Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của phun chế phẩm kích thích đậu quả pisomix y95 lên lá đến một số chỉ...

Tài liệu ảnh hưởng của phun chế phẩm kích thích đậu quả pisomix y95 lên lá đến một số chỉ tiêu sinh lí, năng suất và phẩm chất lạc

.PDF
70
31
78

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự hướng dẫn khoa học, chỉ bảo tận tình của TS Nguyễn Văn Đính. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu. Ban chủ nhiệm khoa Sinh KTNN, cùng các thầy cô trong tổ sinh lý sinh hoá, cán bộ phụ trách phòng thí nghiệm.Trung tâm hỗ trợ Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; các bạn sinh viên trong nhóm nghiên cứu, các anh chị trong ban quản lý thư viện trường ĐHSPHN 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè của tôi đã hết lòng ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt luận văn này. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2012 Tác giả Nguyễn Thị Kim Thuý LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2012 Tác giả Nguyễn Thị Kim Thuý 1 PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lạc (Arachis hypogaea L) là cây công nghiệp ngắn ngày, có giá trị kinh tế cao. Cây lạc được gieo trồng phổ biến ở 115 nước trên thế giới với diện tích 25,6 triệu ha. Hạt lạc là một trong những nguồn thực phẩm chứa nhiều chất béo và protein cần thiết cho khẩu phần ăn của con người. Ngoài ra, hạt lạc còn chứa các vitamin nhóm B và một lượng hyđratcacbon. Hạt lạc là nguyên liệu chính để sản xuất dầu ăn, bánh kẹo, phomát …và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Các phụ phẩm của lạc (khô dầu, thân, lá) dùng làm thức ăn cho gia súc đều rất tốt và rẻ tiền. Trồng lạc có tác dụng cải tạo đất và phù hợp với cơ cấu chuyển đổi kinh tế nông nghiệp hiện nay [11]. Ở Việt Nam, cây lạc đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu cây nông nghiệp, đặc biệt ở những nơi có khí hậu thường xuyên biến động và điều kiện canh tác còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây, nhờ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và ứng dụng khoa học tiên tiến vào sản xuất đã góp phần tăng năng suất lạc một cách đáng kể. Cây lạc đang đứng đầu trong số các cây công nghiệp ngắn ngày tham gia vào thị trường xuất khẩu và cùng đậu tương đang là một trong 10 chương trình ưu tiên phát triển của nhà nước. Mỗi năm nước ta xuất khẩu khoảng 80-127 nghìn tấn lạc hạt, chiếm 30-50% tổng sản lượng. Ngày nay, cây lạc đã và đang đem lại nguồn lợi kinh tế lớn cho đất nước. Ở nhiều vùng sản xuất, lạc là nguồn thu nhập chính cho người nông dân [7]. Ở thực vật ngoài rễ là cơ quan hút nước và khoáng thì chúng còn có khả năng hấp thụ một số chất từ thân, lá. Chính vì vậy, trong sản xuất con người đã sử dụng một số chế phẩm như phân khoáng, các chất kích thích sinh trưởng phun lên lá nhằm bổ sung, nâng cao một số chất cần thiết cho cây 2 trồng gọi chung là phân bón lá. Dùng phân bón lá có nhiều ưu điểm: chất dinh dưỡng được cung cấp nhanh hơn bón gốc, hiệu xuất sử dụng phân bón cao hơn, chi phí thấp, ít ảnh hưởng đến môi trường và làm tăng nhanh các quá trình sinh lí trong cây, do vậy làm tăng năng suất và chất lượng nông sản [2]; [12]; [13]; [14]; [15]; [20]; [25]. Do lợi ích của phân bón lá đã được khẳng định như vậy nên hiện nay trên thị trường đã bán rất nhiều các chế phẩm dùng phun lên lá như: Phân bón lá cao cấp Đầu Trâu; chế phẩm Pisomix Y95; chế phẩm kích thích ra lá v.v… [48]; [54];… Tuy nhiên đối với cây lạc, chế phẩm Pisomix Y95 có thực sự có hiệu quả hay không còn ít tài liệu bàn đến. Chính vì lí do đó chúng tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của phun chế phẩm kích thích đậu quả Pisomix Y95 lên lá đến một số chỉ tiêu sinh lí, năng suất và phẩm chất lạc” nhằm khẳng định hiệu quả của loại chế phẩm này đối với một số chỉ tiêu sinh lí cũng như năng suất, phẩm chất lạc làm cơ sở khuyến cáo cho người sản xuất. 2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá hiệu lực của chế phẩm kích thích đậu quả Pisomix Y95 đang được bán tại các cơ sở dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn Vĩnh Phúc đến khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả của giống lạc L14 hiện đang được người nông dân trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó khuyến cáo cách dùng sản phẩm này cho người nông dân. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Chúng tôi tiến hành trồng giống lạc L14 và chia làm 2 lô: Lô đối chứng (không phun Pisomix Y95) và lô thí nghiệm (phun Pisomix Y95) phun lần 1 vào giai đoạn cây được 7 lá thực và bắt đầu ra hoa. Phun lần 2 cách lần một là 10 ngày khi cây ra hoa rộ và hình thành quả. Cách bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, chế độ chăm sóc đảm bảo sự đồng đều giữa các công thức. Tiến hành đánh giá hiệu lực của chế phẩm Pisomix Y95 đến các chỉ tiêu: 3 3.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng phát triển: Chiều cao cây, đường kính thân cây; khả năng phân cành và nhánh/cây. 3.2. Chỉ tiêu quang hợp: Hàm lượng diệp lục, chỉ số diện tích lá, cường độ quang hợp (xác định theo phương pháp nửa lá của Shachs, khả năng tích lũy sinh khối của cây); huỳnh quang diệp lục. 3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất. 3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng phun chế phẩm Pisomix Y95 đến một số chỉ tiêu phẩm chất hạt lạc như: hàm lượng vitamin C, đường khử, tinh bột, lipit và protein v.v 3.5. Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm kích thích sinh trưởng ra lá đến cây lạc để khuyến cáo cho người sản suất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng thực vật là giống lạc L14 hiện đang được trồng phổ biến ở khu vực Vĩnh Phúc. - Chế phẩm Pisomix Y95: Là chế phẩm kích thích đậu quả cây trồng thế hệ mới có nguồn gốc từ Asihi Chemical MFG. Co., LTD. Japan. - Các máy móc và hóa chất phục vụ cho nghiên cứu như: máy cất đạm tự động, máy quét lá, máy đo hàm lượng diệp lục tổng số SPAD -502, do Nhật Bản sản xuất, máy đo huỳnh quang v.v. Hóa chất gồm: H2O2; H2SO4; KMnO4; HCl; axit Ascobic v.v. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu tiến hành từ ngày 20 tháng 03 năm 2011 đến ngày 30 tháng 10 năm 2012. - Nghiên cứu ảnh hưởng của phun Pisomix Y95 lên lá đến các chỉ tiêu sinh lý, năng suất và phẩm chất lạc L14 đang được trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc. 4 - Phân tích các chỉ tiêu nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Sinh lí thực vật của khoa Sinh - KTNN trường ĐHSP Hà Nội 2, Trung tâm hỗ trợ NCKH & chuyển giao công nghệ và ngoài đồng ruộng. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung các tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng của các chế phẩm kích thích đậu quả đến sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả đối với cây lạc. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khẳng định chế phẩm Pisomix Y95 có phù hợp với cây trồng cụ thể là cây lạc hay không. Nếu thực sự chúng có vai trò làm tăng khả năng sinh trưởng và năng suất, phẩm chất thì khuyến cáo để người nông dân sử dụng và ngược lại. 5 PHẦN II. NỘI DUNG Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Nguồn gốc của cây lạc Cây lạc được người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha phát hiện ở vùng Nam Mỹ, đặc biệt ở vùng đảo Tây Ấn, Mehico, vùng biển Đông - Đông Bắc Braxin,…Theo các nhà lịch sử tự nhiên, người Inca đã trồng lạc như một loại rau có tên Ynchis dọc vùng biển duyên hải Peru vào khoảng 1500-1200 năm trước Công Nguyên. Tới thế kỷ 17 các nhà tự nhiên học Châu Âu mới biết đến cây lạc. Từ đó cây lạc được phổ biến ở Châu Âu, vùng bờ biển Châu Phi, Châu Á, quần đảo Thái Bình Dương và cuối cùng là tới vùng Đông Nam Hoa Kỳ. Ngày nay cây lạc đã được trồng phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới với diện tích lớn [21]. 1.2. Giá trị kinh tế và đặc điểm nông sinh học của cây lạc Cây lạc (còn có tên gọi khác là đậu phộng, đậu nụ) có tên khoa học là Arachis hypogaea L. là cây thảo hàng năm. Hạt lạc chiếm 40% - 58% lipit, 16% - 43% protein, 6% - 24% gluxit, 2,5% celluose. Trong 100g lạc có 60 UI vitamim A, 300 UI vitamin nhóm B, một lượng vitamin PP đủ dùng cho người lớn trong 1 ngày và cung cấp 578,6 calo. Protein của lạc có đủ 8 loại axit amin không thay thế, đặc biệt trong hạt lạc có chất lecithin (phosphattidyl choline) có tác dụng làm giảm lượng cholesterol trong máu, chống hiện tượng xơ vữa mạch máu. Thức ăn bằng lạc có thể khắc phục tình trạng thiếu protein cho con người [9]. Dầu lạc là 1 hỗn hợp glyxerin chứa 80% axit béo không no, có độ nhớt thấp, mùi thơm. Dầu lạc được sử dụng trong y học, kỹ nghệ dầu máy, sản xuất xà phòng... Hạt lạc là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, mỗi năm nước ta xuất khẩu khoảng 80 120 ngàn tấn lạc, chiếm 30% - 50% tổng sản lượng. Các phụ phẩm của lạc 6 như khô dầu, thân lá dùng để chế biến thức ăn cho gia súc hay phân bón đều có giá trị dinh dưỡng cao và rẻ tiền, một kilogam khô dầu lạc chứa 400 gam protein, 80 gam lipit [9]. Trồng lạc còn có tác dụng chống sói mòn và cải tạo đất. Nhờ sự hoạt động của vi khuẩn nốt sần mà sau một vụ lạc sẽ để lại trong đất từ 40 - 60 kg N/ha. Mặt khác, cây lạc có thời gian sinh trưởng ngắn từ 90 - 125 ngày, nên có thể xen canh, gối vụ với các cây trồng khác làm tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích đất trồng [9]. 1.3. Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây lạc 1.3.1. Đặc điểm hình thái của cây lạc Cây lạc là cây thảo hằng năm, còn có tên gọi khác là đậu phộng, đậu nụ, tên khoa học là Arachis hypogaea L. Lá lạc: thuộc loại lá kép lông chim, có 4 lá chét hình trái xoan ngược, gốc lá tù, đầu lá tròn hay lõm, mỏng như màng, đối diện từng đôi một. Hai lá kèm hình dải nhọn bao quanh thân. Trên thân chính thường có 20 - 30 lá. Sau khi mọc, diện tích lá tăng dần và tăng nhanh nhất vào thời kì ra hoa rộ [9], [11]. Thân và cành: các giống lạc có thân chính cao khoảng 25 - 50 cm, thân sinh trưởng nhanh ở thời kỳ cây con và đạt cao nhất trong thời kỳ hoa rộ (khoảng 25 - 45 ngày). Lạc có cành cấp I và cành cấp II xuất hiện khi cây có 2-3 lá thật, tốc độ sinh trưởng của cành cấp II nhanh hơn cành cấp I (mọc từ thân chính ra), khi cây bắt đầu nở hoa thì cành hầu như đã đạt mức tối đa [9], [11]. Rễ: bộ rễ lạc gồm rễ cọc và rễ con. Rễ sinh trưởng, phát triển đạt trị số cao nhất vào thời kỳ hình thành quả và hạt, sau đó giảm dần trong thời kỳ chín. Bộ rễ phát triển sớm và khoẻ là cơ sở quan trọng để tăng năng suất lạc. Trên rễ có nhiều nốt sần, bên trong chứa nhiều vi khuẩn Rhizobium sống cộng sinh với rễ cây lạc, chúng có khả năng cố định nitơ tự do trong không khí tạo đạm cung cấp cho cây và đất [9], [11]. 7 Hoa và quả: Khi cây có 5 - 6 lá trên thân chính, bắt đầu có sự phân hóa các mầm hoa. Cụm hoa chùm ở nách lá, mỗi vị trí có 3 - 5 hoa nhỏ, màu vàng. Hoa tự thụ phấn, tia lạc phát triển đẩy bầu hoa xuống đất và hình thành quả trong đất (do đó người ta gọi là củ lạc). Quả không chia đốt, hình trụ thuôn, thon lại giữa các hạt, có vân mạng, mỗi quả có 1 - 4 hạt, hạt hình trứng, có rãnh dọc, vỏ lụa màu đỏ, vàng, cánh sen hoặc trắng [9], [11]. 1.3.2. Các thời kỳ sinh trưởng phát triển của cây lạc Các giống lạc trồng phổ biến ở Việt Nam có thời gian sinh trưởng từ 3 tháng rưỡi đến 4 tháng tùy giống và được chia làm 4 thời kì [9], [11].  Thời kỳ nảy mầm của hạt: Sự nảy mầm của hạt là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sinh trưởng lạc. Đây là quá trình hạt chuyển từ trạng thái tiềm sinh sang trạng thái hoạt động. Khi hút đủ nước, hạt trương lên nhanh, các enzim bắt đầu phân giải, chuyển hóa các hợp chất hữu cơ tạo nguyên liệu cho quá trình sinh trưởng của rễ và mầm. Hạt nứt, rễ mầm nhú, chui ra khỏi hạt cắm xuống đất, tiếp sau đó lá mầm phát triển nhanh, phôi mầm mọc hình thành cây lạc.  Thời kỳ cây con và trước ra hoa: Giai đoạn cây con: tính từ lúc xòe lá mầm đến khi cây có 3 lá thật; Thời kỳ này có thể kéo dài khoảng 25 - 45 ngày tuỳ giống và điều kiện nhiệt độ, ẩm độ. Thời kì này cây rất cần đạm và các chất dinh dưỡng để sinh trưởng, đặc biệt nhu cầu về nước thời kì này cũng cao.  Thời kỳ ra hoa, đâm tia và làm quả: Sau mọc 25 - 45 ngày (hoặc 50 ngày), cây lạc bắt đầu nở hoa. Trong giai đoạn này cây rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, nếu nhiệt độ < 240 cây sẽ ra hoa ít và ra không tập trung. Thời kì này cây lạc chỉ cần đủ nước chứ không cần độ ẩm quá cao sẽ không tốt cho sự sinh trưởng của cây, nhưng nếu thiếu nước thời kỳ ra hoa tạo điều kiện hình thành tầng rời ở cuống hoa, gây rụng hoa, giảm năng suất. Ngoài nước cây lạc còn cần đạm, kali cho sự hình thành quả. 8  Thời kỳ hình thành quả, hạt và chín: Cuối thời kỳ hoa rộ, nhiều tia đã đâm vào đất bắt đầu tạo quả. Thời kỳ này kéo dài 65 - 70 ngày, chiếm một nửa thời gian sinh trưởng phát triển của cây lạc. Quả và hạt của cây lạc có sự biến đổi về hình thái và sinh lí, hàm lượng nước giảm dần, chất khô và lipit trong quả tăng lên. Độ ẩm là điều kiện cơ bản đối với sự phát triển của quả. Thiếu nước bầu hoa héo, ngừng sinh trưởng, nhưng nếu quá nhiều nước sẽ gây thối tia, thối quả. 1.4. Một số yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, phát triển năng suất của cây lạc 1.4.1. Khí hậu Trong các yếu tố khí hậu, nhiệt độ và chế độ nước ảnh hưởng trực tiếp sinh trưởng, phát triển và cuối cùng là năng suất của cây lạc. * Nhiệt độ: Lạc là cây trồng thích hợp với nhiệt độ cao. Tuy nhiên mỗi giai đoạn sinh trưởng chúng lại cần nhiệt độ khác nhau. Trong giai đoạn nảy mầm, nhiệt độ đất nhỏ hơn 18oC và lớn hơn 540C ảnh hưởng rất lớn đến khả năng nảy mầm [36]. Theo các kết quả nghiên cứu của Foretier, Mills cây lạc sinh trưởng sinh dưỡng tốt nhất trong khoảng từ 270C đến 300C [38]. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực nhiệt độ tối thích từ 240C đến 270C, nhiệt độ quá cao và kéo dài ảnh hưởng đến sức sống của hạt phấn [35] . Biên độ giao động ngày đêm cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến số lượng hoa, tỷ lệ đậu quả, giai đoạn phát triển quả cần nhiệt độ từ 300C đến 340 C [37]. * Ánh sáng: Lạc là cây C3, ánh sáng ảnh hưởng tới cả quang hợp và hô hấp. Cây lạc phản ứng tích cực với cường độ ánh sáng toàn phần (Dreyer [37]). Cường độ ánh sáng thấp vào giai đoạn ra hoa làm cho sinh trưởng sinh dưỡng chậm lại (Hudgesn và Mc Cloud, 1974) [40]. Cường độ ánh sáng thấp trong giai đoạn 9 sinh trưởng làm tăng nhanh chiều cao cây nhưng giảm khối lượng lá và số hoa (Hang và Mc Cloud, 1976) [39]. Việc ra hoa không phụ thuộc vào chu kỳ quang nhưng phân hoá mầm lạc và tổng số hoa phụ thuộc rất nhiều vào ánh sáng (Forestier,1973) [38]. Khi trồng trong điều kiện ngày ngắn cây lạc ra hoa chậm và nở ít hoa hơn khi trồng trong điều kiện ngày dài [40]. * Độ ẩm: Cây lạc được xem là loại cây chịu hạn, nhưng thực tế cây lạc chỉ có khả năng tương đối chịu hạn ở một số thời kỳ sinh trưởng, phát triển nhất định. Thiếu nước ở một số thời kỳ cần thiết đều ảnh hưởng tới năng suất. Độ ẩm đất trong suốt thời gian sinh trưởng của lạc yêu cầu khoảng 70-80% độ ẩm giới hạn đồng ruộng. Yêu cầu này có cao hơn một chút ở thời kỳ ra hoa, kết quả (80 - 85%) và giảm ở thời kỳ chín của hạt. Tổng nhu cầu về nước trong suốt thời gian sinh trưởng của cây lạc từ khi mọc đến thu hoạch (không kể thời kỳ nảy mầm) là 450 - 700mm. Vì vậy tổng lượng mưa và lượng mưa phân phối trong chu kỳ sinh trưởng của cây lạc ảnh hưởng lớn đến các thời kỳ sinh trưởng phát triển và năng suất cuối cùng của lạc [44], [51]. 1.4.2. Đất đai Do đặc tính sinh lý nên cây lạc có quan hệ chặt chẽ với điều kiện lý tính của đất. Đất trồng lạc tốt phải là đất thoát nước nhanh, có màu sáng, tơi xốp, phù sa pha cát, có đầy đủ canxi hàm lượng chất hữu cơ dưới 2%. Đất thoát nước, tơi xốp tạo điều kiện cho lạc nảy mầm, dễ dàng ngoi lên mặt đất, thuận lợi cho quá trình đâm tia, phình quả và sinh trưởng tốt. Ở đất bí, quả lạc hô hấp kém làm cho khối lượng quả bị giảm. Đất nhiều nước quá không cung cấp đủ oxy cho rễ hô hấp, làm ức chế sự sinh trưởng của các rễ, trao đổi chất của cây chậm lại, đồng thời vi khuẩn cố định đạm giảm hiệu lực và rễ không hút được nitơ từ đất nhẹ. Cây lạc ưa đất hơi chua và trung tính có độ pH từ 5,5 đến 7,0 đất kiềm không tốt, khi độ pH từ 7,5 đến 8,5 lá trở nên vàng, vết đen xuất hiện trên vỏ quả [44 ]. 10 1.4.3. Dinh dưỡng [44] Theo ConLin và Morit lạc trồng ở Mỹ với năng suất quả 2.230 kg/ha (1.430 kg hạt + 800 kg vỏ quả) và 4.480 kg/ha thân lá, lượng nguyên tố khoáng lấy đi từ đất ở (bảng 1.1) Bảng 1.1: Lượng nguyên tố khoáng do lạc hấp thu từ đất Chỉ tiêu Tổng số (kg/ha) N P2O5 K2 O CaO MgO 156,3 27,2 115,2 65,9 33,9 Lượng lấy đi tính bằng (g) cho kg/ha của: Thân lá 19,7 2,6 20,5 13,7 6,3 Hạt 44,1 10,1 8,5 0,8 3,1 vỏ quả 6,4 1,1 13,7 3,9 1,5 Quả 30,5 6,9 10,4 1,9 2,6 Qua số liệu bảng 1.1 cho thấy phần lớn N, P nằm trong quả và hạt. Các nguyên tố K, Ca và Mg tập trung nhiều ở thân và lá hơn các bộ phận khác nghiên cứu. 1.5. Thời vụ gieo trồng [43] * Thời vụ trồng lạc ở các tỉnh miền Bắc, đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Khu 4 cũ + Lạc xuân: trồng tháng 2 dương lịch + Lạc thu: trồng trong tháng 7-8 dương lịch * Thời vụ trồng lạc ở các tỉnh miền Nam + Lạc xuân: gieo tháng 3-4 + Lạc thu: gieo tháng 7-8 11 1.6. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và ở Việt Nam 1.6.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới Lạc được gieo trồng khá sớm nhưng đến khoảng thế kỷ XVI mới được phát triển rộng khắp trên thế giới. Tuy nhiên sản xuất vẫn mang tính tự cung tự cấp, chỉ đến thế XVIII khi ngành công nghiệp ép dầu bắt đầu phát triển đã thúc đẩy cho việc sản xuất lạc phát triển và mang tính chất sản xuất hàng hóa. Điều này là cơ hội thúc đẩy các nước đầu tư cho phát triển sản xuất lạc ngày càng tăng không chỉ về diện tích sản xuất mà năng suất và sản lượng lạc của thế giới cũng ngày càng được cải thiện so với trước đây. Theo thống kê của FAO, từ năm 2000 đến nay diện tích, năng suất và sản lượng lạc của thế giới có sự biến động. Diện tích lạc có xu hướng giảm nhẹ, năm 2000 diện tích trồng lạc là 23,26 triệu ha, sau đó tăng lên và đạt cao nhất vào năm 2005 (23,96 triệu ha), nhưng đến năm 2010 diện tích trồng lạc giảm xuống còn 24,07 triệu ha. Ngược lại với diện tích, năng suất lạc ngày càng tăng nhờ được áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Năm 2000 năng suất lạc đạt 14,16 tạ/ha, tăng so với năng suất năm 1980 (11 tạ/ha). Đến năm 2008, năng suất lạc thế giới đạt 15,98 tạ/ha cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, năm 2010 năng suất lạc thế giới giảm xuống còn 15,64 tạ/ha [55]. Diện tích và năng suất, sản lượng lạc trên thế giới được thể hiện ở bảng 1.2. Sự phân bố diện tích sản suất lạc ở các khu vực trên thế giới không đều, tập trung ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, trong khoảng 40 0 Bắc đến 40 0 Nam [21]. Diện tích, năng suất, sản lượng lạc giữa các khu vực có sự biến động đáng kể. Châu Phi diện tích trồng lạc khoảng 6.400.000 ha nhưng năng suất chỉ đạt 7,8 tạ/ha. Châu Á có diện tích trồng lạc lớn nhất thế giới (chiếm 60% diện tích trồng và 70% sản lượng lạc trên thế giới – năm 2005). Năng suất lạc trên thế giới tăng nhanh, từ 14,5 tạ/ha (năm 1990) lên 18,28 tạ/ha (năm 2009). Năng suất lạc trong khu vực Đông Nam Á nhìn 12 chung còn thấp, năng suất bình quân đạt 11,7 tạ/ha. Malayxia là nước có diện tích trồng lạc thấp nhưng lại là nước có năng suất lạc cao nhất trong khu vực, năng suất trung bình đạt 23,3 tạ/ha, tiếp theo là Indonesia và Thái Lan. Bảng 1.2. Tình hình sản xuất của thế giới trong những năm gần đây Năm Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 23,26 23,08 22,97 23,10 23,95 23,96 22,47 21,62 24,05 23,74 14,93 15,55 14,42 15,62 15,22 15,72 16,46 15,36 15,98 15,35 34,72 35,88 33,13 36,08 36,46 37,65 36,98 33,19 38,44 36,44 Sơ bộ năm 2010 24,07 15,64 37,64 Nguồn: FAOSTAT, tháng 4 năm 2012 Hiện nay, sản lượng lạc hàng năm chủ yếu tập trung ở một số nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ,… Trong số này, Ấn Độ là nước có diện tích sản lượng lớn nhất thế giới, nhưng do lạc được trồng chủ yếu ở những vùng khô hạn và bán khô hạn nên năng suất rất thấp và thấp hơn năng suất trung bình của thế giới. Năm 2009, Ấn Độ đứng thứ 2 trên thế giới về sản lượng lạc, chiếm 15,12% tổng sản lượng toàn thế giới. Trung Quốc là nước đứng thứ 2 về diện tích trồng lạc song lại là nước dẫn đầu về sản lượng lạc của thế giới (USDA 2000 – 2006). Theo thống kê của FAO, năm 2009 diện tích trồng lạc của nước này là 4,40 triệu ha, chiếm hơn 18% tổng diện tích lạc toàn thế giới, năng suất đạt 33,57 tạ/ha, bằng 2,19 lần năng suất lạc của thế giới sản lượng đạt 14,76 triệu tấn chiếm hơn 40% sản lượng lạc toàn thế giới. 13 Các nước xuất khẩu lạc nhiều trên thế giới là: Mỹ, Argentina, Sudan, Sêngan và Brazil,… chiếm 71% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới. Trong những năm gần đây, Mỹ là nước xuất khẩu lạc hàng đầu. Argentina là nước đứng thứ 2 về xuất khẩu lạc, trung bình hàng năm xuất khẩu 36,2 nghìn tấn, chiếm 12,3% lượng lạc xuất khẩu thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ là những nước đứng đầu về sản xuất lạc, nhưng xuất khẩu lạc của cả hai nước này chỉ chiếm 4% trên thế giới. Do hầu hết các sản phẩm lạc được tiêu thụ trong nước là chính. Về mặt kinh tế, cây lạc đã góp một phần sản lượng không nhỏ vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân. Sử dụng hợp lý hơn những điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, góp phần thúc đẩy nên nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững. 1.6.2. Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam Ở Việt Nam, cây lạc được trồng và sử dụng từ rất lâu đời. Lạc là cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế có giá trị đa dạng và phong phú, vì vậy cây lạc đang được trồng nhiều trên tất cả các vùng sinh thái của nước ta. Diện tích trồng lạc chiếm khoảng 40% diện tích cây công nghiệp ngắn ngày, ở Việt Nam cây lạc được trồng ở 59/64 tỉnh thành. Trong cơ cấu cây công nghiệp hàng năm (đay, cói, mía, lạc, đậu tương, thuốc lá) thì diện tích lạc chiếm 32,93% tổng diện tích (năm 2008) và 41,81% (năm 2009). Những năm gần đây, do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản xuất theo hướng sản phẩm hàng hóa, sản xuất lạc ở Việt Nam có hướng tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Việt Nam [56]. Trong 10 năm trở lại đây (2000- 2010), sản xuất lạc của nước ta cũng có nhiều biến động. Từ năm 2001 – 2005 có sự biến động lớn nhất cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 2005 diện tích lạc đạt 269,6 nghìn ha, năng suất đạt 18,1 tạ/ha và sản lượng 489,3 nghìn tấn. Cũng vào thời điểm này, Việt Nam đứng thứ 12 về diện tích và đứng thứ 9 về sản lượng lạc trên thế giới. Những năm sau đó, 14 diện tích lạc có xu hướng giảm dần, nhưng năng suất và sản lượng lạc lại có những chuyển biến tích cực. Có được điều này là do việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu chọn tạo giống cũng như áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất (Bảng 1.3) Bảng 1.3. Sản xuất lạc ở Việt Nam trong những năm gần đây Năm 2000 Diện tích (1000 ha) 244,9 Năng suất (tạ/ha) 14,51 Sản lượng (1000 tấn) 355,3 2001 2002 2003 244,6 246,7 243,8 14,84 16,23 16,66 363,1 400,4 406,2 2004 263,7 17,79 469,0 2005 269,6 18,1 489,3 2006 246,7 18,7 462,5 2007 254,5 20,0 510,0 2008 255,3 20,8 530,2 2009 249,2 21,2 525,1 Sợ bộ năm 2010 231,3 21,0 485,8 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam, tháng 4 năm 2012 Năm 2010, năng suất trung bình cả nước đạt 21,0 tạ/ha sản lượng đạt 485,8 nghìn tấn với diện tích trồng là 231,3 nghìn ha. Về phân bố, lạc được trồng ở hầu hết các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam, có 6 vùng sản xuất chính. Tuy nhiên, diện tích trồng lạc ở các địa phương trong nước cũng có sự khác nhau: Kết qủa được thể hiện ở bảng 1.4. Vùng Đồng bằng sông Hồng: lạc được trồng chủ yếu ở Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh với tổng diện tích 31,3 nghìn ha, chiếm 12,56%, sản lượng 72,8 nghìn tấn, chiếm 13,86% sản lượng của cả nước. Vài năm trở lại đây, diện tích gieo trồng của vùng có xu hướng giảm 15 nhẹ. Năm 2007 diện tích đạt 34,7 nghìn ha, đến năm 2009 diện tích giảm xuống còn 31,3 nghìn ha. Ngược lại với diện tích, năng suất lạc năm sau lại cao hơn năm trước: năm 2009 năng suất đạt 24,0 tạ/ha. Tuy nhiên do diện tích giảm nên sản lượng của vùng giảm xuống còn 72,8 nghìn tấn năm 2009, giảm 5,2 nghìn tấn so với năm 2007 và 9,6 nghìn tấn so với năm 2008. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung: đây là vùng trọng điểm về sản xuất lạc bởi vùng có diện tích và sản lượng lớn nhất cả nước. Lạc được tập trung ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Nam với tổng diện tích 108,2 nghìn ha chiếm 43,42% và sản lượng 210,4 nghìn tấn, chiếm 40,07% sản lượng cả nước, trong đó Nghệ An có diện tích cao nhất (23,8 nghìn ha). Vùng Tây Nguyên: lạc được trồng chủ yếu ở Đắk Lắk, Đắk Nông với tổng diện tích toàn vùng là 17,7 nghìn ha, chiếm 7,10%, là vùng có sản lượng lạc thấp nhất cả nước (30,4 nghìn tấn, đạt 5,79%). Vùng Đông Nam Bộ: lạc được trồng chủ yếu ở Tây Ninh, Bình Dương với tổng diện tích 29,1 nghìn ha, chiếm 11,68%, sản lượng 83,8 nghìn ha, chiếm 15,96%. Đây là vùng có diện tích đứng thứ 4 và sản lượng đứng thứ 3 trong cả nước. Vùng trung du và miền núi phía Bắc: lạc được trồng chủ yếu ở Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang với tổng diện tích 50,4 nghìn ha, chiếm 20,22% và sản lượng 86,3 nghìn tấn, chiếm 16,43% sản lượng của cả nước. Đây là vùng có diện tích cũng như sản lượng đứng thứ 2 của cả nước. Bảng 1.4. Sản lượng lạc phân theo địa phương (1000 tấn) Năm Vùng 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Hà Giang 3,4 3,8 5,0 5,0 6,8 9,0 9,6 Cao Bằng 0,6 0,7 0,8 1,8 1,9 1,7 1,9 Bắc Cạn 6,3 0,5 0,5 0,6 0,8 0,9 0,8 16 Tuyên Quang 5,9 7,5 7,6 10,3 11,0 12,3 12,7 Lào Cai 1,0 0,9 1,0 1,1 1,3 1,3 1,5 Yên Bái 1,6 2,1 2,0 2,4 2,8 3,0 2,8 Thái Nguyên 5,0 5,2 4,6 5,6 7,3 7,1 6,8 Lạng Sơn 2,4 2,6 2,3 3,2 3,6 3,7 3,8 Bắc Giang 16,9 20,6 16,6 19,1 25,8 23,1 25,5 Phú Thọ 9,6 9,4 8,4 9,5 10,8 10,5 9,8 Điện Biên 1,2 1,3 1,5 1,6 1,7 2,0 1,9 Lai Châu 0,6 0,9 1,0 0,9 1,0 1,3 1,4 Sơn La 1,4 1,2 1,2 1,2 1,3 1,4 1,6 Hòa Bình 6,4 7,3 7,6 7,9 9,2 9,5 8,4 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam năm 2010 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: lạc được trồng chủ yếu ở Long An, Trà Vinh với tổng diện tích 12,5 nghìn ha, chiếm 5,02%, sản lượng 41,4 nghìn tấn, chiếm 7,88% sản lượng cả nước. Đây là vùng có diện tích trồng lạc thấp nhất cả nước nhưng lại là vùng có năng suất cao nhất cả nước 33,12 tạ/ha (năm 2009) 1.7. Phân bón lá và vai trò của phân bón lá 1.7.1. Khái quát Bón phân lá là biện pháp phun một hay nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng lên các phần ở phía trên mặt đất của cây (lá, cuống, hoa, trái). Do được lá cây hấp thu nhanh nên phân bón lá đáp ứng nhanh và kịp thời nhu cầu dinh dưỡng của cây, giúp cây chóng hồi phục khi bị sâu bệnh, bão lụt hoặc đất thiếu dinh dưỡng [6], [46], [47]. Dùng phân bón lá có nhiều ưu điểm: - Chất dinh dưỡng được cung cấp cho cây nhanh hơn bón gốc. - Hiệu suất sử dụng dinh dưỡng cao hơn. 17 - Chi phí thấp hơn. - Ít ảnh hưởng đến môi trường và đất trồng. Dùng phân bón lá, lượng bón chỉ tốn bằng 1/4 so với phân bón qua đất [47]. Theo số liệu đã được công bố, hiệu suất sử dụng chất dinh dưỡng qua lá đạt tới 95%. Ở Philippin dùng phân bón lá cho tăng năng suất lúa 1,5 lần so với dùng phân bón gốc qua rễ và gấp 3,3 lần khi không bón phân. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất các nhà khoa học trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng phân bón đa lượng và vi lượng hợp lý nhằm nâng cao năng suất, phẩm chất cây trồng [1], [2], [3], [4], [12], [13], [14], [15], [17], [18], [20], [24], [25], [26], [27], [30], [34]. * Phân bón lá đa lượng: Gồm các chất thực vật cần một lượng lớn để phát triển, nhóm này có 3 nguyên tố chính: Đạm (N), Lân (P) và Kali (K) [22], [49]. Đạm (N): - Giúp cây đâm chồi nảy lộc, phát triển thân lá, tăng chiều cao cây trồng. - Cải thiện chất lượng rau ăn lá, hàm lượng protein trong hạt ngũ cốc. - Khi thiếu đạm: cây sinh trưởng còi cọc, xuất hiện màu vàng nhạt trên các lá già, bắt đầu từ chóp lá; tiếp đó là các lá già bị chết hoặc bị rụng tùy theo mức độ thiếu. Khi thiếu trầm trọng thì cây trồng giảm số hoa, năng suất kém [49]. Lân (P): - Cần thiết cho sự phân chia tế bào, kích thích sự phát triển rễ, mô phân sinh, phát triển hạt và quả, kích thích ra hoa. - Thiếu Lân làm cho hệ thống rễ không phát triển, chín chậm, không hạt hoặc hạt phát triển kém. [49]. 18 Kali (K): - Kali có vai trò chủ yếu trong việc chuyển hóa năng lượng, giúp vận chuyển các chất bột đường. - Làm tăng khả năng chống chịu của cây đối với các tác động không có lợi từ bên ngoài và chống chịu đối với một số loại bệnh. - Tạo cho cây cứng chắc, ít đổ ngã, tăng khả năng chịu úng, chịu hạn, chịu rét. - Làm tăng phẩm chất nông sản và góp phần làm tăng năng suất của cây. - Thiếu Kali cây trồng phát triển chậm, thân yếu dễ bị đổ ngã, hạt và quả bị teo, chất lượng giảm, ... [49]. * Phân bón lá vi lượng [20], [30], [42]. Các nguyên tố vi lượng tuy chứa trong cơ thể một lượng vô cùng nhỏ bé (từ 10-5-10-3 % trọng lượng chất khô của cơ thể thực vật) nhưng lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các nguyên tố vi lượng gồm: Đồng (Cu), man gan (Mn), Bor (b), Molyden (Mo)…là những nguyên tố không thể thiếu trong cơ thể sống. Các nguyên tố vi lượng có quan hệ với enzim, các quá trình sinh lý, sinh hóa trong cơ thể sống. Các nguyên tố vi lượng tham gia vào quá trình oxi hóa - khử, quang hợp trao đổi nitơ và cacbonhydrat của thực vật, tham gia vào các trung tâm hoạt tính của enzim và vitamin, tăng tính chống chịu của cơ thể thực vật đối với các điều kiện bất lợi của môi trường. Thiếu hụt nguyên tố vi lượng có thể gây nhiều bệnh tật và bị chết ở tuổi cây non. * Chất điều hòa sinh trưởng [23], [33], [50]. Chất điều hòa sinh trưởng thực vật (còn gọi là các hocmon thực vật) là những chất được sinh ra trong cây để điều khiển các quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Trong suốt đời sống, cây phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển như nảy mầm, lớn lên, ra hoa, kết quả. Các chất điều hòa sinh trưởng giúp cây tiến hành các giai đoạn này một cách cân đối hài hòa theo đặc tính
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất