con nuôi chấm dứt quyền và nghĩa vụ về nhân thân phi tài sản
và tài sản đối với cha mẹ đẻ”. Trong khi đó, theo khoản 4 điều 24 Luật NCN thì
quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ sẽ tuỳ thuộc vào sự thoả thuận
giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Như vậy, pháp luật của Nga và của Việt Nam có
quy định khác nhau về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi. Nếu người Việt
Nam nhận con nuôi là công dân Nga thì không thể đương nhiên áp dụng quy định
tại khoản 4 điều 24.
14
Vì vậy, cần phải xây dựng và ban hành các quy phạm xung đột trong các văn
bản hướng dẫn luật NCN để điều chỉnh về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Quy phạm xung đột này có thể quy định theo hướng điều 105
Luật HN&GĐ năm 2000: “ Trong truờng hợp việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài đươc thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi vầ con
nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định của Luật này. Trong
trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được
thực hiện tại nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, viêc
chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật nơi thường trú của con nuôi”.
Điều khoản trên là một quy phạm xung đột để xác định hệ thống pháp luật điều
chỉnh hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại VIệt Nam thì
hệ quả pháp lí của quan hệ này sẽ dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Nếu việc nuôi con nuôi được thực hiện ở nước ngoài thì hệ quả pháp lí của quan hệ
này sẽ dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật của nước nơi người con nuôi thường trú.
KẾT LUẬN
Bằng việc phân tích “Điều kiện nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi 2010
trong mối liên hệ với điều kiện nuôi con nuôi theo luật hôn nhân gia đình năm
2000” đã cho ta thấy sự khác nhau giữa điều kiện và hậu quả pháp lí của việc nuôi
con nuôi ta nhận thấy những hạn chế của Luật HN&GĐ năm 2000 về chế định nuôi
con nuôi đồng thời thấy được sự điều chỉnh hợp lí, đúng mục đích và phù hợp hơn
trong thực tiễn việc nuôi con nuôi được sửa đổi, bổ sung trong Luật NCN.
Luật Nuôi con nuôi ra đời đã có bước phát triển đáng kể và phù hợp với thực tế hơn.
Nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ
và chăm sóc trẻ em, nhất là đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Tinh thần của
Luật nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo vì lợi ích tốt nhất của
trẻ em.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Ngoc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tập 1, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh 2002
3. Trần Đức Nam, Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi so với chế định nuôi
con nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 : Khoá luận tốt nghiệp,
Hà Nội, 2011.
4. Nguyễn Phương Lan, "Cơ sở lí luận và thực tiễn của chế định pháp lí về nuôi
con nuôi ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2007;
5. Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
6. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
16
- Xem thêm -