Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bài tập học kì môn lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới (9 điểm)...

Tài liệu Bài tập học kì môn lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới (9 điểm)

.DOC
8
108
111

Mô tả:

Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 SỰ ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT PHÂN CHIA 1 QUYỀN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC HOA KÌ I. Học thuyết phân chia quyền lực 1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết phân chia quyền lực 2. Nội dung và nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực 1 1 2 a. Nội dung của học thuyết phân chia quyền lực b. Nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực II. Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá 2 2 2 trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ 1. Nguyên tắc quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau và 2 nguyên tắc các cơ quan nhà nước hoạt động độc lập với nhau 2. Nguyên tắc kiềm chế và đối trọng 2.1 Kiềm chế và đối trọng từ phía cơ quan lập pháp 2.2 Kiềm chế và đối trọng về phía cơ quan hành pháp 2.3. Kiềm chế và đối trọng từ phía cơ quan tư pháp KẾT LUẬN 4 5 5 5 6 LỜI MỞ ĐẦU Với cách tổ chức bộ máy nhà nước khá triệt để, tổ chức bộ máy nhà nước Mỹ là điển hình của chế độ cộng hòa tổng thống. Đặc biệt với sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong qua trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước đã giúp cho tổ chức bộ máy nhà nước càng trở nên vững chắc và quản lý một cách hiệu quả đất nước, đưa đất nước ngày càng có những bước phát triển cao trên thế giới. Trong bài tập lớn học kỳ lần này, em xin lựa chọn đề tài “ Đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong qúa trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ” . SỰ ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HỌC THUYẾT PHÂN CHIA QUYỀN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC HOA KÌ I. Học thuyết phân chia quyền lực 1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết phân chia quyền lực Thuyết tam quyền phân lập xuất hiện lần đầu tiên bởi nhà bác học vĩ đại của Hy Lạp Aristote. Theo Aristote, nhà nước quản lý xã hội bằng 3 phương pháp: luật pháp, hành pháp và phân xử. Bên cạnh Aristote, bàn về thuyết phân chia quyền lực còn có John Locke. Theo ông, quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền của mình cho nhà nước qua khế ước. Kế thừa tư tưởng phân quyền của Aristote, Locke cho rằng, quyền lực phải phân chia theo 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và liên hợp. Từ thế kỷ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, đã phát triển học thuyết phân chia quyền lực trở thành một học thuyết độc lập. Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như Aristote và J. Locke, Mongtesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền : lập pháp, hành pháp và tư pháp. Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua 2. Nội dung và nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực a. Nội dung của học thuyết phân chia quyền lực Quyền lực nhà nước bao gồm 3 thứ quyền lực chủ yếu là quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Nếu cả 3 thứ quyền lực này tập trung trong tay một người của 1 1 chính quyền sẽ tạo ra sự lạm dụng quyền lực, là nguyên nhân dẫn đến sự xâm phạm các quyền công dân và các quyền con người. Như vậy, việc phân chia quyền lực không những đối với nhà nước quân chủ mà cả đối với nhà nước cộng hòa. Theo học thuyết, phải phân chia bộ mày nhà nước sao cho quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được phân chia cho 3 hệ thống chính quyền nhà nước khác nhau, độc lập với nhau nhưng có thể kiềm chế, đối trọng và tương tác lẫn nhau, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về các cơ quan Tòa án. b. Nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực Học thuyết phân chia quyền lực được xây dựng trên 3 nguyên tắc: Nguyên tắc thứ nhất là quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm được trọn vẹn quyền lực nhà nước. Hai là, hoạt động của các cơ quan quyền lực công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác. Ba là, quyền lực giữa các cơ quan là quyền lực cân bằng, không có loại quyền lực nào vượt trội hơn. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không có một cơ quan nào có khả năng lạm quyền. II. Sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước Mỹ 1. Nguyên tắc quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau và nguyên tắc các cơ quan nhà nước hoạt động độc lập với nhau Trên cơ sở của học thuyết phân chia quyền lực, nhà nước tư sản Mỹ được tổ chức theo ba nguyên tắc sau : Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác nhau; ba bộ phận đó có nhiệm kỳ khác nhau, ba bộ phận đó có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ hoặc tiếm quyền nhau. Mặc dù không có điều khoản nào của hiến pháp quy định rõ ràng rằng ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của nhà nước Liên bang phải được tách bạch nhưng điều 1, điều 2 và điều 3 của hiến pháp lần lượt trao 3 quyền năng nói trên cho Quốc hội, Tổng thống, tòa án tối cao. 2 Quyền lập pháp: Điều 1 Hiến pháp Hoa Kỳ thành lập ra Quốc hội – cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ với 2 viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dân chúng của tiểu bang bầu lên. Số đại biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang. Nhiệm kì của hạ viện là hai năm. Thượng nghị viện là cơ quan đại diện của các bang. Nhiệm kì của thượng nghị viện là sáu năm và cứ hai năm bầu lại một phần ba số thượng nghị sĩ. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ, không kể bang lớn hay nhỏ, dân số nhiều hay ít. Nghị viện có quyền lớn, như quyền thông qua các đạo luật, quyền sửa đổi bổ sung dự án luật và dự án ngân sách của tổng thống, quyền tán thành hoặc không tán thành các quan chức cao cấp do tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống đã kí. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền làm luật ở cấp liên bang và không được ủy quyền lập pháp của mình cho bất kì cơ quan nhà nước nào. Quyền hành pháp :Điều 2 Hiến pháp Hoa Kỳ trao quyền hành pháp cho Tổng thống.Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Nắm quyền hành pháp, tổng thống là người duy nhất quản lí đất nước. Tổng thống có những quyền hạn rất lớn, đó là: bổ nhiệm các bộ trưởng; tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang; trình dự án luật và dự án ngân sách lên nghị viện; kí các hiệp ước quốc tế và cử các đại diện ngoại giao; bổ nhiệm thẩm phán tòa án tối cao; ban bố hoặc phủ quyết các đạo luật của nghị viện. Để đảm bảo sự độc lập của cơ quan hành pháp, Hiến pháp qui định Tổng thống do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm, bất kể Tổng thống đó có được các đảng phái chính trị của quốc hội ủng hộ hay không, đồng thời Tổng thống được miễn truy tố trong suốt nhiệm kỳ. Nhưng có thể bị điều trần tại phiên tòa do thượng viện mở và chỉ bị kết tội khi có đa số phiếu tuyệt đối tán thành. Quyền Tư pháp: Điều 3 Hiến pháp Hoa Kỳ cho phép quốc hội thành lập ra toà án tối cao của Hoa Kỳ và các tòa án liên bang cấp dưới đồng thời trao quyền tư pháp liên bang cho hệ thống tòa án này. Tòa án tối cao gồm 9 thẩm pháp do Tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị viện. Tòa án tối cao có những quyền hạn chủ yếu 3 sau: Phán quyết các đạo luật có hợp hiến hay không; giải thích pháp luật; quyền tối cao về xét xử. Tuy nhiên sự phân chia quyền lực ở Hoa Kỳ không phải là tuyệt đối mà mỗi một trong ba cơ quan nhà nước, trong quá trình thực thi các quyền hạn của mình ở một mức độ nhất định vẫn chịu sự kiểm tra chéo của 2 cơ quan còn lại. Nói cách khách cùng với yếu tố quân chia quyền lực, hiến pháp Hoa Kỳ còn thừa nhận cả yếu tố kiềm chế và đối trọi. Kiềm chế và đối trọng có mỗi quan hệ chặt chẽ với phân chia quyền lực. Việc kiểm soát lẫn nhau giữa 3 cơ quan sẽ tạo ra sự cân bằng quyền lực, làm cho không một cơ quan nào có thể tùy tiện sử dụng quyền lực hiến định trong quá trình thực thi các hoạt đông chức năng của mình, tránh dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán. 2. Nguyên tắc kiềm chế và đối trọng 2.1 Kiềm chế và đối trọng từ phía cơ quan lập pháp Theo hiến pháp Hoa Kỳ, quốc hội có quyền can thiệp vào vấn đề nhân sự của cơ quan hành pháp, thể hiện ở quyền chỉ định và miễn nhiệm Tổng thống, quyền phê chuẩn các danh sách Chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm. Nếu ghế phó Tổng thống bị trống, Tổng thống có thể chỉ định phó Tổng thống với điều kiện sự chỉ định đó phải được chấp nhận ở 2 viện. Ngoài ra khi bổ nhiệm thành viên Nội các, các đại sự, các công chức chính phủ cấp cao, Tổng thống cũng cần có sự tư vấn và chấp thuận từ 2 viện trừ khi việc đó diễn ra trong thời gian diễn ra giữa các phiên họp của thượng viện. Quốc hội cũng có thể miễn nhiệm Tổng thống bằng cách mở một phiên tòa xét xử khi có đơn tố cáo Tổng thống và nếu xét thấy Tổng thống thực sự có hành vi vi phạm pháp luật. Hạ viện có quyền tố cáo các công chức chính phủ và thầm phán còn thượng viện có quyền mở phiên tòa xét xử tất cả các đối tượng nói trên khi có lời cáo buộc. Mỗi viện đều có quyền miễn nhiệm nghị sĩ nào đó của mình nếu có đủ phiếu hiến định từ các nghị sĩ của viện đó. Hạ viện chỉ cần quá bán số phiếu tán thành của Hạ nghị sĩ thì thượng nghị viện cần 2/3 số phiếu tán thành của thượng nghị sĩ. Quốc hội có quyền can thiệp vào bộ máy của cơ quan tư pháp như thành lập ra các tòa án cấp dưới của tòa án tối cao và xác định thẩm quyền cũng như quy mô của các tòa 4 án này. Các thẩm phán liên bang mặc dù do Tổng thống bổ nhiệm nhưng phải được thượng viện chấp thuận. 2.2 Kiềm chế và đối trọng về phía cơ quan hành pháp Tổng thống Hoa Kỳ đứng đầu cơ quan hành pháp nhưng được phép can thiệp vào hoat động lập pháp của quốc hội thông qua việc sử dụng quyền phủ quyết đối với dự luật đã được quốc hội thông qua. Tuy nhiên quyền phủ quyết này có thể bị vô hiệu hóa nếu mỗi viện có tới 2/3 số phiếu tán thành dự luật bị Tổng thống phủ quyết sau khi dự luật đó quay trở lại viện đã đệ trình lên Tổng thống trừ trường hợp phủ quyết “bỏ túi”. Ngoài quyền phủ quyết, trường hợp 2 viện của quốc hội không thể thống nhất cho ngày giờ cho phiên họp tiếp theo, Tổng thống sẽ có quyền quyết định. Tổng thống còn có thể triệu tập họp khẩn cấp đối với mỗi viện hoặc cả 2 viện của quốc hội. Tổng thống còn có quyền can thiệp vào hoạt động tư pháp, kể cả việc can thiệp vào vấn đề nhân sự của cơ quan này. Cụ thể, Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán trên cơ sở tư vấn và được sự chấp thuận của thượng viện; có quyền phát lệnh tha bổng và ân xá mà không cần có sự phê chuẩn của bất cứ viện nào của quốc hội; hoặc thậm chí ý kiến của phạm nhân. 2.3. Kiềm chế và đối trọng từ phía cơ quan tư pháp Tòa án Hoa Kỳ có quyền kiểm soát cả cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp thông qua việc giám sát bằng thủ tục tư pháp đối với các văn bản pháp luật do các cơ quan này ban hành. Quyền giám sát bằng thủ tục thực ra không được ghi nhận cụ thể trong hiến pháp Hoa Kỳ mà do các nhà lập hiến mường tượng ra và được củng cố thêm bằng tiền lệ pháp do tòa án tối cao của Hoa Kỳ thiết lập từ vụ Marbury.v.Madison. Trong phán quyết này tòa án tối cao đã phủ nhận một phần hiệu lực của đạo lực liên bang với lí do quốc hội vượt quá quyền hiến định khi thông qua đạo luật đó. Tòa cũng khẳng định răng quyền giám sát bằng thủ tục tư pháp của tòa án không chỉ áp dụng với luật của bang mà còn áp dung đối với luật của liên bang rằng quốc hội liên bang chỉ có quyền giới hạn theo hiến pháp liên bang. Vì vậy luật của liên bang cũng chịu 5 sự giám sát bằng thủ tục tư pháp của toà án liên bang. Nó đã thiết lập nên cơ sở pháp lí vững chắc, giúp tòa án bãi bó hiệu lực của một đạo luật nếu đạo luật đó vi hiến. Quyền giám sát bằng thủ tục tư pháp đối với tính hợp hiến của các văn bản pháp luạt, tuy nhiên có thể bị quốc hội hạn chế vì quốc hội có quyền giới hạn thẩm quyền của các tòa án. Tòa án tối cao chỉ có thể thực thi thẩm quyền xét xử phúc thẩm trừ những vụ việc liên quan đến các bang và những vụ việc ảnh hường tới các đại sứ, các bộ trưởng hoặc lãnh sự nước ngoài (được xét xử sơ thẩm) quốc hội còn được phép giới hạn quyền lực của Chánh án tòa án tối cao khi ở trong cương vị chủ tọa phiên tòa do thượng nghị viện mở để luận tội Tổng thống. Quyền Tòa án trong việc giám sát bằng thủ tục tư pháp dường như là phương tiện duy nhất cho phép tòa kiềm chế những hoạt động của 2 cơ quan còn lại. Cho đến trước nội chiến tòa án mơi thực thi quyền năng này 2 lần. Ngày này được sử dụng rộng rãi hơn nhưng khó nói được rằng tòa án có quyền lực chính trị như Tổng thống, Quốc hội. KẾT LUẬN Tóm lại mặc dù tam quyền phân lập giúp các cơ quan nhà nước có được sự độc lập cần thiết để thực hiện tốt chức năng của mình và là điều cần có cho một xã hội dân chủ nhưng nếu chỉ có tam quyền phân lập, rất có thể sẽ dẫn đến tình trạng trì trệ trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Kiềm chế và đôi trọng, vì vậy, sẽ là giải pháp giúp một trong ba cơ quan nhà nước nói trên có thể kiểm soát hoạt động chức năng của nhau ở mức độ cần thiết, không cho phép bất cứ cơ quan nào lạm quyền. Tuy nhiên liệu bộ máy nhà nước Mỹ có thực sự hoạt động hiệu quả và đảm bảo một trật tự xã hội tự do, dân chủ hay không còn tùy thuộc nhiều vào thực tiễn vận hành của bộ máy nhà nước cũng như mức độ tuân thủ hiến pháp của chính các cơ quan nhà nước nói trên. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008. 6 2. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới. 3. Viện thông tin khoa học xã hội, Thuyết “Tam quyền phân lập” và tổ chức bộ máy nhà nước tư sản hiện đại, Hà Nội, 1992. 4. Nguyễn Thị Hồi, Tư tưởng phân chia quyền lực với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005. 5. Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại, lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008. 6. TS. Nguyễn Thị Ánh Vân, Bàn về học thuyết tam quyền phân lập và kiềm chế đối trọng trong hiến pháp Hoa Kỳ, Tạp chí Luật học, số tháng 12/2010. 7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan