Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh doanh - Tiếp thị Kỹ năng bán hàng ảnh hưởng của dân tộc và tôn giáo đến bản đồ chính trị...

Tài liệu ảnh hưởng của dân tộc và tôn giáo đến bản đồ chính trị

.PDF
35
115
124

Mô tả:

ẢNH HƯỞNG CỦA DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO ĐẾN BẢN ĐỒ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI A. Mở đầu Sự hình thành bản đồ chính trị thế giới nói chung và biên giới của từng quốc gia nói riêng là quá trình rất phức tạp. tuy nhiên, có thể khái quát thành 4 nhóm yếu tố sau: - Dân tộc và tôn giáo. - Chiến tranh. - Các phát kiến địa lý. - Trình độ phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên quá trình hình thành và phát triển của dân tộc là nền tảng của sự hình thành quốc gia. Vì vậy nhân tố dân tộc, tôn giáo có ảnh hưởng đến bản đò chính trị rất quan trọng trong quá trình lâu dài nhưng bền vững. Đề tài chủ yếu đề cập đến yếu tố Dân Tộc và Tôn Giáo bởi hiện nay vấn đề dân tộc và tôn giáo là hai yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc, để lại nhiều hệ quả điển hình đến bản đồ chính trị thế giới. B. Nội dung Chương 1 cở sở lý luận 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Dân tộc Dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. 1.1.2. Tôn giáo Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lí giải những vấn đề trên trần thế cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kì lịch sử, hoàn cảnh địa lí văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh sự tồn tại của xã hội, ra đời cách đây hàng ngàn năm. Từ khi xuất hiện đến nay, quá trình biến động của lịch sử cho thấy tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội loài người. Do tôn giáo thuộc về kiến trúc thượng tầng nên nó chậm thay đổi hơn so với cơ sở hạ tầng xã hội. Trong quá trình vận động của xã hội có một số tôn giáo có thể hưng thịnh, có thể suy vong, thậm chí mất đi nhưng tôn giáo là một hình thái xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài, quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, tâm lí, đạo đức, lối sống...của nhiều dân tộc, quốc gia... 1.1.3. Bản đồ chính trị thế giới Là sự phân bố không gian của các cộng đòng dân cư, các hoạt động kinh tế xã hội theo lãnh thổ. Mỗi lãnh thổ có những đặc trưng riêng tạo thành một thể thống nhất. Chương 2 Ảnh hưởng của dân tộc tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề có những đặc trưng riêng về lý luận và thực tiễn. Đây là hai vấn đề mang tính toàn cầu gắn với sự phát triển của nhân loại và đặc điểm lịch sử của từng quốc gia. Và do vậy đây cũng là hai vấn đề khiến các thế lực thù địch luôn lợi dụng để gây mất ổn định chính trị,kìm hãm sự phát triển của đất nước và địa phương. Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, tôn giáo luôn hiện diện trong lòng xã hội. Ngược lại, dù có tiến bộ văn minh đến đâu, xã hội luôn có sự đồng hành của tôn giáo. Không có lịch sử của dân tộc nào lại không cưu mang lịch sử tôn giáo của họ; bởi lẽ, khác với mọi hệ thống chính trị xã hội, tôn giáo là một nhu cầu muôn thuở của con người. Nói theo ngôn ngữ của các triết gia, đặc tính của một nền văn minh là sự biểu lộ về tôn giáo của nó, và văn minh được quyết định bởi phẩm chất tôn giáo mà nó dựa vào. Nói khác đi, yếu tố tôn giáo có một vai trò vô cùng quan trọng đến sự phồn vinh hay thất bại của một xã hội. Trong một giai đoạn nào đó mà xã hội phồn vinh, nhân dân hạnh phúc có nghĩa là mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đã được phát triển một cách hài hòa, tốt đẹp. Ngược lại, trong một giai đoạn nào đó mà xã hội bộc lộ những mâu thuẫn giữa hai thành tố này, điều ấy có thể do hai lý do: Một là tôn giáo và dân tộc chưa vận dụng được sức mạnh của chính mình; hai là vì triết lý tôn giáo đó không còn đáp ứng được khát vọng sống và nhu cầu tâm linh của dân tộc ấy. 2.1. Quá trình biến đổi bản đồ chính trị thế giới Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy bản đồ chính trị thế giới tuy thay đổi theo thời gian nhưng đều phản ánh những đặc điểm cũng như những xu hướng chung của tình hình thế giới ở mỗi thời kì khác nhau. Hầu hết các quốc gia trong lịch sử hình thành của mình đều có sự thay đổi về biên giới, quy mô lãnh thổ và vai trò trên thế giới. Thậm chí có những quốc gia chỉ tồn tại trong thời gian nhất định . Lịch sử hình thành bản đồ chính trị thế giới cho đến nay có thể chia làm 5 thời kì. - Thời kì trước phát kiến địa lý - Thời kì sau phát kiến địa lí đến Chiến tranh thế giới lần 1 - Thời kì từ Chiến tranh thế giới lần 1 đến Chiến tranh thế giới lần 2 - Thời kì từ Chiến tranh thế giới lần 2 đến năm 1990 - Thời kì năm 1990 đến nay. 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến bản đồ chính trị thế giới - Dân tộc và tôn giáo - Trình độ phát triển kinh tế xã hội - Chiến tranh - Các phát kiến địa lí Nhưng ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu ảnh hưởng của dân tộc tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới. 2.3. Ảnh hưởng của dân tộc đến bản đồ chính trị thế giới 2.3.1. Quá trình hình thành dân tộc Dân tộc là một cộng đồng người xuất hiện, phát triển và tập hợp trong một phạm vi nhất định cùng hoàn cảnh tạo nên thị tộc là tổ chức cộng đồng nguyên thủy đầu tiên của xã hội loài người. Quá trình chung sức đấu tranh với thiên nhiên, chống kẻ thù và sản xuất đã kết nối nhiều con người hình thành nên cộng đồng và đây là cơ sở hình thành dân tộc, quốc gia sau này. Dân tộc đươc hình thành từ: thị tộc, một bộ lạc hoặc nhiều bộ lạc. Mỗi dân tộc đều có lãnh thổ ban đầu, tuy nhiên đây là một phạm trù đầy rẫy những biến động phức tạp. Ở mỗi khu vực có điều kiện tự nhiên, môi trường sinh sống khác nhau do đó có sự ứng xử khác nhau, phương thức sản xuất kiếm sống cũng khác nhau, tất yếu hình thành nên ngôn ngữ, phong tục, tập quán và văn hóa khác nhau. 2.3.2. Quá trình biến đổi lãnh thổ: - Quá trình mở rộng lãnh thổ Quá trình này thường gắn liền với các cuộc chuyển cư lớn. Dẫn đến sự thay đổi về văn hóa của bộ phận dân di cư so với bộ phận cơ sở và tạo thêm một số dân tộc mới. Trong lịch sử phát triển có những dân tộc có môi trường sống thuận lợi và tổ chức tốt đã phát triển vượt trội so với các dân tộc lân cận. Hoạt động của nó có ảnh hưởng lớn tạo ra sức hút và chi phối những dân tộc khác. Đặc biệt có vai trò chủ đạo trong quá trình hợp lực chống kẻ thù đến xâm lược và chống chọi với thiên nhiên đã gắn bó các dân tộc lại với nhau lập nên quốc gia thống nhất. Có nhiều dân tộc, trong quá trình phát triển đã mở mang lãnh thổ rộng gấp hàng trăm lần so với diện tích ban đầu có trước đó cho dù có sự khác biệt về mặt địa lý. Sự mở rộng lãnh thổ của các nước Nga, Trung Quốc, Ấn Độ… chủ yếu là nhờ quá trình phát triển của dân tộc. Trong và sau thời kì phát kiến địa lý cũng như quá trình xâm chiếm thuộc địa của các đế quốc, người Anh, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, và một số dân tộc ở Tây Âu đã di chuyển đến Châu Mỹ, Châu Phi, Ôxtraylia và Châu Đại dương. Các quốc gia hình thành nhờ những cuộc thiên di, có bản sắc văn hóa với nhiều nét riêng biệt mới được hình thành trong quá trình hoạt động sản xuất và xã hội ở lãnh thổ mới => Quá trình mở rộng lãnh thổ có trường hợp dẫn đến sự phân chia dân tộc, đặc biệt là trong điều kiện ngăn cách về mặt địa lí như các đại dương. - Quá trình thu hẹp lãnh thổ: Quá trình thu hẹp hoặc biến mất của lãnh thổ: ngược với quá trình mở rộng lãnh thổ thì trong quá trình phát triển có những dân tộc bị thu hẹp dần về diện tích thậm chí dẫn đến diệt vong. Nguyên nhân: + Các cuộc chiến tranh hủy diệt lẫn nhau giữa các bộ tộc. + Do dịch bệnh, nạn đói, thiên tai... + Các dân tộc tự nguyện sát nhập hòa bình với các dân tộc khác. + Vào các thế kỷ XVII – XIX và đầu thế kỷ XX, khi các đế quốc Âu Mỹ xâm chiếm và nô dịch các dân tộc thuộc địa, tiến hành chiến dịch đồng hóa diệt chủng dân bản xứ. + Quá trình phát triển gặp nhiều khó khăn nên đã bị tụt hậu Ở một số nước thuộc châu Mỹ, châu Phi và châu Đại dương được hình thành do quá trình thực dân hóa của các đế quốc. Cư dân đảo Tasman trước khi thực dân Anh đến xâm lược có khoảng 3000 – 4000 người, sau một thời gian bị người Anh đô hộ đến năm 1876 thì người phụ nữ Tasman cuối cùng là Truganini đã chết. Người Tasman đã hoàn toàn biến mất. Ở châu Mỹ trước khi Crixtoforo Colombo phát hiện ra châu Mỹ (1492) có khoảng 50 triệu người Indian sinh sống trên toàn bộ lãnh thổ châu Mỹ, ngày nay còn khoảng 38 triệu người sống trên toàn bộ vùng núi hẻo lánh của hệ thống núi Coocdie và Andes phần lớn trong số đó bị chết bởi các cuộc bành trướng mở rộng lãnh thổ của người da trắng. 2.3.3. Ảnh hưởng của dân tộc đến bản đồ chính trị thế giới. - Bản đồ chính trị thời kì cộng đồng nguyên thủy. Con người hiện đại chỉ xuất hiện trong một số khu vực nhất định. Quá trình phát triển và tập hợp của con người trong một phạm vi nhất định cùng hoàn cảnh tạo nên thị tộc. Các khu vực Ai Cập, Đông Trung Quốc, Trung Cận Đông là những nơi tập trung dân cư đầu tiên của thế giới . => Bản đồ chính trị phát triển chậm, mối liên hệ giữa các vùng có nhiều hạn chế: Ai Cập - Lưỡng Hà - Ấn Độ - Trung Quốc. - Bản đồ chính trị thời kì hình thành và phát triển các dân tộc. Đây là quá trình chung sức đấu tranh với thiên nhiên, chống kẻ thù và sản xuất đã kết nối nhiều con người hình thành nên cộng đồng và đây là cơ sở hình thành dân tộc. Sự mở rộng lãnh thổ nhờ quá trình phát triển của các dân tộc như các nước: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ. * Nhận xét: Quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia ảnh hưởng đến những biến động của bản đồ chính trị thế giới. Trước đây do lãnh thổ cư trú của các dân tộc biến động phức tạp nên bản đồ chính trị phức tạp theo. Ngày nay, tính ổn định của vị trí lãnh thổ cư trú ngày càng cao, tình trạng chung sống giao thoa giữa các dân tộc trở nên phổ biến nên bản đồ chính trị thế giới trở nên ổn định hơn. Thực tế hiện nay trên thế giới hầu hết các quốc gia đa dân tộc trong đó chỉ có một dân tộc chiếm đa số, có vai trò chủ đạo tạo ra lịch sử và định hướng cho sự phát triển của quốc gia đó. Cũng có một số quốc gia tồn tại hai dân tộc có vai trò và vị trí ngang nhau: người Anh và Pháp ở Canada, người Hà Lan và Pháp ở Hà Lan. Bản đồ phân bố các tôn giáo lớn trên thế giới 2.4. Ảnh hưởng của tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới 2.4.1. Quá trình phát triển của tôn giáo. - Khởi nguyên : Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học người ta đả chứng minh được sự tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm (từ 4 - 6 triệu năm). Tuy nhiên với những hiện vật thu được người ta khẳng định: có đến hàng triệu năm con người không hề biết đến tôn giáo. Bởi vì tôn giáo đòi hỏi tương ứng với nó là trình độ nhận thức cao nó là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong đời sống xã hội ổn định. Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng khi con người hiện đại, người khôn ngoan hình thành và tổ chức xã hội, tôn giáo mới xuất hiện, thời kì này cách đây khoảng 95000 năm đến 35000 năm trước Công nguyên. Tuy nhiên trong thời kì đầu mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định: tôn giáo ra đời khoảng 45000 năm vào thời kì đồ đá cũ với những hình thức sơ khai nhất như: đạo Vật Tổ, Ma Thuật, Tang Lễ... Đây là thời kì tương ứng với thời kì đồ đá cũ. - Thời kì đầu: Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, các hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…), đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại của đế chế và được chấp nhận như một tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các tôn giáo mang tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng thích nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào (chiến tranh hay hòa bình), các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống, biến đổi thành tôn giáo riêng của quốc gia đó. Sự bành trướng kiểu như vậy diễn ra trong suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới vừa chung sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và không ít trường hợp, với sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã xảy ra. Những tôn giáo như Kitô, Hồi do tính cực đoan của mình (chỉ coi chúa hay thánh của mình là đối tượng tôn thờ duy nhất) nên ban đầu đi đến đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã có mặt ở đó từ trước. Còn một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì khác, chúng chấp nhận hòa đồng với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều hơn là thế giới bên kia. - Thời kì cận hiện đại Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một xã hội công nghiệp, xã hội này đòi hỏi phải có một tôn giáo năng động và tự do hơn, khó chấp nhận một tổ chức, một giáo lý với những nghi thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc tôn của một tôn giáo trong một quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và chấp nhận sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây quan niệm và sau là chính sách tự do tôn giáo ra đời, phát triển nhanh hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Những yếu tố lỗi thời được huỷ bỏ hoặc tự thay đổi, thay thế để thích nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu. Mỗi người đều rằng trên thế gian có nhiều thánh thần, có nhiều tôn giáo. Họ bắt đầu hoài nghi và lựa chọn, thần thánh được mang ra tranh luận, bàn cãi và làm nảy sinh xu thế thế tục hóa tôn giáo và xu thế này ngày càng thắng thế. Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của khoa học và công nghệđã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo theo sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến khác nhau trong một tôn giáo và dẫn đến sự chia rẽ trong các tôn giáo một cách có tổ chức, bùng nổ các giáo phái và xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Bản thân trong các tôn giáo khu vực và thế giới cũng có những biểu hiện khác trước: số tín đồ ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực tế giảm, nghĩa là người ta theo đạo nhưng không hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để theo các “đạo mới”. Trong nội bộ các tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái với những tính chất cấp tiến, ôn hòa hoặc cực đoan. 2.4.2. Các hình thức tổ chức tôn giáo - Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp (Tôn giáo nguyên thủy): Ăng - ghen cho rằng tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm hết sức dốt nát, tối tăm, nguyên thủy của con người về bản thân mình và thiên nhiên bao quanh họ. Các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản năng của con người và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích về kinh tế - xã hội. Các hình thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy là các dạng sau: + Tô tem giáo (thờ vật tổ): Tô tem theo ngôn ngữ của thổ dân Bắc Mỹ nghĩa là giống loài. Đây là hình thức tôn giáo cổ xưa nhất, thể hiện niềm tin vào mối quan hệ gần gũi, huyết thống giữa một cộng đồng người (thị tộc, bộ lạc) với một loài động thực vật hoăïc một đối tượng nào đó. Tô tem giáo thể hiện hình thức nhận biết đầu tiên về mối liên hệ của con người với các hiện tượng xung quanh. Chẳng hạn: một bộ lạc tồn tại được nhờ săn bắt một loài động vật nào đó dẫn đến xuất hiện một ảo tưởng về mối quan hệ giữa loài vật đó với cộng đồng người săn nó và cuối cùng con vật này lại trở thành tổ tiên chung – là một tô tem của một tập thể nào đó. + Ma thuật giáo: Ma thuật theo tiếng Hi lạp cổ là phép phù thủy. Đây là biểu hiện của việc người nguyên thủy tin vào khả năng tác động đến tự nhiên bằng những hành động tượng trưng (cầu khấn, phù phép, thần chú…) nghĩa là bằng con đường siêu nhiên. Nhờ các biện pháp ma thuật, người nguyên thủy cố gắng tác động đến những sự kiện và làm cho nó diễn ra theo ý mình mong muốn. Về sau, ma thuật trở thành một thành tố quan trọng không thể thiếu được của các tôn giáo phát triển. Việc thờ cúng của bất kỳ tôn giáo nào cũng phải có ma thuật (cầu nguyện, làm phép…). Tàn dư của ma thuật là các hiện tượng bói toán, tướng số ngày nay. + Bái vật giáo: Bái vật theo tiếng Bồ Đào Nha là bùa hộ mệnh, phép lạ. Bái vật giáo xuất hiện vào lúc mới hình thành tôn giáo và sự thờ cúng. Bái vật giáo đặt lòng tin vào những thuộc tính siêu nhiên của các vật thể như hòn đá, gốc cây, bùa, tượng… Họ cho rằng có một lực lượng siêu nhiên, thần bí trú ngụ trong vật đó. Bái vật giáo là thành tố tất yếu của sự thờ cúng tôn giáo. Đó là sự thờ cúng các tượng gỗ, cây thánh giá… hoặc lòng tin vào sức mạnh kỳ quái của các lá bùa… + Vật linh giáo: Là hình thức tôn giáo xuất hiện muộn hơn, khi mà ý thức của con người đã đủ khả năng hình thành nên những khái niệm. Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn. Lòng tin này là cơ sở quan trọng để hình thành nên quan niệm về cái siêu nhiên của người cổ xưa. Giai đoạn này đã có ảo tưởng cho rằng có hai thế giới: một thế giới tồn tại thực sự và một thế giới siêu nhiên, trong đó thế giới siêu nhiên thống trị thế giới thực tại. Thế giới siêu nhiên này của người nguyên thủy cũng đầy đủ động vật, thực vật, các đối tượng do tinh thần tưởng tượng ra và không khác biệt gì lắm so với thế giới thực tại. - Tôn giáo trong xã hội có giai cấp: Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là một nhu cầu tinh thần của quần chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị áp bức giai cấp và bóc lột của mình và thực hiện sự bành trướng, xâm lược vì vậy tôn giáo gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa. Từ đó đã dẫn đến sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới. + Tôn giáo dân tộc: Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân tộc của nó. Các vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và phạm vi quyền lực giới hạn trong phạm vi quốc gia. Thậm chí một số tôn giáo lớn cũng bị dân tộc hóa ở mỗi quốc gia và trở thành tôn giáo có tính chất quốc gia. Ví dụ Anh giáo (Thanh giáo), các dòng khác nhau của đạo Hồi… + Tôn giáo thế giới: Sự phát triển của các tôn giáo vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia đã hình thành nên các tôn giáo khu vực và thế giới như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo… Khác với các tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới mang tính đa quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới. 2.4.3. Các tôn giáo chính trên thế giới Trên thế giới hiện nay có hàng ngàn tôn giáo trong đó có 3 tôn giáo chủ yếu ảnh hưởng trên phạm vi không gian rộng lớn đó là : Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Phật giáo). - Cơ đốc giáo : Bản đồ phân bố các quốc gia Cơ đốc giáo Có ba nhánh lớn là công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương và Tin Lành. Là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latinh, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới. Biểu tượng Cơ đốc giáo Nhà thờ St.Peter ở Vatican Cơ đốc giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo ở Trung Đông và do Chúa Jesus sáng lập. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín đồ Cơ đốc giáo . Các tín đồ phải noi gương Chúa trong tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn minh phương Tây. - Hồi giáo: Bản đồ phân bố các quốc gia Hồi giáo Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII, do nhà tiên tri Môhamet sáng lập. Hiện nay hồi giáo có khoảng hơn 900 triệu tín đồ, phân chia thành 2 giáo phái: giáo phái Sunnit và Sili. Môhamet sử dụng tôn giáo nhằm tạo ra một sức mạnh về quân sự to lớn. Biểu tượng Hồi giáo Nhà thờ Hồi giáo Tuy nhiên trong quá trình phát triển do sự mở rộng lãnh thổ và gia tăng các tín đồ chịu ảnh hưởng của Hồi giáo đã làm đã làm giảm tính thống nhất về chính trị của thế giới Hồi giáo. Truyền thống xung đột giữa Thiên Chúa giáo, Do thái giáo và Hồi giáo lúc tăng lúc giảm chớ không bao giờ biến mất theo thời gian. Muhammad sáng lập ra Hồi giáo dựa trên sự xâm lăng tàn bạo tiến chiếm cả vùng Trung Đông, tới bắc Phi Châu, sang tới A Phú Hãn, Parkistan và sang cả Á Châu như Nam Dương, Phi Luật Tân và Mã Lai Á. Sau Công nguyên do tác động của Hồi giáo nên bản đồ chính trị các khu vực Tây Á, Tây Âu, Nam Âu biến động mạnh. Thế kỉ V đế chế LA Mã sụp đổ làm xuất hiện hàng loạt quốc gia mới ở Tây Âu, Trung Âu. Bản đồ chính trị châu Âu đã thay đổi một cách đáng kể. Khu vực Tây Âu hình thành nên các quốc gia mới: Tây Gốt và Van Đăng, Buốcgônđơ, Đông Gốt, Lôngba, Phrăng. Năm 711, Tây Gốt bị người Ả Rập xâm lược và phân chia thành 2 quốc gia là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Với sự trợ giúp của Hồi giáo, dân Palestine chiếm đất Do Thái từ đó. Mãi đến năm 1948 lần đầu tiên được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc, người dân Do thái lần lượt về lại cố hương sau gần hai ngàn năm lưu vong xa xứ. Họ buột người Palestine phải trả đất lại cho họ khiến cho rất nhiều dân Palestine phải lưu vong sang những nước Ả Rập trong vùng Trung Đông như Jordan, Ai Cập… Có lẽ đây là khởi nguyên những cuộc tranh chấp tại Trung Đông giữa Do thái và khối à Rập mà Hoa kỳ là nước đở đầu cho Do Thái vì Do thái là thánh địa của Thiên Chúa giáo. Cuộc chiến khốc liệt năm 1968, lúc đó Kissinger là cố vấn an ninh quốc phòng cho Nixon, giữa Do thái và khối Ả Rập khiến Hoa kỳ đe dọa sẽ dùng bom nguyên tử bắt buộc Tổng thống Ai Cập lúc bấy giờ là Anwar Sadat phải rút quân. Về sau chính Sadat với sự trung gian của Tổng thống Jimmy Carter đã ký một thỏa ước hòa bình với Thủ tướng Do Thái là Menachem Begin để chấm dứt sự tranh chấp của hai nước. Chính sự hòa giải này đã khiến những người Hồi giáo quá khích ám sát Sadat năm 1981. Trong thế giới Hồi giáo, lí tưởng của một quốc gia thần học - chính trị vẫn tồn tại đến ngày nay. Hơn 20 năm nay trong khu vực thế giới Hồi giáo luôn luôn xảy ra các xung đột giữa các nhà nước Ảrập. Các quốc gia Hồi giáo đang cố gắng dựa vào nền tảng về tôn giáo để liên kết với nhau tạo thành một khối thống nhất rất cần sự nỗ lực cố gắng của cộng đồng Hồi giáo và cộng đồng quốc tế. - Phật giáo: Bản đồ phân bố các quốc gia theo Phật giáo Đạo Phật xuất hiện khoảng năm 560 trước công nguyên, người sáng lập là hoàng tử Ấn Độ Gaulama. Hoạt động của đạo phật ít gây ra những biến động về chính trị xã hội, do giáo lí của đạo Phật có nhiều quy định hạn chế các nhu cầu bản năng của con người, thực hiện theo chủ nghĩa khổ hạnh. Phật Thích Ca Mô Ni Biểu tượng của Phật giáo Đạo Phật ít can thiệp vào các hoạt động chính trị và sự phân hóa trong Phật giáo không bộc lộ gay gắt. So với các khu vực khác thì ở Đông Á và bán đảo Đông Dương ít có các cuộc xung đột dân tộc. Tư tưởng ôn hòa, từ bi hy xả của Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa xã hội chính trị của cộng đồng phật giáo nên bản đồ chính trị khu vực ít có sự biến động lớn. Chương 3 Nghiên cứu vấn đề dân tộc tôn giáo ở Trung Đông – Bắc Phi. Trường hợp Ai Cập – Lybia 3.1. Trung Đông – Bắc Phi 3.1.1. Giới thiệu chung Vùng Bắc Phi, Trung Đông, là nơi sinh ra và là trung tâm tôn giáo của đạo Hồi, đạo Do Thái, đạo Ki-tô. Vùng này, người theo đạo chiếm khoảng hơn 90% dân số, nơi đây từng trải qua các giai đoạn bạo lực và khoan dung. Trong thế kỷ 20, nó nằm ngay trong trung tâm các sự kiện quốc tế có vị trí địa chính trị chiến lược, kinh tế, văn hoá và tôn giáo đặc biệt quan trọng, nó là một vùng đất rất nhạy cảm trong các mối quan hệ tôn giáo, dân tộc. Với những đặc điểm trên, đạo Hồi ở Bắc Phi, Trung Đông phát triển nhanh khiến cho vùng này có nhiều biến đổi sâu sắc. Các nước Hồi giáo cũng như các xã hội Á châu nói chung không thể tự mình chuyển hướng sang xã hội duy lý hiện đại được, nên nhất thiết cần sự can thiệp từ bên ngoài để thúc đẩy các xã hội ấy thực hiện cải cách tùy theo sự chín mùi của tình hình. 3.1.2. Nguyên nhân của xung đột Theo nghiên cứu của các nhà khoa học chính trị, kinh tế-xã hội học và các nhà nghiên cứu chiến lược cho thấy, bạo loạn chính trị xẩy ra ở các nước phần đông số dân là người theo đạo Hồi: đây không phải là các quốc gia nghèo trên thế giới. Theo thống kê chưa đầy đủ của Hội đồng thống nhất kinh tế Arab: thu nhập bình quân đầu người của Libya là 8.903 USD, Tunisia: 3.423 USD, Ai Cập: 1.759 USD. Những phân phối nguồn lợi quốc gia tại Ai Cập và Tunisia rất bình đẳng. có tới 40% dân số Ai Cập sống với mức thu nhập dưới 2 USD/ngày. Tỷ lệ thất nghiệp tại 3 nước này là rất cao, trên dưới 30%.. Một đặc điểm nữa là những tín đồ theo đạo Hồi và tôn giáo đều sống tại các trung tâm đô thị lớn, là những nơi có trình độ dân trí cao. Bởi vậy, các nhà nghiên cứu chính trị-xã hội học đều khẳng định bạo động chính trị ở các nước này là tất yếu khách quan, trong đó có cả những nguyên nhân chủ quan. Trước hết, phải kể đến các nguyên nhân bên trong, nguyên nhân trực tiếp nội tâm của các nước Hồi giáo thuộc vùng Bắc Phi, Trung Đông:  Việc các nước này từ lâu lệ thuộc quá nhiều vào nước ngoài, cả về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, nhất là sự lệ thuộc về kinh tế. Khi kinh tế toàn cầu suy giảm, nền tài chính, tiền tệ thế giới rơi vào khủng hoảng, chính các nước này bị tác động sớm và mạnh mẽ nhất.  Đường lối chính trị, phương pháp lãnh đạo, điều hành đất nước của nhà cầm quyền các nước Hồi giáo đã rơi vào tình trạng sai lầm không thể đảo ngược. Đó là: độc đoán, chuyên quyền, gia đình trị, tham nhũng kéo dài, tạo nên sự bất bình ngày càng gia tăng của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Khi các đảng phái đối lập, các nhóm Hồi giáo cực đoan trỗi dậy, nêu chiêu bài “dân chủ”, “chống tham nhũng”, “chống độc quyền, chống gia đình trị”,… bởi vậy, các cuộc biểu tình rất dễ tranh thủ được sự ủng hộ của người dân, làm cho làn sóng bạo động chính trị ngày càng bùng phát.  Các quốc gia trong vòng xoáy rối loạn ở Trung Đông, Bắc Phi, có sự cách biệt giàu nghèo quá lớn trong xã hội, dân chúng bức xúc với chính sách, ứng xử của chính quyền. Phần lớn nhân dân chán ghét các vị Tổng thống đã tồn tại quá lâu, độc đoán, tham nhũng, không tạo được niềm tin về cải cách, thiếu hướng đi mới cho các vấn đề phát triển kinh tế-xã hội; không thực hiện các lời hứa hẹn. Các lực lượng đòi cải cách Hồi giáo toàn diện từ trước đến nay không được nói đến bởi các phương tiện truyền thôngphương Tây cũng như thế giới, mặc dù ai cũng biết là đa số giới trẻ hiện chiếm đa số tuyệt đối tại các nước Hồi giáo đều rất mực đòi hỏi cải cách toàn diện xã hội, kể cả việc cần duyệt lại toàn bộ kinh Kuran trên căn bản giải thích mới phù hợp với trào lưu của thế giới đương đại, chứ không thể giao cho mấy ông giáo sỹ cực đoan nắm quyền giải thích Kuran theo lối cổ xưa được nữa. Từ ba nguyên nhân trên, dẫn đến nguyên nhân thứ tư là, nhà cầm quyền không nhận được sự trung thành, ủng hộ thật lòng của nhân dân, của quân đội và lực lượng cảnh sát, khi xảy ra binh biến, rốt cuộc, các lực lượng này phản ứng yếu ớt, thậm chí buông xuôi, bỏ qua. Tuy nhiên, có những nguyên nhân sâu xa từ bên ngoài (mà không nên gọi là khách quan), về thực chất, đã nhúng tay, lúc thô bạo, lúc tinh vi, xảo quyệt. Nghiên cứu các sự kiện chính trị ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông, mở đầu từ Tunisia vào cuối năm 2010 tới nay có thể thấy, các biến động chính trị-xã hội đó xuất phát từ hai nhóm nguyên nhân: nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân sâu xa. Về nguyên nhân trực tiếp: Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới các biến động chính trị-xã hội ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông, mở đầu từ Tunisia, xuất phát từ chính tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các nước đó như nạn thất nghiệp gia tăng; sự bất bình đẳng trong xã hội; sự chênh lệch quá lớn giữa người giàu và người nghèo; chính quyền ở các nước đó bảo thủ và trì trệ trong nhiều năm (Tổng thống Tunisia Ben Ali cầm quyền sau cuộc đảo chính cung đình vào năm 1987 và kéo dài trong suốt 24 năm; Tổng thống Ai Cập H.Mubarak cầm quyền sau vụ đảo chính vào tháng 10-1981, trong 30 năm; nhà lãnh đạo Lybia Gaddafi lên nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự năm 1969, trong 42 năm; Thủ tướng Bahrain Khalifa Ibn Salman Al Khalifa cầm quyền 40 năm và là thủ tướng lâu đời nhất trên thế giới; Tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh cầm quyền năm 1978 trong suốt 33 năm). Tình trạng khủng hoảng này càng trở nên trầm trọng hơn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu bùng phát từ Mỹ năm 2008 và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Bản thân chính phủ các nước châu Phi và Trung Đông trong những năm gần đây cũng đã từng nhận thấy tình trạng khủng hoảng này và chính họ đã đề ra “Sáng kiến của các nước châu Phi và Trung Đông về dân chủ hoá” với 6 nội dung cơ bản. Một là, cải cách dân chủ ở các nước châu Phi và Trung Đông cần phải được thực hiện từ bên trong các nước đó mà không được áp đặt từ bên ngoài. Hai là, quá trình cải cách dân chủ cần phải được thực hiện từng bước để không làm tổn hại đến an ninh và sự ổn định. Ba là, quá trình cải cách cần phải phục vụ lợi ích của khu vực chứ không phải các “kẻ thù” từ bên ngoài. Bốn là, việc giải quyết cuộc xung đột giữa các nước Arập và Israel là điều kiện tiên quyết để tiến hành thắng lợi cuộc cải cách chính trị. Năm là, khi tiến hành cải cách dân chủ cần phải tính đến đặc điểm của từng nước trong khu vực chứ không thực hiện theo một công thức cố định. Sáu là, không cho phép các tổ chức Hồi giáo cực đoan sử dụng thành quả của các cuộc cải cách và mở cửa. Xem xét 6 nội dung chủ yếu của Sáng kiến dân chủ hoá trên đây có thể thấy, sáng kiến này chỉ mang tính hình thức mà chưa đề cập đến nội dung và bản chất. Ngoài ra, khó có thể đáp ứng tất cả 6 điều kiện, hoặc điều kiện thứ tư là giải quyết cuộc xung đột giữa các nước Arập và Israel. Do đó, sẽ khó có thể diễn ra cuộc cải cách dân chủ ở các nước châu Phi và Trung Đông. Từ những năm 1980-1990, một số nước trong khu vực châu Phi và Trung Đông đã có những nỗ lực cải cách dân chủ nhất định dưới tác động của các quá trình toàn cầu hoá. Chương trình cải cách do các nước Arập đề xuất đã từng được trình bày tại Hội nghị lần thứ XVI của Liên đoàn các nước Arập ở Tunisia vào ngày 22 và ngày 23-5-2004. Khi chuẩn bị Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Arập bị chia rẽ thành hai phe. Những ai nỗ lực kết nối quan điểm của họ với Mỹ kết thành một phe, còn phe khác phản đối chính sách của Mỹ và Israel ở Trung Đông. Trong khi đó, đại diện của phe thân Mỹ bày tỏ thái độ sẵn sàng hợp tác với Mỹ trong chủ trương cải cách Trung Đông, còn phe chống đối tuyên bố rằng “Đề án Đại Trung Đông” của Mỹ là sự can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Arập. Hội nghị các nước Arập ở Tunisia còn chứng tỏ các nước trong khu vực này không có khả năng đạt được sự đồng thuận ngay cả về những vấn đề cấp bách nhất (1). Đến năm 2010, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu, những mâu thuẫn do khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các nước châu Phi và Trung Đông trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, chỉ cần có tác động kích động châm ngòi là có thể bùng phát thành các cuộc bạo động chính trị. Trong điều kiện đó, các mạng xã hội như Twitter, Facebook, đặc biệt là trang web của Wikileaks, đã có tác động châm ngòi rất quan trọng. Chính thủ tướng của Tunisia đã tuyên bố, mạng Internet đã châm ngòi cho các biến chuyển chính trị ở quốc gia này (2). Về nguyên nhân sâu xa.Có hai nguyên nhân sâu xa dẫn tới các biến động chính trị-xã hội ở các nước Bắc Phi và Trung Đông từ cuối năm 2010 tới nay. Một là, các nước trong khu vực Bắc Phi và Trung Đông vừa đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị, vừa đang bị tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga,Ấn Độ, Nhật Bản, các nước EU, trước hết là nhằm sở hữu quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, khí đốt, nguyên tố đất hiếm, quặng kim loại và thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như thị trường đầu tư. Trong đó, Trung Quốc đang tỏ ra có ảnh hưởng “lấn lướt” các nước khác, kể cả Mỹ. Đây là điều mà Washington không thể chấp nhận được trong bối cảnh Mỹ đang bắt đầu chuyển sang giai đoạn cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu (5,6,7). Hai là, các mâu thuẫn nảy sinh từ cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội và chính trị ở các nước trong khu vực này đã bị một số thế lực bên ngoài, trước hết là ở Mỹ, lợi dụng để kích động nhằm nhanh chóng thay đổi chế độ cầm quyền, tạo cơ hội để thiết lập ảnh hưởng trong thời kỳ “hậu cách mạng”. Theo Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ, kịch bản các cuộc bạo động chính trị đã và đang diễn ra ở nhiều nước Bắc Phi và Trung Đông được thực hiện theo cái gọi là “Đề án Đại Trung Đông” mà nhiều đời tổng thống ở Mỹ đã từng ấp ủ. Do đó, Mỹ quyết định thực hiện giai đoạn mới trong chiến lược của họ ở châu Phi và Trung Đông là “phá cũ để xây mới”. 3.1.3. Động thái của các nước trước biến động ở Bắc Phi, Trung Đông Ngay khi biến động xảy ra ở Ai Cập, Iran đã lên án phương Tây kích động biểu tình. Mỹ, EU đã lên tiếng kêu gọi Chính phủ các nước hạn chế các hành động quân sự để trấn áp người biểu tình; Nga kêu gọi các nước giải quyết căng thẳng thông qua thỏa thuận hòa bình. Phát biểu sau cuộc hội đàm với người đồng cấp Anh William Hague tại London (Anh) hôm 15/2, Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov lên tiếng cảnh báo việc khuyến khích làn sóng nổi dậy ở Trung Đông tiếp sau các cuộc biểu tình mới gây chấn động thế giới Arab là "phản tác dụng". Theo Ngoại trưởng Lavrov, mọi căng thẳng đều cần phải được giải quyết thông qua thỏa thuận hòa bình. Ông cũng cảnh báo không nên áp đặt chế độ dân chủ theo mô hình cụ thể. Ngoại trưởng Lavrov cho rằng cần khuyến khích tất cả các bên nhất trí với nhau và việc áp đặt một mô hình dân chủ cụ thể sẽ là phản tác dụng. Từ Washington, Tổng thống Mỹ Barak Obama kêu gọi Chính phủ các nước tránh các hành động đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ. “Tôi tin rằng, hậu quả từ các cuộc khủng hoảng ở Ai Cập, Tunisia sẽ là bài học cho các quốc gia khác, không chỉ ở Trung Đông, Châu Phi mà còn ở nhiều khu vực khác trên thế giới. Tổng thống Obama công khai mong muốn chính quyền của Tổng thống Libya ra đi, nhưng vẫn tỏ thái độ không mấy sốt sắng về một sự can thiệp của nước ngoài và nhất là Washington không muốn tạo cảm giác là cuộc cách mạng được hậu thuẫn của Mỹ. Tuy nhiên, các nhà phân tích chính trị quốc tế nhận định, Mỹ có thể sớm can dự vào một cuộc chiến tranh nữa ở Trung Đông. Ngày 1 tháng 3 năm 2011, Liên hợp quốc thông qua một nghị quyết chưa từng có: đình chỉ tư cách thành viên của Libya tại Hội đồng Nhân quyền LHQ. Mỹ và nhiều nước phương Tây thực hiện lệnh cấm vận, phong toả tài sản của Libya và gia đình ông Gaddafi. Trước đó, Hội đồng Bảo an LHQ nhất trí thông qua Nghị quyết 1970, cấm vận vũ khí đối với Libya. Nghị quyết này yêu cầu Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) ở La Hay điều tra và có thể truy tố những người chịu trách nhiệm về việc người biểu tình thiệt mạng ở Libya. Xung đột đã xảy ra Vào lúc 16h45 GMT (tức 23h45 Hà Nội), Chiến dịch “Bình Minh Odyss ey”mở màn cuộc tiến công đường không của các nước NATO gồm Pháp, Anh, Mỹ đã ồ ạt thực hiện cuộc tấn công vào các hệ thống phòng thủ của quân đội Libya trong chiến dịch “Bình Minh Odyss ey” nhằm áp đặt vùng cấm bay trên bầu trời Libya. Sau khi nã ít nhất 112 quả tên lửa Tomahawk vào lãnh thổ Libya. Tin đầu tiên theo thông báo của nhà cầm quyền Libya: đã có 48 người thiệt mạng và 150 người bị thương trong các cuộc không kích. Truyền hình quốc quốc gia Libya nói “kẻ thù viễn chinh” đã bỏ bom các khu vực dân thường ở thủ đô Tripoli, cũng như các bể dự trữ nhiên liệu cung cấp cho thành phố miền đông Misrata. Cuộc xung đột ở Libya, các nhóm Giáo sĩ cực đoan nhìn thấy sáo trộn tại những nơi có biến động chính trị là cơ hội để tiến lên nắm quyền xoay chuyển tình hình sao có lợi cho chủ trương bảo thủ Hồi giáo chống lại phương Tây. Sáo trộn sẽ dẫn đến chỗ người nghèo khó trong vùng vốn đã khốn khổ sẽ bị khốn khổ hơn. Các tổ chức khủng bố quốc tế sẽ dựa vào đó để tuyên truyền về sự thất bại của các thế lực tay sai củaphương Tây và là thành quả của cao trào khủng bố quốc tế cũng như chủ trương Hồi giáo cực đoan. Một số nước sẽ lợi dụng nhảy vào tạo ảnh hưởng. Tình trạng bất ổn chính trị ở các nước Hồi giáo Bắc Phi, Trung Đông không những được coi là một khó khăn địa chiến lược chính trị, địa kinh tế rất lớn đối với phương Tây, đặc biệt là Mỹ, mà còn là "cơn ác mộng" đe dọa kinh tế thế giới vốn đang chật vật để thoát khỏi di chứng của cuộc khủng hoảng kinh tế cách đây không lâu. 3.2. Ai Cập – Lybia 3.2.1. Ai Cập a. Quá trình thành lập nhà nước Qua những tài liệu và tư liệu khảo cổ học cũng như theo sự ghi chép của các sử gia Hy lạp Herodotes, Diodore, Strabon và nhất là Manetho với tài liệu “Lịch sử Ai Cập”cho chúng ta thấy Ai Cập là một trong những trung tâm văn minh lớn của nhân loại. Văn minh Ai Cập phát triển ở vùng Đông Bắc châu Phi, trải qua 4 giai đoạn là Tảo vương quốc (3200 – 3000 TCN), Cổ vương quốc (3000 – 2200 TCN), Trung vương quốc (2200 – 1570 TCN) và Tân vương quốc (1570 – 1100 TCN). Xã hội có giai cấp và Nhà nước xuất hiện vào thời kỳ đầu của Cổ vương quốc. Trước khi Nhà nước hình thành, đất nước Ai Cập tồn tại các thiết chế chính trị đầu tiên gọi là các châu (Nome), được hình thành do sự tan rã của các công xã thị tộc. Đứng đầu mỗi châu là thủ lĩnh (nomarque), ông ta có quyền tổ chức chính quyền, quân đội, tụ hội nhân dân và xây dựng các công trình thủy lợi để tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Năm 3200 TCN, bằng các cuộc chiến tranh chính phục và thôn tính, vua Thượng Ai Cập là Menes đã đánh chiếm Hạ Ai Cập và sát nhập hai vùng này thành một nhà nước thống nhất và đến thời Cổ vương quốc, chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành. Bước sang thời Trung – Tân vương quốc, nhà nước Ai Cập đã đạt đến sựphồn thịnh và trở thành một đế quốc rộng lớn có lãnh thổ trải dài từ Bắc Phi sang tận Trung Đông, Nam Á. Thiết chế chính trị - xã hội được hình thành với đầy đủ những đặc tính cơ bản của nó.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan