Bài làm
Trong bối cảnh của nước ta hiện nay, sau hơn 5 năm thực hiện hoạt động xã
hội hóa công chứng, cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng các công chứng
viên thì những yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn, chất lượng của các công chứng viên
tại các văn phòng công chứng cũng không ngừng được đặt ra. Sau đây, em xin đi
vào trình bày vấn đề điều kiện, tiêu chuẩn của công chứng viên.
I. Khái quát về công chứng viên
Định nghĩa công chứng viên được quy định tại Điều 7 của Luật công chứng:
Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được bổ
nhiệm để hành nghề công chứng.
Để phân biệt công chứng viên với những chủ thể khác, pháp luật đã đưa ra
những quy định cụ thể về điều kiện tiêu chuẩn để trở thành công chứng viên (người
thực hiện công chứng) cũng như nhiệm vụ quyền hạn của công chứng viên. Công
chứng viên là chủ thể thực hiện hành vi công chứng chứ không phải là Phòng công
chứng hay Văn phòng công chứng. Trước đây các Nghị định của Chính phủ quy
định về công chứng chưa làm rõ được vị trí nêu trên của công chứng viên, thậm chí
vai trò, vị trí của công chứng viên bị lu mờ so với Phòng công chứng. Cách thức tổ
chức công chứng nhà nước như trước đây khiến cho người dân và các cơ quan, tổ
chức chỉ nghĩ đến Phòng công chứng như là chủ thể duy nhất của hoạt động công
chứng, còn công chứng viên chỉ là một công chức hành chính làm việc trong Phòng
công chứng. Trưởng phòng công chứng hầu như là người chịu trách nhiệm chính
trong hoạt động công chứng của Phòng và có quyền rất lớn đối với công chứng viên.
Như theo quy định của điều 7 luật công chứng năm 2006 thì công chứng viên là
chủ thể hành nghề công chứng chứ không phải là Phòng công chứng hay Văn phòng
công chứng. Phòng công chứng hay Văn phòng công chứng chỉ là tổ chức hành nghề
của Công chứng viên.
II. Điều kiện, tiêu chuẩn công chứng viên
Luật công chứng đã có những quy định tạo điều kiện để những người có đủ
tiêu chuẩn và trình độ muốn hành nghề công chứng được chủ động hơn trong việc
trở thành công chứng viên.
Theo quy định tại Điều 13 của Luật công chứng năm 2006 thì: “1. Công dân
Việt Nam cư trú tại Việt Nam trung thành với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét bổ
nhiệm làm công chứng viên:
a) có bằng cử nhân luật;
b) có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan tổ chức;
c) có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng, đã qua thời gian tập sự
hành nghề công chứng;
d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng
e) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề công chứng.
2. Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề công chứng được tính
vào thời gian công tác pháp luật”.
Dựa trên tiêu chuẩn công chứng viên, pháp luật quy định một cách rất cụ thể
người thực hiện công chứng và nói chung các quy định đó cũng khá đúng đắn và
hợp lý. Tuy nhiên, tiêu chuẩn công chứng viên vẫn còn một số điểm hạn chế như:
Công chứng viên là người bảo vệ quyền lợi người công chứng nhưng cũng có
thể gây thiệt hại to lớn về kinh tế nếu thiếu hiểu biết hoặc làm việc tắc trách, bất cẩn.
Do vậy, những tiêu chuẩn đó so với yêu cầu thực tế còn sơ sài và làm nảy sinh rất
nhiều bất cập. Ví dụ: một số giao dịch liên quan đến bất động sản có biểu hiện công
chứng “treo”. Công chứng viên không qua đào tạo nghề công chứng ở một số văn
phòng công chứng có tình trạng lôi kéo khách hàng, thực hiện hoạt động công chứng
trái quy định.
Việc luật công chứng cũng không quy định về tuổi hành nghề công chứng
cũng là một điểm hạn, nếu công chứng viên cao tuổi sẽ hạn chế về sức khỏe, không
đáp ứng được yêu cầu về tư duy về nghiê ̣p vụ sắc bén, đòi hỏi cần có sự tinh thông.
Ngoài ra, còn một điểm hạn chế lớn của luật công chứng hiện hành đó là việc quy
định các trường hợp được miễn đào tạo và miễn tập sự nghề công chứng bao gồm
những người: “Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề từ
ba năm trở lên, là giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật, đã là thẩm tra
viên cao cấp ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao
cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật”.
Tuy đây là những người có trình độ pháp lý cao nhưng công chứng viên là
nghề rất đặc thù, tính chịu trách nhiệm cao, văn bản pháp công chứng có giá trị pháp
lý không phải chứng minh…do đó, những người này không cần phải đào tạo cũng
không có lấy một ngày tập sự hành nghề là không phù hợp. Thực tế có nhiều vụ việc
công chứng viên “sang ngang” kiểu này đã dẫn đến những vi phạm đáng tiếc.
Để hoàn thiện hơn, cần sửa đổi Luật Công chứng theo hướng thu hẹp đối
tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, cụ thể là không miễn đào tạo cho đối
tượng đã là điều tra viên, luật sư hành nghề từ 3 năm trở lên mà chỉ miễn đào tạo
nghề công chứng cho người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, công chứng viên, giáo
sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật nhằm quy định chặt chẽ hơn về điều
kiện được miễn đào tạo nghề công chứng; bổ sung quy định những đối tượng được
miễn đào tạo phải tham gia khoá bồi dưỡng nghề công chứng trước khi đề nghị bổ
nhiệm, trừ những người đã là công chứng viên mà thôi hành nghề công chứng tính
đến trước thời gian bổ nhiệm tối đa là 5 năm.
Đồng thời, cần bổ sung quy định người được miễn đào tạo nghề công chứng
cũng phải tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng, song được giảm 1/2 thời
gian tập sự vì đây là những người đã có kinh nghiệm làm việc trong các lĩnh vực
pháp luật; bổ sung quy định về kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng nhằm
đảm bảo và tăng cường chất lượng của việc tập sự hành nghề công chứng, đánh giá
được hiệu quả và thực chất của việc tập sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật công chứng năm 2006;
2. Nghị định 04/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật công chứng;
2. http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sachmoi/4680/%E2%80%9Csiet%E2%80%9C-quy-dinh-ve-cong-chung-vien
- Xem thêm -