Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh doanh - Tiếp thị Kỹ năng bán hàng ảnh hưởng của dân tộc và tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới...

Tài liệu ảnh hưởng của dân tộc và tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới

.PDF
97
118
145

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục là sự nghiệp quan trọng của đất nước và được coi là nền tảng của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Điều 2 Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi năm 2009) đã ghi: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đất nước chúng ta đang bước vào hội nhập, việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo. Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo” của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khẳng định: Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quyết định chất lượng giáo dục, trong đó đội ngũ các thầy cô giáo ở các nhà trường nói chung và trong trường tiểu học nói riêng quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Trong những năm qua, đứng trước yêu cầu phát triển đất nước, yêu cầu đổi mới giáo dục và yêu cầu hội nhập, ngành giáo dục và đào tạo đã có những bước phát triển, song về quy mô và chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo còn bộc lộ những hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội. Về đội ngũ giáo viên thì: “còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; thiếu động lực tự học và đổi mới; chưa bắt kịp yêu cầu của đổi mới giáo dục” [4, tr. 45]. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiệm vụ quan trọng cho ngành GD&ĐT là khắc phục những yếu kém trên. Như vậy toàn Đảng, toàn dân phải quan tâm đến ngành giáo dục. Trước tiên phải chăm lo đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, lực lượng quyết định chất lượng GD&ĐT. Trường học là một tổ chức sư phạm được hình thành để thực hiện mục đích nhất định.Trường học là tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục, nơi tập hợp 1 những người thực hiện nhiệm vụ chung là dạy học và giáo dục những nhân cách theo mục tiêu đề ra. Trong nhà trường, thầy cô giáo sẽ là lực lượng trực tiếp thực hiện chương trình giáo dục của cấp học. Lao động sư phạm là lao động sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu và toàn diện, luôn bổ sung cái mới nhằm hoàn thiện nghệ thuật sư phạm giúp học sinh hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách. Chất lượng giáo dục của nhà trường phần lớn do đội ngũ giáo viên quyết định. Tính đa dạng, phức tạp của hoạt động giảng dạy - giáo dục đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo quản lý trong mỗi nhà trường phải thường xuyên chú ý đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức lối sống của giáo viên. Công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có tầm quan trọng đặc biệt, nó là mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống công tác quản lý. Nếu công tác này được cải tiến và đẩy mạnh thì nhất định chất lượng dạy học và giáo dục của nhà trường sẽ được nâng cao. Trong những năm qua, Trường Tiểu học Chu Văn An đã chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho giáo viên, nhưng nhìn chung chất lượng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển GD&ĐT ngày càng cao theo xu thế hiện đại. Một bộ phận giáo viên còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, chưa có trách nhiệm cao, chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa chú trọng đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục tiểu học hiện nay. Vì vậy, việc phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng ở Trường Tiểu học Chu Văn An là việc làm rất cần thiết. Trăn trở với suy nghĩ đó, tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường 2 Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên Tiểu học 3.2 Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 4. Giả thuyết khoa học Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành công nhất định, song còn nhiều hạn chế. Nếu đề xuất và áp dụng những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn trong đề tài này thì sẽ nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên Tiểu học Nam Hải đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học. 5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An . 5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian và không gian: Khảo sát thực trạng hoạt động quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên ở Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến nay. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận 3 - Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Hệ thống hóa, xác định cơ sở lý luận của đề tài. 7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra, khảo sát các hoạt động quản lý thực tiễn, thống kê, phân tích số liệu. - Tham vấn chuyên gia, nhà quản lý, đội ngũ giáo viên - Quan sát, tổng kết kinh nghiệm. 7.3 Các phương pháp bổ trợ: thống kê, phân tích số liệu, biểu đồ. 8 . Câu hỏi nghiên cứu - Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học được diễn ra như thế nào ? - Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học đáp ứng những yêu cầu nào? - Những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An trong thời gian qua có những tồn tại gì? 9. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm các phần: Mở đầu, 3 chương nội dung, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục. 3 chương nội dung bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên TH. Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1.Trên thế giới Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi hoạt động bồi dưỡng chuyên môn giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục. Việc tạo mọi điều kiện để mọi người có cơ hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để kịp thời bổ sung kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội là phương châm hành động của các cấp quản lý giáo dục. Ở Ấn độ vào năm 1988 đã quyết định thành lập hàng loạt các trung tâm học tập trong cả nước nhằm tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người. Việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các trung tâm này đã mang lại hiệu quả rất thiết thực. Hội nghị UNESCO tổ chức tại Nepal vào năm 1998 về tổ chức quản lý nhà trường đã khẳng định: “Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục”. Đại đa số các trường sư phạm ở Úc, New Zeland, Canada … đã thành lập các cơ sở chuyên bồi dưỡng giáo viên để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tại Pakistan, nhà nước đã xây dựng chương trình bồi dưỡng về sư phạm cho đội ngũ giáo viên và quy định trong thời gian 3 tháng cần bồi dưỡng những nội dung gồm: giáo dục nghiệp vụ dạy học; cơ sở tâm lý giáo viên; phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét HS…đối với đội ngũ giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm. Ở Philippin, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên không tiến hành tổ chức trong năm học mà tổ chức bồi dưỡng thành từng khóa học trong thời gian HS nghỉ hè. Hè thứ nhất bao gồm các nội dung môn học, nguyên tắc 5 dạy học, tâm lý học và đánh giá giáo dục; Hè thứ hai gồm các môn về quan hệ con người, triết học giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục; Hè thứ ba gồm nghiên cứu giáo dục, viết tài liệu trong giáo dục và hè thứ tư gồm kiến thức nâng cao, kỹ năng nhận xét, lập kế hoạch giảng dạy, viết tài liệu giảng dạy, viết sách giáo khoa, viết sách tham khảo. Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tùy theo thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo dục đề ra các phương thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi cơ sở giáo dục cử từ 3 đến 5 giáo viên được đào tạo lại một lần theo chuyên môn mới và tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp dạy học. Tại Thái Lan, từ năm 1998 việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội. Tại Triều Tiên một trong những nước có chính sách rất thiết thực về bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên. Tất cả giáo viên đều phải tham gia học tập đầy đủ các nội dung về chương trình nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo quy định. Nhà nước đã đưa ra “Chương trình bồi dưỡng giáo viên mới” để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên được thực hiện trong 10 năm và “Chương trình trao đổi” để đưa giáo viên đi tập huấn ở nước ngoài. Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục như: M.I.Kônđacốp, P.V. Khuđominxki…đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải có đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác quản lý bồi dưỡng, phát triển đội ngũ. 1.1.2. Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nguồn lực con người là nhân tố 6 quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có Chỉ thị số 40 CT/TW ngày 15/6/2004 về “Xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục”. Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra trong thư gửi các cán bộ, các thầy giáo, cô giáo, công nhân viên, HS, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới ngày 16 tháng 10 năm 1968 rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành các cấp Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta những bước phát triển mới”[38, tr. 76]. Kể từ sau cách mạng tháng Tám thành công và các cuộc cải cách giáo dục năm 1950, 1956, 1979 và trong những năm “Đổi mới” nhiều công trình nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về xây dựng và phát triển đội ngũ GV như: Nguyễn Thị Phương Hoa [27], Đặng Quốc Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa [5]; Bùi Văn Quân, Nguyễn Ngọc Cầu [43],…Các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng: a) Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực. b) Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. c) Nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các công trình kể trên hầu hết vẫn còn để lại khoảng trống nghiên cứu về quản lý đội ngũ giáo viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về chính sách tuyển dụng, sử dụng và về vai trò, vị trí mới của đội ngũ giáo viên trong tiến trình phát triển nhà trường Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. 7 Bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, là điều kiện quyết định để nhà trường có thể đứng vững, thắng lợi trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Vì vậy, công tác bồi dưỡng và phát triển nhân sự cần phải thực hiện một cách có tổ chức, có kế hoạch và luôn đổi mới cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Việc đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ chức bởi nhà trường, ngành giáo dục và các tổ chức khác… Các hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày, vài tháng, thậm trí tới vài năm, suốt trong quá trình công tác..., tùy thuộc vào mục tiêu học tập nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp theo hướng đi lên, nhằm nâng cao khả năng làm việc nghề nghiệp của họ. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên giúp nhà trường không chỉ giải quyết những vấn đề hiện tại mà còn chuẩn bị để đáp ứng những yêu cầu tương lai. Trong những năm qua, giáo dục đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nước ta đang bước vào thế kỷ XXI với một nền giáo dục tiểu học đã được phổ cập, đã và đang hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở, tiến tới phổ cập Trung học phổ thông. Nhà trường đang từng bước đổi mới để vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa chuẩn bị những điều kiện cho một nhà trường hoàn thiện hơn, vươn tới ngang tầm các nước trong khu vực và quốc tế trong một tương lai không xa. Những thành tựu mà giáo dục đạt được có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu là sự trưởng thành của ĐNGV. Đây là nhân tố nội sinh đã, đang và sẽ tạo nên những kết quả, chất lượng của nền giáo dục Việt Nam. Giáo dục nước ta đang bước vào giai đoạn hết sức quan trọng và mang tính quyết định - đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế. Vấn đề đặt ra là: để đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục và hội nhập cần có những nhà giáo như thế nào? Những phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư 8 phạm của giáo viên như thế nào để đảm bảo cho đổi mới giáo dục và hội nhập thành công? Với vai trò to lớn như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên hiện nay là công việc hết sức quan trọng. Công việc này không phải chỉ của riêng ngành giáo dục mà đang được sự quan tâm lớn của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội. Đối với nhà trường, đơn vị trực tiếp quản lý và sử dụng đội ngũ giáo viên, thì công tác bồi dưỡng phải được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt. Chúng ta đặc biệt chú trọng đến hoạt động bồi dưỡng của nhà trường vì vai trò, ý nghĩa lớn lao của công việc này: - Việc bồi dưỡng giáo viên mang tính chiến lược, đây là công việc phải làm thường xuyên, liên tục, lâu dài để xây dựng một đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu và có chất lượng cao, phục vụ cho chiến lược phát triển lâu dài của nhà trường, của ngành. Mặt khác, công tác bồi dưỡng còn mang tính cấp bách bởi nhà trường phải thực hiện ngay những yêu cầu của năm học, những chỉ đạo của ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học,… - Công tác bồi dưỡng sẽ đẩy mạnh sự phát triển về chuyên môn, nghiệp vụ của tất cả mọi giáo viên, nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học trong nhà trường. Sau nhiều năm đổi mới, các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi. Đặc biệt từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thì một số dự án, công trình nghiên cứu khoa học lớn liên quan đến đội ngũ GV ở tất cả các cấp học, bậc học đã được thực hiện. Căn cứ Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” và thực hiện Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 9 2020”, Thành phố Hồ Chí Minhđã cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, triển khai thực hiện trong toàn ngành giáo dục. Công tác đào tạo, bồi dưỡng GV, CBQL giáo dục đã được ngành GD&ĐT Thành phố Hồ Chí Minhtập trung đầu tư. Nhiều CBQL giáo dục, GV đã được cử đi đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở trong và ngoài nước. Tổ chức BDTX theo chu kỳ cho GV theo hình thức bồi dưỡng tập trung hoặc tại chỗ. Cử GV tập huấn theo chuyên đề của từng bộ môn theo dự án TH. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và kiểm định chất lượng các nhà trường. Thành phố tập trung chỉ đạo các chương trình mục tiêu, xây dựng đề án đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ, đào tạo Tin học và Ngoại ngữ cho CBQL giáo dục, GV, nhân viên tạo nền tảng cho giáo dục hội nhập. 1.2. Một số khái niệm 1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục 1.2.1.1.Quản lý Quản lý: Trong từ điển tiếng Việt “quản lý” là tổ chức điều khiển hoạt động của một đơn vị, một cơ quan [47, tr.1363]. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa cho đến nay, có 3 yếu tố cơ bản là: nền tảng tri thức, sức lao động và quản lý. Trong đó, quản lý là sự kết hợp giữa tri thức với sức lao động. Khái niệm quản lý đã xuất hiện từ lâu và ngày càng hoàn thiện cùng với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “quản lý”. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu. Henri Fayol (1841-1925), người Pháp, người đặt nền móng cho lý luận tổ chức cổ điển, cho rằng: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Đây là khái niệm mang tính khái quát về chức năng quản lý [25, tr. 87]. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ 10 chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [41, tr.10]. Xét với tư cách là một hành động, theo các tác giả Bùi Minh Hiền [26], Vũ Ngọc Hải [24], Đặng Quốc Bảo [4]: Quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Có rất nhiều tác giả với những định nghĩa khác nhau về quản lý tùy theo cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau như: góc độ tổ chức, quản lý, hành động… Như vậy theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người, có thể hiểu quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra. Cần phải hiểu khái niệm quản lý đầy đủ, bao hàm những khía cạnh sau: - Đối tượng tác động của quản lý là một hệ thống hoàn chỉnh. Hệ thống đó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố, theo một quy luật nhất định; phù hợp với điều kiện khách quan. - Quản lý bao giờ cũng là hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác định. - Hệ thống quản lý gồm có 2 phân hệ. Đó là sự liên kết giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Tuy nhiên, quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại. - Tác động của quản lý thường mang tính chất tổng hợp, hệ thống tác động quản lý gồm nhiều giải pháp khác nhau nhằm đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu, và nếu xét về mặt công nghệ là sự vận động thông tin. - Cơ sở của quản lý là các quy luật khách quan và điều kiện thực tiễn của môi trường. - Mục tiêu cuối cùng của quản lý là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi ích của con người, bởi thực chất của quản lý là quản lý con người và vì lợi ích của con người. 1.2.1.2. Quản lý giáo dục QLGD là một loại hình quản lý xã hội, tức là quản lý hoạt động giáo 11 dục trong xã hội. Đã có một số định nghĩa tiêu biểu về QLGD như sau: - Khuđôminxki P.V. cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ” [34, tr.50]; còn M.I.Kônđakôp khẳng định: “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [35, tr.17]. - Theo Đặng Quốc Bảo “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân” [4, tr.31]; còn theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [41, tr.7]. Như vậy, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục được quản lý, vận hành theo đúng đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các mục tiêu giáo dục đề ra. 1.2.2. Quản lý trường học Trường học là tế bào cơ sở, chủ chốt của bất kỳ hệ thống giáo dục ở cấp nào (từ trung ương đến địa phương). Trường học là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục. Nó là tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác đào tạo, thực hiện việc giáo dục con người. Trường học là thành tố 12 khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý nói trên, lại vừa là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Các cấp quản lý giáo dục tồn tại không phải vì bản thân chúng, mà trước hết là phải vì chất lượng và hiệu quả hoạt động của trường học. Thành tích thực chất của trường học làm nên chất lượng giáo dục. Như vậy, chất lượng của giáo dục chủ yếu do chất lượng của trường học tạo nên. Chúng tôi thống nhất khái niệm quản lý trường học của Phạm Minh Hạc như sau: “Quản lý trường học là tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý (tập thể giáo viên. học sinh và các bộ phận khác), đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt KT-XH , tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ trẻ và thực hiện tốt sứ mạng của nhà trường”[22, tr.35 ]. Ở cấp độ vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể xem đồng nghĩa với quản lý nhà trường: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu trưởng đến các hoạt động giáo dục, đến con người (Cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin v.v…), đến các ảnh hưởng ngoài nhà trường một cách hợp quy luật (quy luật quản lý, quy luật kinh tế, quy luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật xã hội v.v…) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [24, tr.102]. Trong các nhà trường nói chung, nhà trường TH nói riêng, các hoạt động chủ yếu là: hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của HS, các hoạt động phục vụ hoạt động dạy - học như: tổ chức nhân sự, huy động, sử dụng các nguồn lực và xây dựng các mối quan hệ. Do đó, quản lý nhà trường nói chung và quản lý trường TH nói riêng là quản lý một quá trình gồm các bộ phận chủ yếu là: Dạy - Học, tổ chức các nguồn lực và các mối quan hệ; trong đó lấy quá trình dạy - học là trọng tâm. Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, 13 mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và với từng học sinh. Trọng tâm của việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục. Mục tiêu quản lý nhà trường thường được cụ thể hóa trong kế hoạch năm học, những mục tiêu này là các nhiệm vụ chức năng mà tập thể nhà trường thực hiện suốt năm học. Trên cơ sở hoạch định mục tiêu một cách cụ thể, quản lý nhà trường phải cụ thể hóa cho từng mục tiêu. Những nội dung này là sức sống cho mục tiêu, là điều kiện để mục tiêu trở thành hiện thực. Tóm lại, quản lý trường học được thực hiện trong phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, thực hiện nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hiện nay các nhà quản lý trường học quan tâm nhiều đến các thành tố mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý và kết quả; đó là các thành tố trung tâm của quá trình sư phạm, nếu quản lý và tác động hợp quy luật sẽ đảm bảo cho một chất lượng tốt trong nhà trường. Một trong các nội dung quản lý trường học là quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. 1.2.3. Bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuyên môn 1.2.3.1. Chuyên môn Theo từ điển Tiếng Việt [47, tr. 44]: Chuyên môn là lĩnh vực riêng, những kiến thức riêng nói chung của một ngành khoa học, kỹ thuật. Một số đặc điểm chuyên môn của giáo viên tiểu học Cấp tiểu học tiếp nối giáo dục mầm non và mở đầu cho quá trình giáo dục trong nhà trường phổ thông gồm: hình thức tổ chức, nội dung, phương pháp. Có thể nói, ở đây diễn ra sự kế thừa và phát triển kết quả giáo dục mẫu giáo, đảm bảo dạy học được liên thông từ mẫu giáo lên tiểu học. Ở bậc học này, học sinh phải học cách học. Nhờ biết cách học mà trẻ có thể lĩnh hội được những khái niệm khoa học, kĩ năng, kĩ xảo được chọn lọc từ nền văn 14 minh nhân loại. Ở lớp 1- 2- 3 học sinh được hình thành cách học với những thao tác trí óc cơ bản. Học sinh lớp 4 – 5 các em đã có thể định hình được cách học. Giáo viên tiểu học phải dạy các môn học bắt buộc của cấp học: Khối lớp 1 - 2 - 3 gồm toán, tiếng việt, đạo đức, tự nhiên xã hội, thủ công; khối lớp 4 – 5 gồm toán, tiếng việt, khoa học, lịch sử, địa lý, kĩ thuật, đạo đức. Chứng tỏ nhiệm vụ của giáo viên tiểu học có nhiệm vụ dạy học toàn diện các môn bắt buộc cho một lớp học được phân công giảng dạy. Đảm đương khối lượng công việc như vậy sẽ giúp người giáo viên hiểu rõ hơn đối tượng lao động của mình những hứng thú học tập, tư duy, nhận thức của trẻ. Để từ đó giáo viên sẽ định lượng được đơn vị kiến thức, biện pháp để giúp các em lĩnh hội tri thức nhanh nhất. Nhưng vì khối lượng công việc nhiều như vậy, đòi hỏi phải mất thời gian nghiên cứu nội dung môn học trong khi năng lực của mỗi người lại có hạn chứ không thể “giỏi” đều các lĩnh vực nên cũng hạn chế chất lượng dạy học. Để khắc phục những khó khăn trên một số trường giữa cố định tổ chuyên môn để giáo viên tích lũy kiến thức, kinh nghiệm dạy học cho một khối lớp đó. Nhưng làm như vậy, thì giáo viên lại không nắm được kiến thức liên thông toàn cấp học. Với đặc trưng trên thì giáo viên tiểu học “người thầy tổng thể” nắm vững lượng kiến thức các môn học, phương pháp, hình thức tổ chức tương ứng, đặc trưng môn học. Dạy học tiểu học theo phương châm “thầy tổ chức, trò hoạt động” sao cho phát huy tính độc lập, tự giác và tích cực học tập. Công cụ lao động của người giáo viên là trí tuệ và phẩm chất của chính mình. Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi người thầy có uy tín cao phẩm chất và năng lực, đức và tài của thầy càng cao thì sức thuyết phục của học sinh càng lớn-. Giáo viên tiểu học là “thần tượng” của học sinh đang dạy. Vì vậy, các em luôn nghe theo thầy. Trong tâm trí các em người thầy là “đúng nhất” nên lao động của giáo viên tiểu học phải có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo. 15 1.2.3.2. Bồi dưỡng + Bồi: Nghĩa chữ Hán là vun bón; nghĩa bóng là dưỡng dục nhân tài. + Dưỡng: Nuôi lớn. Theo quan niệm của UNESCO: “Bồi dưỡng có ý nghĩa là nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn - nghiệp vụ cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp”. Theo Từ điển Tiếng Việt [47, tr.126]: Bồi dưỡng theo nghĩa rộng : Quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Thí dụ : bồi dưỡng cán bộ, bồi dưỡng chí khí chiến đấu, bồi dưỡng các đức tính cần kiệm, liêm chính, v.v… Nghĩa hẹp : Trang bị thêm các kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể. Thí dụ : bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng lý luận, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, v.v… Như vậy, mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao năng lực phẩm chất và năng lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở rộng và nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn - nghiệp vụ đã có, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc đang làm. Trong hoạt động bồi dưỡng thì yếu tố quyết định đến chất lượng các hoạt động vẫn là vai trò chủ thể của người được bồi dưỡng thông qua con đường tự học, tự đào tạo, tự bồi dưỡng nhằm phát huy nội lực cá nhân. 1.2.3.3. Bồi dưỡng chuyên môn Là bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; kỹ năng tay nghề; kiến thức, kỹ năng thực tiễn. Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có thể coi là việc đào tạo lại, đổi mới, cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nâng cao trình độ cho giáo viên, là sự nối tiếp tinh thần đào tạo liên tục trước và trong khi làm việc của người giáo viên. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn đối với mọi giáo viên là thường xuyên, liên tục. Hoạt động bồi dưỡng nhằm tạo điều kiện cho người 16 giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có cơ hội củng cố và mở rộng một cách có hệ thống những tri thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm hoặc quản lý giáo dục sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả hơn; mặt khác cũng qua bồi dưỡng người học biết chọn lọc, tiếp thu phát huy các mặt mạnh, khắc phục bổ sung những mặt còn hạn chế, bồi dưỡng kịp thời, động viên họ làm việc tự giác với tinh thần trách nhiệm đạt hiệu suất cao. 1.2.4. Biện pháp, biện pháp quản lý * Biện pháp: Theo từ điển Tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [47, tr. 89]. * Hoạt động: Theo Từ điển Tiếng Việt: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội” [47, tr. 65]. * Biện pháp quản lý: Là cách làm, cách giải quyết của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (thông qua các chức năng quản lý) một cách hợp quy luật nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường. * Biện pháp quản lý giáo dục: Cách làm, cách giải quyết những vấn đề giáo dục của người quản lý giáo dục tác động đến khách thể quản lý giáo dục (thông qua các chức năng quản lý) nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra. * Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn là: Cách làm, cách giải quyết của người quản lý (thông qua các chức năng quản lý : lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) về các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho khách thể quản lý (đội ngũ) nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra (về nâng cao năng lực chuyên môn). 1.3. Giáo dục tiểu học 1.3.1. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nội dung, phương pháp của giáo dục TH 1.3.1.1.Vị trí Giáo dục TH là một cấp tương đối độc lập, là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, cùng với Trung học cơ sở và Trung học phổ thông 17 hình thành một nền giáo dục thống nhất, chất lượng, hiệu quả, hội nhập với nền giáo dục các nước trong khu vực và trên thế giới Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi (Khoản 1, Điều 26, Luật GD 2005 sửa đổi 2009). 1.3.1.2.Vai trò Giáo dục tiểu học có vai trò hết sức quan trọng cùng với Mầm non là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, và thể chất của học sinh nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. 1.3.1.3.Mục tiêu của giáo dục tiểu học “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Khoản 3; Điều 27- Luật giáo dục 2005 sửa đổi 2009). - Trên nền tảng những kiến thức và kỹ năng nói trên để hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu đáp ứng yêu cầu phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. 1.3.1.4. Nội dung giáo dục Tiểu học Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.... (Khoản 1; Điều 28 - Luật giáo dục 2005 sửa đổi 2009). 1.3.1.5. Phương pháp giáo dục Tiểu học Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại 18 niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. (Khoản 2; Điều 28 - Luật giáo dục 2005 sửa đổi 2009). 1.3.2. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ và yêu cầu đối với giáo viên TH Vị trí: Giáo dục ngày nay đưa lên vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Trong giáo dục, giáo viên giữ vị trí quan trọng nhất. Không có thầy giáo, không có giáo dục. Giáo viên tiểu học có vị trí đặc biệt, cùng với giáo viên các cấp học đặt nền tảng cho sự phát triển giáo dục. Vai trò: Nền giáo dục của quốc gia nào cũng vậy, giáo viên giữ vai trò to lớn trong sự phát triển của giáo dục: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình nhận biết học- dạy và đặc trưng trong việc định hướng lại giáo dục. Người ta luôn nhận thấy rằng thành công của các cuộc cải cách giáo dục phụ thuộc dứt khoát vào “ ý chí muốn thay đổi” cũng như chất lượng giáo viên.” [29, tr. 58]. Điều 15 - Luật Giáo dục 2005 – sửa đổi năm 2009: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ, đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học”. Riêng đối với giáo viên tiểu học có vai trò quyết định đến chất lượng dạy và học. Tất cả mọi hành vi, cử chỉ, lời nói, việc làm... của họ đều ảnh huởng đến sự phát triển nhân cách học sinh. Nhiệm vụ: Được quy định trong Điều 34 chương IV Điều lệ Trường tiểu học: - Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản lí học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giảng 19 dạy và giáo dục. - Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp. - Học tập, rèn luyện để nâng cao sức khỏe, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy. - Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. - Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quyết định của Hiệu trưởng; nhận nhiệm vụ do Hiệu trưởng phân công, chịu sự kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lí giáo dục. - Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ chức hoạt động giáo dục. Nhiệm vụ của giáo viên tiểu học còn được quy định bổ sung trong Điều 19 Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT như sau: 1. Giáo viên chủ nhiệm: a) Chịu trách nhiệm chính trong việc đánh giá học sinh, chất lượng giáo dục học sinh trong lớp; hoàn thành hồ sơ đánh giá học sinh theo quy định; thực hiện nghiệm thu, bàn giao chất lượng giáo dục học sinh; b) Lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện hàng tháng; c) Cuối học kì I, cuối năm học hoặc khi được yêu cầu, có trách nhiệm thông báo đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh cho cha mẹ học sinh. Không thông báo trước lớp và trong cuộc họp cha mẹ học sinh những điểm chưa tốt của học sinh. Duy trì mối liên hệ với cha mẹ học sinh để phối hợp giáo dục học sinh. 2. Giáo viên không làm công tác chủ nhiệm: a) Chịu trách nhiệm đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh đối với môn học, hoạt động giáo dục theo quy định; b) Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên cùng lớp, cha mẹ học 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan