Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập học kỳ hình sự đề bài số 5...

Tài liệu Bài tập học kỳ hình sự đề bài số 5

.DOC
8
70
63

Mô tả:

Đề số 05 Do mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm. Hậu quả lả toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng. Hỏi: 1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q (2 điểm) 2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này hay không? Tại sao? (3 điểm) 3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm) 1 BÀI LÀM 1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q (2 điểm) Theo em, trong trường hợp này P và Q phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo điểm a khoản 3 Điều 143 BLHS. Bởi vì: Thứ nhất, ta nhận thấy rằng mặc dù Q là người trực tiếp châm lửa đốt xưởng của N - trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP, P là người trực tiếp có mâu thuẫn với N trong kinh doanh, nhưng P không trực tiếp châm lửa đốt xưởng của N mà chỉ “nhờ” Q thực hiện hành vi đó thay mình. Hành vi “Nhờ” này của P là gì? P và Q liệu có phải là đồng phạm không? Theo Điều 20 BLHS khái niệm đồng phạm được hiểu là “1. đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” * Mặt khách quan của đồng phạm: - Phải có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm, cùng tham gia vào một tội phạm. Ở đây, do đề bài không nêu rõ, nên ta mặc nhiên thừa nhận P và Q đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS) và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (điều 13 - BLHS). P và Q cùng tham gia vào một tội phạm đó là: đốt xưởng của N. - Những người đồng phạm phải cùng tham gia thực hiện một tội phạm: Sự tham gia này thể hiện ở một trong bốn loại hành vi: hành vi thực hành, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương úng với bốn loại hành vi tham gia trên có bốn loại người đồng phạm: người thực hành, người xúi giục, người tổ chức và người giúp sức. + Trong trường hợp này, ta có thể nhận thấy rằng P là người tổ chức (là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm) trong hành vi phạm tội trên vì P là người khởi xướng việc phạm tội (chính nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giữa P 2 và N trong kinh doanh dẫn đến hậu quả là xưởng của N bị đốt cháy) và lôi kéo Q cùng thực hiện hành vi phạm tội (thông qua hành động là “nhờ”). Người tổ chức có thể không tham gia hoặc trực tiếp tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng những người đồng phạm khác. Ở đây, P đã chọn cách không tham gia vào hành vi đốt xưởng của N. Mặt khác, P cũng là người xúi giục (là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm) vì ở đây, P và N có mâu thuẫn với nhau trong kinh doanh. P là người nghĩ ra việc phạm tội và đã thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người khác – Q. Hành vi xúi giục của P là trực tiếp và nhằm tới thực hiện một tội phạm cụ thể – tức là P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm. + Q là người thực hành (là người trực tiếp thực hiện tội phạm) trong hành vi phạm tội trên. Bởi vì thông qua hành vi của Q thì mục đích của tội phạm đã đạt được (đốt xưởng) và hậu quả vật chất đã xảy ra (toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi) * Mặt chủ quan của đồng phạm: lỗi cố ý. Những người đồng phạm đều cố ý thực hiện tội phạm cũng như biết và mong muốn sự cố ý của người khác khi cùng thực hiện tội phạm. Ở đây cả P và Q đều cố ý thực hiện hành vi phạm tội đó của mình. - Về lý trí: Mọi người đồng phạm đều nhận thức rõ hành vi của mình và của những người khác trong vụ đồng phạm là nguy hiểm cho xã hội và cũng thấy trước được hậu quả của hành vi đó. Ở đây, P và Q đều nhận thức rõ hành vi đốt xưởng của Q sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho N những vẫn cố ý thực hiện. Và hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi thì đây cũng là thành quả, kết quả hành động phạm tội của P và Q. - Về ý chí: Mọi người đồng phạm đều mong muốn cho hậu quả xảy ra và có ý để mặc cho hậu quả xảy ra. Hậu quả là toàn bộ xưởng của Nbị thiêu rụi ở đây cũng không năm ngoài sự chỉ đạo, điều hành của P cũng như nằm trong kế hoạch chung của tội phạm. Như vậy qua phân tích trên, ta có thể khẳng định P và Q là đồng phạm. 3 Thứ hai, Xét về CTTP của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 BLHS) - Hủy hoại tài sản là làm cho tài sản mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phụ lại được và như vậy toàn bộ giá trị tài sản không còn. Làm hư hỏng tài sản là làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản và giá trị sử dụng giảm đó có thể khôi phụ được (có thể khôi phục lại như cũ nhưng có thể chỉ khôi phục lại được một phần). Hành vi đó có thể là hành động (như đập phá, đốt…) hoặc không hành động (như không tắt máy khi có sự cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn toàn…). Ở tình huống trên, Q đã có hành vi “đốt xưởng của N vào ban đêm”, hành vi này của Q chứng tỏ rằng Q đã trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. - Lỗi của Q và P là lỗi cố ý, cụ thể là lỗi cố ý trực tiếp. Q và P biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm, là sai trái và có khả năng hủy hoại hoặc làm hư hỏng (hoàn toàn hoặc một phần) tài sản là xưởng của N những vẫn thực hiện hành vi đó với ý chí rõ ràng, mong muốn mãnh liệt là tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. Do đó, áp dụng khoản 1 Điều 9 BLHS thì hành vi của P, Q có lỗi cố ý trực tiếp. - Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143BLHS) là tội có cấu thành vật chất. Như vậy, cấu thành tội này đòi hỏi phải có hậu quả là tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng xảy ra và đây cũng là đây cũng là dấu hiệu bắt buộc. Tức tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi đã có hậu quả xảy ra, khi chưa có hậu quả xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội. Trong tình huống trên đã nêu rõ hành vi của P và Q đã gây “hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của n bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng”. Do đó, tội phạm của P, Q là tội phạm hoàn thành. Hành vi của P và Q đã thỏa mãn CTTP của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 BLHS). Do tổng thiệt hại là 350 triệu đồng nên P và Q thuộc khoản 3 Điều 143 tức là: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: 4 a. Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng” Như vậy, có có thể khẳng định P và Q phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điểm a Khoản 3 Điều 143 BLHS. Theo đó, P và Q sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này hay không? Tại sao? (3 điểm) Trong trường hợp này Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này. Bởi vì: Hậu quả chết người xảy ra thì cho dù với lỗi vô ý hay cố ý thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vậy tình huống đặt ra là Q sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội nào? Theo em, trong tình huống này thì Q sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 BLHS và tội vô ý làm chết người theo Điều 98 BLHS. Vì những lý do sau: +) Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 BLHS) - Thứ nhất, mục đích của người phạm tội (là Q) mong muốn hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của ngưởi khác (của N). Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng chính là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Q đến đốt xưởng là nhằm hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của N. Việc anh công nhân của N uống rượu say ngủ quên trong xưởng nằm ngoài dự kiến của Q cũng như nằm ngoài sự chỉ đạo, điều hành của P, nằm ngoài kế hoạch chung của tội phạm. - Thứ hai, khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Hậu quả làm chết người là do hành vi phạm tội gây ra - ở đây có mối quan hệ nhân quả giữa 5 hành vi và hậu quả. Do hành vi đốt xưởng của Q dẫn đến hậu quả là một anh công nhân của N và toàn bộ nhà xưởng, máy móc của N đã bị thiêu rụi. - Thứ ba, hành vi phạm tội của Q là đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Theo Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ tư pháp số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “các tội xâm phạm quyền sở hữu” của BLHS 1999 thì “3.4. Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật chất). Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau: a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng: a.1) Làm chết một người; …………. a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng: …….. b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này.” Hậu quả hành vi đốt xưởng của Q đã làm chết một người và gây thiệt hại về tài sản của N là 350 triệu đồng nên đây là hành vi gây hậu quả rất nghiêm trọng. Điều này đồng nghĩa với việc là Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 3 Điều 143 BLHS. +) Đối với tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS) 6 - Lỗi của người phạm tội: lỗi vô ý. Người phạm tội vô ý làm chết người thực hiện hành vi của mình dưới hình thức lỗi do vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Theo quy định tại Điều 10 BLHS thì vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp: Thứ nhất: Người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Thứ hai: Người phạm tội không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Ở đây, Q đã đến đốt xưởng của N vào ban đêm thì Q cũng phải nhận thức được rằng điều này rất nguy hiểm, có thể làm chết người – không chỉ đối với công nhân của N mà có thể hàng xóm, những người xung quanh. Q có thể thấy trước được hậu quả (chết người) xảy ra nhưng tin rằng không xảy ra hậu quả (chết người) đó. - Chủ thể: Q là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. - Hậu quả: công nhân của N đã bị chết. Từ đó có thể khẳng định Q phạm thêm tội vô ý làm chết người theo Khoản 1 Điều 98 BLHS Như vậy, từ những phân tích trên. Q vẫn phải chịu TNHS về cái chết của người công nhân với hai tội danh đó là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 BLHS và tội vô ý làm chết người theo Điều 98 BLHS. 3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm) Nếu như Q vừa chấp hành bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm. Bởi vì: Thứ nhất, theo Điều 49 BLHS thì có thể hiểu tái phạm nguy hiểm là: “2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: 7 a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý” Thứ hai, Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản nhưng lại chưa được xóa án tích đồng nghĩa với việc Q đã phạm tội cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS mà mức khung hình phạt cao nhất Q có thể phải chịu là mười năm tù (theo Khoản 2, Điều 64 BLHS thì khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây: b) Ba năm trong trường hợp hình phạt tù là đến ba năm Mà trong trường hợp này, Q đã tái phạm ngay sau khi chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích). Khoản 1 Điều 133 BLHS là cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản, là tội phạm rất nghiêm trọng. Thứ ba: như đã phân tích ở trên thì Q phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 Điều 143 BLHS với lỗi cố ý. Mà mức khung hình phạt cao nhất mà Q có thể phải chịu là mười lăm năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng) Như vậy, trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy hiểm. 8
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan