Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập lớn hình sự 2 bình luận về vụ án phá két sắt của vũ k và h...

Tài liệu Bài tập lớn hình sự 2 bình luận về vụ án phá két sắt của vũ k và h

.DOCX
9
47
65

Mô tả:

Giải quyết tình huống 1. K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh. K và H phạm tội cướp tài sản được quy định tại khoản 3, Điều 133 BLHS với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS. Giải thích: Khoản 3, Điều 182, Mục 5, Chương XI, Bộ luật Lao động quy định về nghĩa vụ của lao động là người giúp việc trong gia đình như sau: “Thông báo kịp thời với người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn, đe dọa an toàn, sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia đình người sử dụng lao động và bản thân”. Từ quy định này, ta xác định người giúp việc là người có nghĩa vụ trông coi nhà cửa, quản lý chung nhất các tài sản trong gia đình thay cho người sử dụng lao động. Khoản 1 Điều 133 BLHS quy định về tội cướp tài sản: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Căn cứ vào quy định tại Điều 133 này và thực tiễn xét xử, ta xác định cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản bao gồm: - Khách thể của tội phạm: Hành vi cướp tài sản đồng thời xâm phạm đến hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đó là: quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu, đây đều được coi là những khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản. Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được quan hệ sở hữu tài sản. - Mặt khách quan của tội phạm: Có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản đó là: Hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Và đối với tội cướp tài sản thì dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào 1 người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt. Người bị tấn công có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản nhưng cũng có thể là người bất kì mà người phạm tội cho rằng người này đã hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình. Hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản phải ở mức độ có khả năng làm cho sự chống cự về mặt thực tế không xảy ra hoặc làm cho người bị tấn công bị tê liệt về ý chí, không dám chống cự. Những hành vi này có thể là: đánh, chém, trói, nhốt ... Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người bị đe dọa. Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi họ phải thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là những hành vi có khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt tài sản. Những hành vi này đều có khả năng đè bẹp hay làm tê liệt sự kháng cự: hành vi đầu độc, hành vi dùng thuốc gây mê ... - Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc, người phạm tội thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. - Chủ thể của tội phạm: Chủ thể thường, người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. - Xét trong tình huống đã nêu:  Xét khách thể của tội phạm: Quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. K và H xông vào nhà ông Nam đe dọa và định trói bà P làm bà P sợ hãi van xin và nghe theo lời bọn chúng. Như vậy hành vi của K và H đã làm tê liệt ý chí của bà P, 2 khiến bà P rơi vào tình trạng sợ hãi van xin, tức khủng hoảng tạm thời về tâm lý. Chính vì vậy nên K và H đã xâm phạm đến sức khỏe của bà P, trực tiếp tác động tới quan hệ nhân thân được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, K và H đã có hành vi “phá két sắt, lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng”. Đây là số tài sản thuộc quyền sở hữu của gia đình ông N (giám đốc một doanh nghiệp) hiện đang được bà P là người có trách nhiệm trông giữ tài sản trong gia đình. Vì vậy, hành vi phá két sắt lấy tiền của K và H đã xâm phạm tới quan hệ sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Do đó, hành vi của K và H đồng thời xâm phạm tới quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu.  Xét mặt khách quan của tội phạm: Hành vi phạm tội mà K và H đã thực hiện là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Sở dĩ có kết luận trên là vì: Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm tấn công người quản lý tài sản hoặc những người có quan hệ thân thích với chủ tài sản nếu không đáp ứng yêu cầu hoặc có ý định ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Hành vi đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực thực chất cũng đã là hành vi làm tê liệt ý chí của nạn nhân và “tức khắc” ở đây được hiểu là sự kế tiếp, nhanh chóng về mặt thời gian. Có thể có quan điểm cho rằng, H và K chỉ “xông vào đe dọa và định trói bà P” chứ chưa trói nên bà P chưa thể bị tê liệt về ý chí nên không thể coi là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Tuy nhiên, H và K xông vào đe dọa, hành vi này đã thể hiện mức độ nghiêm trọng của những lời đe dọa qua việc “Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc thôi””. Xét về sự tương quan lực lượng thì bên đe dọa (K và H) có hai người, là nam (thể hiện sức mạnh vật chất), trong khi đó bên bị đe dọa (bà P) chỉ có 1 người – người giúp việc, 57 tuổi, là một người đã già và sức kháng cự thấp. Như vậy, K và H có thể dễ dàng gây thiệt hại tới sức khỏe và tính mạng của bà P. Mặt khác, xét hoàn cảnh không gian thì H và K chiếm đoạt tài sản ngay trong nhà ông N, cửa nhà đang khóa, nếu bà kêu kháng cự 3 bằng cách kêu cứu ... thì chắc chắn sức khỏe, tính mạng của bà sẽ bị đe dọa ngay tức khắc. Như vậy hành vi của K và H là đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm ngăn chặn, không cho bà P có hành vi chống lại việc chiếm đoạt tài sản của chúng. - Xét mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của K và H đối với hành vi phạm tội của mình là lỗi cố ý trực tiếp. Cụ thể, K và H đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N , như vậy K và H đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vấn cố tình thực hiện với mong muốn chiếm đoạt được số tài sản đó. Đồng thời, mục đích của K và H chính là nhằm chiếm đoạt tài sản, số tài sản có tổng trị giá 460 triệu đồng của gia đình ông N, sau khi chiếm đoạt được K và H đã mang số tài sản đó bỏ đi. Vậy, xét cả về lỗi và mục đích thì K và H đều mang đầy đủ đặc điểm của tội cướp tài sản. - Xét chủ thể của tội phạm: Vũ K (37 tuổi), Trần Kim H (41 tuổi) K và H đều là những người đã đủ độ tuổi luật định. Qua một loạt các hành vi: bàn bạc kĩ lưỡng về việc chiếm đoạt tài sản; lấy tài sản và bỏ trốn...ta nhận thấy K và H là những người có năng lực trách nhiệm hình sự vì họ có đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình. Từ các lập luận trên, ta khẳng định hành vi của K và H đã thỏa mãn cấu thành tội phạm tội cướp tài sản. Mặt khác, xét tài sản mà K và H đã chiếm đoạt được đó là “70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng”. Tổng giá trị 460 triệu này là lớn hơn hai trăm triệu và nhỏ hơn năm trăm triệu, số tài sản được quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 133 BLHS. Ngoài ra, ta nhận thấy: K và H đều có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm, cố ý cùng tham gia phạm tội và có sự thống nhất ý trí, hai người đã thỏa thuận, tính toán kĩ càng về việc chiếm đoạt tài sản nhà ông N. K và H đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được chuẩn bị trước rất chu đáo thông qua việc điều tra nơi ở cũng như quy luật sinh hoạt (lợi dụng lúc gia đình ông N đi sắm tết), có chuẩn bị phương tiện hoạt động (chuẩn bị túi quà nhằm đánh lừa bà giúp việc). Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 20 BLHS: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu 4 kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”, ta kết luận K và H phạm tội có tổ chức, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 48 BLHS. Như vậy, từ các lập luận trên, ta khẳng định K và H phạm tội cướp tài sản được quy định tại khoản 3, Điều 133 BLHS với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 48 BLHS. 2. Hãy phản bác các ý kiến mà anh (chị) cho là sai Cả ba ý kiến về tội danh của H và K đã nêu đều là ý kiến sai. Cụ thể với từng ý kiến ta phản bác như sau: a. K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc là một nhận định sai. Tại Điều 139 BLHS quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng...”. Xét mặt khách quan, người phạm tội có hành vi lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Đây là hành vi bằng mọi thủ đoạn gian dối, dưới bất kì hình thức nào để tạo lòng tin ở người quản lý tài sản và từ đó chiếm đoạt được tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước và người bị hại tin vào những thông tin giả dối đó nên đã giao tài sản cho người phạm tội. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn lừa dối là cơ sở để việc chiếm đoạt tài sản xảy ra. Khi bị lừa dối, người bị hại tin là sự thật nên “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội. Trong tình huống, đồng bọn K và H tuy có hành vi gian dối đó là lợi dụng lúc gia đình ông N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà nói dối là đến chúc tết gia đình ông N và vờ vào xin nước uống. Tuy nhiên, tất cả những hành vi gian dối này của K và H đều nhằm mục đích làm bà P tin rằng bọn chúng đến để tặng quà, chúc tết gia đình để thuận tiện đột nhập vào nhà không bị ai nghi ngờ, phát hiện chứ không phải để trực tiếp thực hiện mục đích chính là chiếm đoạt tài sản, mà chỉ là phương 5 thức nhằm có thể tiếp cận tài sản dễ dàng hơn. Đồng thời bà P cũng chỉ tin rằng K và H đến chúc tết nên mở cửa cho vào nhà. Mặt khác, việc bà P sợ hãi van xin và nói rằng các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc thôi, nghĩa là việc bà P giao tài sản cho K và H thực chất không phải tự nguyện muốn giao, không phải do sự cả tin hay nhầm lẫn nên giao tài sản mà vì bà sợ bị K và H làm hại mình, nghĩa là bị ép buộc nên mới giao tài sản. Vì vậy, hành vi gian dối này chỉ là cách thức để bọn chúng thực hiện việc chiếm đoạt tài sản dễ dàng hơn chứ không phải nhằm mục đích để người bị hại tự nguyện tin tưởng và giao tài sản cho mình. Do đó, hành vi của K và H không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. b. K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng lợi dụng lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản.  K và H không phạm tội trộm cắp tài sản Điều 138 BLHS không quy định rõ hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản. Nhưng qua lí luận và thực tiến xét xử, ta xác định “trộm cắp tài sản” là hành vi lén lút, bí mật, trốn tránh sự phát hiện của người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản. Xét trong tình huống nêu trên, ta thấy hành vi phạm tội của K và H là không có tính lén lút vì: Việc “phá két sắt, lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ” của K và H hoàn toàn diễn ra trước mắt người quản lý tài sản (bà P là người quản lý chung, trông coi tài sản trong nhà ông Nam trong trường hợp này). Nếu coi hành vi lấy tài sản của K và H là lén lút đối với gia đình ông Nam (chủ sở hữu hợp pháp toàn bộ tài sản đó) thì không đúng. Vì thời điểm K, H lấy toàn bộ số tài sản đó của gia đình ông Nam thì ông Nam không có nhà, và chủ quản lý, người trông coi tài sản là bà P, người giúp việc của gia đình ông Nam và cũng là người đang có nhiệm vụ trông coi tài sản trên thực tế số tài sản đó. Mà K và H bằng những lời đe dọa của mình, đã chiếm đoạt tài sản trước mặt bà P nên ta khẳng định không có sự lén lút trong hành vi 6 chiếm đoạt tài sản của K và H. Do đó, hành vi chiếm đoạt tài sản của K và H không phải là hành vi trộm cắp tài sản bởi nó không thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản.  Ý kiến cho rằng “giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản” là đúng. Xét mặt khách quan: Số tiền mà H và K chiếm đoạt được là tài sản được gia đình ông Nam cất trong két sắt tức là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản (ông Nam) đã muốn giấu đi không cho ai xâm chiếm số tài sản này. Mặc dù bà P là người trực tiếp trông coi tài sản trong gia đình ông Nam, nhưng bà P chỉ là người có nghĩa vụ trông coi, quản lý chung chung tất cả tài sản trong nhà chứ không hề được ông Nam giao nhiệm vụ quản lý riêng két sắt, nên bà P không có quyền sử dụng hay định đoạt số tài sản đó, tức là bà P chỉ có nhiệm vụ như một người bảo vệ của ngôi nhà nên việc bà P lấy tài sản trong hoàn cảnh này là hoàn toàn lén lút với gia đình ông Nam. Hành vi lén lút này cũng được thể hiện ngay qua việc bà P đã lợi dụng hoàn cảnh H và K chiếm đoạt tài sản để lấy trộm tài sản, nhằm che giấu hành vi trộm cắp của mình. Đây cũng chính là thủ đoạn của hành vi trộm cắp tài sản. Xét mặt chủ quan: bà P thực hiện hành vi này với lỗi cố ý trực tiếp bởi bà P hoàn toàn nhận thức được hành vi lấy tài sản của mình là phạm pháp, nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Xét khách thể: Bà P đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của ông Nam. Xét chủ thể: Bà P (57 tuổi) là một người đã đạt độ tuổi luật định. Và bà P là giúp việc, nên ta mặc nhiên thừa nhận bà P là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, hành vi của bà P đã cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do đó, nếu bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản thì bà P sẽ bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản. c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc là nhận định sai. Điều 137 BLHS không mô tả hành vi của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng qua thực tiễn xét xử, ta xác định công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chủ tài sản 7 không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi chiếm đoạt này có tính công khai và xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có dấu hiệu để ngăn cản. Người phạm tội không cần và không có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản. Xét trong tình huống trên, hành vi phạm tội của K và H là có tính công khai đối với bà P. Mặt khác, bà P có nói: Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc thôi và bà P đã 57 tuổi, là một người già không có khả năng chống cự nên đã để K và H chiếm đoạt tài sản mà không làm được gì. Hành vi này phù hợp với dấu hiệu của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản đó là K và H thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai, và bà P đã không có dấu hiệu để ngăn cản. Tuy nhiên, điều quan trọng là người bị hại, người quản lý tài sản trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản lâm và tình trạng không thể quản lý, bảo vệ, ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản của mình là do điều kiện khách quan mang lại. Ví dụ: bà P là người bị ốm nặng liệt giường,... nên đã không có khả năng ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của tội phạm.Trường hợp bà P trong vụ án trên tuy đã lâm vào tình trạng không có khả năng bảo vệ tài sản nhưng không phải do khách quan mà là do chính hành vi của K và H đó là đe dọa và định trói bà P gây ra. Hành vi dùng những lời nói đe dọa của K và H đã làm một người già (57 tuổi) sợ hãi, không dám đối đầu, không dám thực hiện những hành vi ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản của bọn chúng. Chính vì vậy, hành vi của K và H không mang đủ các dấu hiệu của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nên K và H không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Kết luận Qua tình huống trên em đã hiểu rõ hơn về những quy định của BLHS đối với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu, phân biệt được các loại tội phạm với nhau và biết cách tiếp cận các tình huống thực tế để tránh mắc phải những sai lầm khi định tội danh của tội phạm. 8 Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy cô đóng góp ý kiến để bài tập của em được hoàn thiện hơn cũng như giúp em trau dồi kiến thức cho bản thân. Em xin chân thành cám ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ Luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi bổ sung năm 2009). Nxb Lao động – 2012. 2. Luật số 10/2012/QH13 của Quốc hội : Bộ Luật Lao Động. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Tập 2. Nxb. Công an nhân dân Hà Nội – 2010. 4. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, tập II. Nxb Chính trị quốc gia. 5. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội – 2005. 6. Thạc sĩ luật học. Hoàng Anh Tuyên, Bộ luật hình sự và 79 câu hỏi – trả lời, Nxb. Lao động xã hội – 2006. 7. http://www.asianlii.org/vn/other/benchbk/76-vn.html 8. http://m.tin247.com/nhung_chieu_trom_cap_cua_nguoi_giup_viec-622065707.html 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan