Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập lớn học kỳ hình sự modul 2 đề số 1. ( 9 điểm )...

Tài liệu Bài tập lớn học kỳ hình sự modul 2 đề số 1. ( 9 điểm )

.DOC
9
30
97

Mô tả:

Hiện nay, tội phạm giết người đang ngày càng gia tăng và ngày càng nguy hiểm, đó vừa là một mối quan tâm lớn của xã hội mà cũng là một thách thức yêu cầu những người áp dụng pháp luật phải hiểu rõ và áp dụng đúng nội dung cũng như của Bộ luật hình sự để đưa ra những quyết định đúng đắn nhất có tính răn đe giáo dục người phạm tội và giáo dục ý thức pháp luật cho toàn xã hội. Ngoài ra, những vấn đề về xác định đồng phạm, xác định tái phạm và tội phạm khác liên quan đến tội giết người cũng là một nội dung rất quan trọng. Vì vậy, em xin chọn bài tập tình huống số 1 để giải quyết và làm rõ hơn những vấn đề nêu trên 1.Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nếu có. a,Lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B Định tội là việc xác định hành vi cụ thể đã thực hiện phạm vào tội gì trong số những tội phạm đã được quy định trong BLHS hay nói cách khác, định tội là xác định tên tội danh hành vi đã thực hiện. CTTP là căn cứ duy nhất của việc định tội. Tội danh của B là tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS. Điều luật không định nghĩa về tội giết người nhưng qua thực tiễn xét xử ta có thể định nghĩa như sau: Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Điều luật chỉ quy định là giết người mà không quy định là cố ý giết người bởi chính từ “giết” đã bao hàm sự cố ý trong hành vi. Hành vi giết người này phải là hành vi trái pháp luật bởi, trên thực tế có những hành vi tước đoạt tính mạng của người khác nhưng không trái với pháp luật như để thi hành án: ví dụ như xử bắn kẻ tử tù….. Qua việc phân tích Cấu thành tội phạm của tội giết người, áp dụng vào những tình tiết mà đề bài đưa ra ta có thể khẳng định tội danh của B là tội giết người. Cụ thể như sau: *Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quyền sống của T, là một trong những khách thể quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ. Người bị giết phải là người đang sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. *Chủ thể của tội phạm: Tội giết người thuộc loại tội nghiêm trọng (Khoản 2) hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (Khoản 1) vì vậy, chủ thể của tội giết người là bất kỳ ai 1 có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 14 tuổi trở lên (vì tội giết người được thực hiện với lỗi cố ý). Đề bài không có chú thích gì đặc biệt vì vậy ta có thể hiểu rằng B thỏa mãn các dấu hiệu về chủ thể của tội giết người. *Mặt chủ quan của tội phạm Hình thức lỗi của B là cố ý trực tiếp. Theo Điều 9 BLHS , Lỗi cố ý trực tiếp : “Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra.” Theo tình huống trên thì: -Về lí trí: T nhận thức rõ được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho tính mạng của K, điều này thuộc tâm lý chủ quan của người phạm tội nhưng sẽ được thể hiện ra bằng những hành vi khách quan: +Về hung khí mà B sử dụng để gây án: “loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng.”. Đây là loại dao nguy hiểm, khi sử dụng mang tính sát thương cao. +Về vị trí mà B đâm : B đâm vào bụng và ngực T. Đây là vị trí nguy hiểm, dễ gây thương tích cũng như nếu chấn thương mạnh thì có khả năng chết người là rất cao. Hơn nữa, B lại đâm T nhiều nhát mà chỉ ngừng khi C kêu đau do bị đâm vào tay. _Về ý chí: B mong muốn cho hậu quả chết người (cụ thể là T chết) phát sinh, Bởi, B nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện, nhận thức được rằng hành vi đâm T của mình gây nguy hiểm cho tính mạng của T mà vẫn thực hiện, chứng tỏ rằng B mong muốn cho T chết. Như vậy, qua việc phân tích về lý trí và ý chí của B, ta có thể thừa nhận rằng, lỗi của B là lỗi cố ý trực tiếp. Các yếu tố khác thuộc về mặt chủ quan của tội phạm như: mục đích phạm tội, động cơ phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội giết người. *Mặt khách quan của tội phạm: Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất, vì vậy cần phải có hành vi khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: 2 _Hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm giết người có thể thực hiện ở dạng hành động hoặc không hành động. Trong trường hợp này thì hành vi khách quan của B được thực hiện ở dạng hành động phạm tội, thể hiện ở hành vi: “đâm nhiều nhát vào ngực và bụng T”.Hành vi tước đoạt tính mạng T của B là hành vi trái pháp luật _Hậu quả của tội phạm: Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất, vì vậy, tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Và trên thực tế, hậu quả chết người đã xảy ra, cụ thể là T đã tử vong trên đường chuyển đi cấp cứu. _Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: Khi xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, ta xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả: +Hành vi là nguyên nhân chết người phải là hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian: Hành vi của B xảy ra trước cái chết của T như vậy hoàn toàn đáp ứng được điều kiện này. +Hành vi khách quan của tội giết người độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người. Theo tình huống thì có hai người tác động vào thân thể T đó là A và B. Hành vi của A: “tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng bằng ngã ngồi”, “T và A xô xát, ẩu đả với nhau”. Hành vi của B:“lấy con dao trong túi quần đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T” Như vậy, hành vi của cả A và B đều tác động trực tiếp vào cơ thể của T nhưng trong mối liên hệ tổng hợp thì hành vi của B là hành vi chứa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người. +Hậu quả chết người đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi. Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 04/3/2003 của Tổ chức giám định pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang. 3 Như vậy, hành vi của B chứa đựng khả năng thực tế làm cho T chết và trên thực tế, hành vi đâm T của B chính là nguyên nhân gây ra cái chết của T, vết thương dẫn đến tử vong cho T chính là do những nhát đâm vào ngực và bụng T của B. Qua những phân tích trên, ta có thể khẳng định, tội danh của B là tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS. b,Các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là những tình tiết làm tăng đáng kể mức độ nguy hiểm của hành vi, theo đó, khung hình phạt được áp dụng sẽ tăng lên cho phù hợp với mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của B phù hợp với tình tiết tăng nặng “giết người có tính chất côn đồ” theo quy định tại Điểm n Khoản 1 BLHS. Khi áp dụng tình tiết tăng nặng này thì khung hình phạt áp dụng cho B đã tăng đáng kể: từ “bảy năm đến mười lăm năm” theo quy định tại Khoản 2 lên thành “mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” theo quy định tại Khoản 1 Điều 93. Giết người có tính chất côn đồ là trường hợp, khi giết người, người phạm tội đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có những hành vi ngang ngược, giết người vì những lý do nhỏ nhặt. Việc giết T của B chỉ là vì những xô xát nhỏ, chỉ do H không chịu đi uống rượu với A mà dẫn đến xô xát giữa A và T, trong quá trình xô xát, A có hô lên “Chúng mày đánh chết nó cho tao.” Chỉ vì nghĩ rằng A bị đánh mà B sẵn sàng rút con dao trong người, đâm nhiều nhát vào ngực và bụng T. Ở đây, B và T không hề có mâu thuẫn đáng kể nào. Ngay cả hành vi đâm nhiều nhát vào ngực và bụng T của B cũng thể hiển tính hung hãn, côn đồ của B. Như vậy, ta áp dụng tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ” cho hành vi phạm tội của B, và B sẽ bị xử lý theo Điểm n, Khoản 1 Điều 93 BLHS. 2.A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao? A có là đồng phạm với B trong tội giết người. Trước hết, Điều 20 Bộ luật hình sự (BLHS) quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Để xem xét tội phạm đã được thực hiện có đồng phạm hay không thì tội phạm đó phải có những đặc điểm chung về: *Mặt khách quan với các dấu hiệu bắt buộc cơ bản sau đây: 4 _Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên và những người này đều phải có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Trong tình huống đề bài thì A, B là hai người như vậy thỏa mãn dấu hiệu về số lượng người tham gia tội phạm. Thứ hai, đề bài không chú thích gì thêm vì vậy ta có thể hiểu là A và B đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. _Những người đồng phạm phải cùng chung hoạt động, hành vi của mỗi người trong số họ đều nhằm thực hiện tội phạm hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Ở đây, A và B cùng có những hành động nhằm tác động vào thân thể của T nhằm tước đoạt tính mạng của T, hành vi của mỗi người đều góp phần thực hiện tội phạm. *Mặt chủ quan là phải có sự cố ý của tất cả các người phạm tội với dấu hiệu bắt buộc là cơ bản là: _Những người đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm và đều biết được hành động phạm tội của mỗi người. _ Những người đồng phạm đều mong muốn có hoạt động chung _Những người đồng phạm đều mong muốn cho hậu quả xảy ra. Tất cả những dấu hiệu trên được thể hiện trong vụ án này như sau: Tên A và B đều biết được hành vi của mình và biết được hành vi của người kia cũng gây nguy hiểm cho tính mạng của T và chúng mong muốn hoạt động chung. Điều này thể hiện rõ nhất ở câu nói: “Chúng mày đánh chết nó cho tao.” Khi đặt câu nói này vào hoàn cảnh khách quan khi xảy ra tội phạm thì câu nói này chính là câu kêu gọi những người khác giúp mình, cùng mình thực hiện tội phạm của A, thể hiện cụ thể ở những tình tiết: +4 tên A,B,C,D khi đi uống rượu ở quán thì B đã rút dao cho A xem và khi ra khỏi quán thì A trả lại B để B đút vào túi quần. Như vậy, A đã biết được B có dao và chính A là người trả lại con dao đó cho B. +Khi ẩu đả, A biết được 3 tên B,C,D đi cùng mình, cho nên khi đánh nhau, hắn nhận thức được rằng, nếu có chuyện gì xảy ra thì mấy tên kia cũng sẽ giúp đỡ. + Khi đánh nhau với T, A hô to “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Như vậy, đây chính là hành động kêu gọi sự giúp đỡ của tên A, báo hiệu cho những tên khác biết hắn cần sự giúp đỡ. 5 +Thực tế, khi A hô như vậy thì tên B quay lại giúp đỡ bằng cách lấy dao trong túi quần của mình đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. +Khi thấy B đâm T thì A cũng không nói gì và khi thấy T nằm yên và máu ra nhiều thì A cũng không tích cực cứu chữa. Qua phân tích những nội dung thuộc mặt chủ quan và khách quan, ta thấy, A và B là đồng phạm trong vụ án giết người. 3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? K có phải chịu TNHS, và tội danh của K là tội Che dấu tội phạm theo quy định tại Điều 21 BLHS và Điều 313 BLHS. Điều 21 BLHS quy định: “Tội che dấu tội phạm là hành vi của người tuy không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che dấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người phạm tội”. Người có hành vi che dấu chỉ phải chịu TNHS về tội che dấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định. Theo quy định tại Điều 313 BLHS về tội che dấu tội phạm thì người có hành vi che dấu tội phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu che dấu một trong các tội quy định tại điều này. Theo đó, hành vi che dấu tội giết người (Điều 83 BLHS) có cấu thành tội Che dấu tội phạm. *Chủ thể của tội phạm: Chủ thể thường. Là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Ở đây, K đáp ứng các điều kiện về chủ thể của tội phạm. *Khách thể của tội phạm: Hoạt động bình thường của hoạt động tư pháp. Cụ thể, hành vi của K gây khó khăn cho việc điều tra vụ án và bắt tội phạm. *Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi của người này phải là không hứa hẹn trước, bởi nếu có hứa hẹn trước với người có hành vi giết người là sẽ che dấu...thì sẽ trở thành đồng phạm với người phạm tội giết người. Điều luật quy định 3 dạng hành vi khách quan: -Che dấu người phạm tội -Che dấu các dấu vết, tang vật của tội phạm -Có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người phạm tội Theo tình huống đề bài đưa ra, rõ ràng B và K không có hứa hẹn trước bởi việc B giết T là hành vi đột xuất và hoàn toàn không có dự định, kế hoạch từ trước, 6 Khi B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B thì K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. Như vậy, K đã có hành vi che giấu người phạm tội theo quy định tại Điều 83 bằng việc cung cấp tiền, điện thoại cho B để B bỏ trốn. *Mặt chủ quan của tội phạm: Hình thức lỗi ở đây là cố ý. K nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy được hành vi che dấu tội phạm của mình là hành vi trái pháp luật, sẽ gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội nhưng vẫn thực hiện. Tóm lại, hành vi của K cấu thành tội Che dấu tội phạm theo Điều 21, Điều 313 BLHS. Đánh giá quy định của pháp luật: Theo quy định của BLHS, Điều 21, Đ313, người che dấu tội phạm phải chịu TNHS về tội che dấu tội phạm nếu người đó không hứa hẹn trước nhưng sau khi biết được tội phạm được thực hiện đã che dấu người phạm tội, các dấu vết tang vật của người phạm tội khác hoặc có những hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người phạm tội không kể họ có quan hệ thân thuộc (ông bà, cha mẹ, anh chị, con cái...) với người phạm tội hay không. Theo quan điểm cá nhân, thì việc quy định như vậy chưa thực sự phù hợp. Thực tế, người dân Việt Nam sống duy tình, mối quan hệ gia đình rất bền chặt gắn bó, vì vậy, khi phải đưa ra một sự lựa chọn giữa một bên là lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội với một bên là lợi ích của những người thân thì họ thường chọn người thân. Như vậy, theo em, Điều 313 nên quy định bổ sung nội dung tương tự như Khoản 2 Điều 22 và Khoản 2 Điều 314 BLHS về tội Không tố giác tội phạm. 4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Lần phạm tội này của B là tái phạm. Khoản 1 Điều 49 BLHS quy định về tái phạm như sau: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.” Như vậy, những dấu hiệu để ta xác định tái phạm là như sau: _Thứ nhất: người phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích 7 _Thứ hai: Có hai trường hợp: +Người đó phạm tội mới do lỗi cố ý +Người đó phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Ngoài ra, án tuyên với tội phạm mà người đó thực hiện lúc chưa đủ 16 tuổi thì không được áp dụng để tính tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Để xác định lần phạm tội này của B là tái phạm, em dựa vào những lý do sau: *Thứ nhất, tội trộm cắp do B thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng: Theo giả thiết của đề bài thì B đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 138 BLHS . Theo quy định tại Khoản 2 Điều 138 BLHS thì khung hình phạt đối với tội phạm thuộc khoản này là “tù từ hai năm đến bảy năm”, như vậy mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù. Theo cách phân loại tội phạm theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì căn cứ duy nhất chúng ta áp dụng để phân loại tội phạm là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó. Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì “tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Vì vậy, tội trộm cắp mà B thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng. Việc xác định tội trộm cắp tài sản mà B đã thực hiện trước đó, chưa được xóa án tích thuộc loại tội phạm nghiêm trọng nhằm đưa đến hai khẳng định: _ B không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo Điểm a, Khoản 2, Điều 49 BLHS. Hơn nữa, do tội trộm cắp tài sản mà B thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, và tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện với lỗi cố ý, như vậy chỉ những người 16 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về tội phạm, mà B lại vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội này, như vậy, có thể khẳng định, khi phạm tội trộm cắp tài sản, B đã đủ 16 tuổi. Như vậy, án tích về trộm cắp tài sản mà chưa được xóa hoàn toàn có thể áp dụng để xác định tái phạm. Thứ hai: Tội giết người do B thực hiện là được thực hiện do lỗi cố ý (đã trình bày ở nội dung 1) Tóm lại, lần phạm tội này của B là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 49 BLHS. 8 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan