Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật A và b là vợ chồng. trước khi cưới, b đã có người yêu nhưng do gia đình ép gả nê...

Tài liệu A và b là vợ chồng. trước khi cưới, b đã có người yêu nhưng do gia đình ép gả nên phải lấy a

.DOCX
13
158
149

Mô tả:

Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Đề bài số 2: A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu nhưng do gia đình ép gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn nói dối A là đi bệnh viện để lén gặp C (người yêu cũ) và thuê nhà sống với nhau như vợ chồng nhiều lần mỗi lần vài ngày. Biết chuyện, hai bên gia đình đã khuyên B chấm dứt quan hệ với C nhưng B vẫn lén lút quan hệ với C nhiều lần nữa nên A rất tức giận. Một hôm B lại lấy lý do đi khám bệnh nhưng thực tế là hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra đường cách nhà 200 mét thì thấy một thanh niên đang ngồi trên xe máy (xe có biển kiểm soát trùng với biển kiểm soát của C mà A được thông báo). Quá tức giận kẻ đã quyến rũ vợ mình, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Giám định Pháp y kết luận: nạn nhân chết do bị đánh vỡ đầu. Khi kiểm tra chứng minh thư của nạn nhân thì mới biết nạn nhân không phải là C mà là H bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó. Hỏi: 1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên? (2 điểm) 2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với ý thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45 %) thì tội danh của A là gì? Tại sao? Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A là gì? Tại sao? (2 điểm) 3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội; Thứ nhất: Tội vô ý làm chết người (đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết nhưng C đã không bị chết. Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này là đúng hay sai và giải thích rõ tại sao? (3 điểm) 1 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Trả lời: 1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên? Khẳng định A phạm tội giết người, vì: - Căn cứ pháp lý: Điều 93 BLHS. - Áp dụng vào tình huống: Trong tình huống trên A đã có hành vi nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi,hành vi phang mạnh nhiều nhát vào đầu của H là hành vi tước đoạt sinh mạng của H một cách trái pháp luật. Theo điều 93 BLHS có thể xác định hành vi phạm tội của A phạm tội giết người. + Khách thể: Tội giết ngườimạnh xâm phạm trực tiếp vào quyền được sống của con người. Đối tượng tác động của tội giết người là thân thể con người đang sống một cách bình thường. Ở đây, A đã có hành vi nguy hiểm nhằm tước đi mạng sống của H (người mà A tưởng là C). + Mặt khách quan: Hành vi tước đoạt tính mạng người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Trong trường hợp này A có hành vi trái pháp luật đối với H thông qua hành vi lấy khúc gỗ phang mạnh mấy phát vào đầu người ngồi trên xe máy( mà A nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Từ đây có thể thấy A đã cố ý có chủ định giết H, đánh vào đầu H vị trị nguy hiểm đến tính mạng con người cho đến khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay chứng bỏ đi. Hành vi này cho thấy A muốn chấm dứt mạng sống của H một cách trái pháp luật. + Mặt chủ quan: 2 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.. Theo đó, lỗi cố ý trực tiếp là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Còn lỗi cố ý gián tiếp là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ở đây, lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận thức rõ rằng hành vi dùng gậy phang mạnh mấy nhát vào đầu H ngồi trên xe máy( mà A nghĩ là C) của mình có thể khiến người ngồi trên xe máy mà A nghĩ là C chết nhưng A mong muốn điều đó xảy ra ( thể hiện qua hành động A dừng tay bỏ đi sau khi thấy nạn nhân gục ngã). + Chủ thể: Chủ thể của tội phạm là chủ thể thường, nghĩa là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Ở tình huống trên, do A và B đã kết hôn nên A là chủ thể có năng lực TNHS và đủ độ tuổi luật định. Nhưng do tình tiết A hiểu nhầm H là C (người đã quyến rũ vợ mình) nên đã có hành vi trái pháp luật. Dựa trên tình tiết hành vi trái pháp luật quả B và C là dù B đã lấy A nhưng lại có hành vi trái pháp luật ngoại tình với C “B và C thuê nhà sống với nhau như vợ chồng nhiều lần mỗi lần vài ngày”. Khi biết chuyện, hai bên gia đình đã khuyên B chấm dứt quan hệ với C nhưng B vẫn lén lút quan hệ với C nhiều lần nữa từ đây hành vi trái pháp luật của C và B đã đẩy A đến sự bức xúc không kiềm chế được bản thân và có hành vi phạm tội với H( tưởng nhầm là C). Do đó có yếu tố giảm nhẹ TNHS là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS “phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra”. 3 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Như vây, hành vi của A đã thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS. Ta cũng cần phải lí giải tại sao lại không áp dụng Điều 95 với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà lại áp dụng Điều 93 với tội giết người với tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm đ khoản 1 Điều 46. Trước hết, ta cần phân biệt sự khác nhau giữa chúng qua bảng sau: Điều 93 với tình tiết giảm Điều 95 BLHS nhẹ tại điểm đ khoản 1 Cấu thành pháp Điều 46 BLHS Chỉ là một tình tiết giảm nhẹ Cấu thành một tội phạm cụ lý TNHS. thể. Mức độ bị kích Người phạm tội bị kích động Người phạm tội bị kích động động nhưng không mạnh, chưa tới mạnh về tinh thần. mức không nhận thức được hành vi. Mức độ nghiêm Hành vi trái pháp luật của nạn Hành vi trái pháp luật của nạn trọng của hành nhân không nhất thiết phải là nhân phải là hành vi trái pháp vi trái pháp luật Chủ thể hành vi trái pháp luật nghiêm luật nghiêm trọng. trọng. thực Không buộc phải là hành vi trái Nhất thiết phải là hành vi trái hiện hành vi trái pháp luật của nạn nhân mà có pháp luật của nạn nhân. pháp luật thể của người khác. Đối tượng gây Không nhất thiết phải như vậy Hành vi trái pháp luật của nạn tác động mà còn có thể với người khác. nhân phải thực hiện đối với chính người phạm tội hoặc người thân người đó. 4 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Từ bảng phân biệt ở trên, ta thấy trong trường hợp này tuy rằng C có hành vi vi phạm pháp luật đối với A nhưng hành vi đó chưa đến mức vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Mặt khác, A chưa chứng kiến hành vi C ngoại tình với vợ mình là chị B mà mới chỉ nhìn thấy C ( nhưng thực ra lại là H ) ngồi trên xe máy, cho nên lúc đó A chưa thể bị kích động về tinh thần ở mức độ mạnh, chưa thể mất tự chủ. Và A vẫn nhận thức được dùng khúc gỗ dài 60cm là một hung khí nguy hiểm, có thể dễ dàng dẫn đến cái chết của C. Vậy hành vi của A trong trường hợp này đã cấu thành tội giết theo khoản 1 Điều 93 BLHS với tình tiết giảm nhẹ tại điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS. 2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với ý thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45 %) thì tội danh của A là gì? Tại sao? Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A là gì? Tại sao? Nếu H chỉ bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 45% thì tội danh của H là cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Còn nếu H bị chết thì tội danh của A lại là giết người Điều 93 BLHS. + Căn cứ pháp lý: Điều 93, Điều 104 BLHS. + Áp dụng vào tình huống:  Khi H ( A tưởng là C) bị thương tích với tỷ lệ thương tật 45% thì tội danh của A là tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Ở đây, ta có thể khẳng định tội danh của A như vậy vì hành vi của A đã thỏa mãn những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 BLHS. Trước hết, ta xét về mặt khách quan của tội phạm này. Hành vi khách quan của tội này là những hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương 5 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 khác làm tổn hại đến sức khỏe của con người. Cụ thể trong vụ án chết là hành vi “A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy” (là H). Hậu quả ở trong vụ án này là A đã khiến cho H bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45%). Xét về mặt chủ quan, lỗi của A trong vụ án này là lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy tước hậu quả của hành vi đó tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Điều 9 BLHS). Trong vụ án này, lỗi này thể hiện rõ qua ý thức của A khi phang bừa vào người H là “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Về lí trí, A nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy tước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội là khiến H bị thương. Về ý chí, A nhận thức rõ hành vi nguy hiểm của mình có thể gây thương tích cho C ( thực ra là H) và có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Chủ thể của vụ án này là A, là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo pháp luật quy định. Ở đây, không xác định A phạm tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 105 BLHS vì, tội này có điểm khác so với tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 là: Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình. Ở đây, A biết C đã có hành vi ngoại tình với vợ của A nhiều lần, lặp đi lặp lại nhưng A chưa bắt gặp việc đó mà mới chỉ nhìn thấy C (thực ra là H) ngồi trên xe máy chờ vợ của mình, tức là A vẫn chưa thể bị coi là bị kích động mạnh về tinh thần và nhận thức được hung khí nguy hiểm là khúc gỗ có thể khiến C chết nhưng A vẫn phang nhiều nhát vào đầu C ( nhưng thực ra lại là H) khiến cho H bị chết . Tuy H không phải là người mà A muốn 6 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 giết, nhưng đó chỉ là sự sai lầm về đối tượng và điều này không ảnh hưởng đến TNHS của A. Như vậy, trong trường hợp này, hành vi của A đã cấu thành tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS.  Khi H bị chết thì tội danh của A sẽ là giết người theo Điều 93 BLHS. Như đã khẳng định ở phần a, xét về mặt khách quan, A có hành vi trái pháp luật đối với H thông qua hành vi lấy khúc gỗ phang bừa vào H người ngồi trên xe máy( mà A nghĩ là C). Và A nhận thức được rằng hành vi nguy hiểm của mình có thể gây hậu quả là cái chết của H, hành vi đó xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của con người. Hậu quả cuối cùng là dẫn đến H bị chết. Về mặt chủ quan, lỗi của A ở đây là lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy tước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra” (Điều 9 BLHS). Trong vụ án này, lỗi này thể hiện rõ qua ý thức của A khi phang bừa vào người H là “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Về lí trí, A nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy tước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội là khiến H bị chết. Về ý chí, A nhận thức rõ hành vi nguy hiểm của mình có thể gây cái chết cho C ( thực ra là H) nhưng do bực tức nên A vẫn cứ cầm khúc gỗ phang bừa vào người A, muốn sống cũng được, mà chết cũng mặc. A không muốn giết C ( thực ra là H) nhưng nếu H chết thì A cũng chấp nhận. Chủ thể của vụ án này là A, là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo pháp luật quy định. Mặt khác tội giết người không có giai đoạn chưa đạt với lỗi cố ý gián tiếp, nên nếu nạn nhân chưa chết thì người phạm tội sẽ bị áp dụng theo tội cố ý gây thương tích, khi nạn nhân chết thì sẽ bị áp dụng với tội giết người. 7 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 Như vậy, với các tình tiết của vụ án thỏa mãn với các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, ta khẳng định tội danh của A là tội giết người theo Điều 93 BLHS. 3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội: Thứ nhất: Tội vô ý làm chết người (đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết nhưng C đã không bị chết. Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này là đúng hay sai và giải thích rõ tại sao? Ta khẳng định hai ý kiến trên là sai. Vì: + Căn cứ pháp lý: Điều 10, Điều 18 BLHS. +Áp dụng vào tình huống: a, Khẳng định thứ nhất : A phạm tội vô ý làm chết người vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng. Theo quy định tại Điều 10 BLHS thì vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: - Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Bộ luật hình sự quy định hai hình thức vô ý phạm tội là vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể 8 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào dộ tuổi, trình độ văn hóa, tay nghề… Vô ý vì quá tự tin là trường hợp phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Đối với tội giết người với lỗi vô ý: - Về mặt khách quan: Tội phạm được thể hiện ở việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ gây nên cái chết của con người. Những quy tắc an toàn được quy định ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nó bao gồm những quy định thành văn bản hoặc những quy định thành tập quán mà mọi người đều biết, thừa nhận và chấp hành. Những quy định thành văn bản của nhiều ngành, trên nhiều lĩnh vực. Thông thường đó là những quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính đòi hỏi mọi người phải tuân thủ. - Về mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi vô ý. Bao gồm cả vô ý do cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Như đã phân tích ở trên, vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước, nên hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra. Trong trường hợp này, A có thể thấy trước được hậu quả, thương tích sẽ gây ra đối với H (hành vi dùng khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy). Cho nên hành vi phạm tội của A không thuộc trường hợp thực hiện với lỗi vô ý do cẩu thả. Vô ý vì quá tự tin là trường hợp tuy thấy trước được hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó có thể không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nên vẫn thực hiện hành vi và gây ra 9 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về lý trí, người phạm tội thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Như đã phân tích ở trên, A có thể thấy trước được hậu quả của hành vi của mình gây ra cho H. Còn về ý chí: người phạm tội không chấp nhận hậu quả tác hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Việc hậu quả nguy hại xảy ra là ngoài sự mong muốn của người phạm tội, sự tin tưởng của người phạm tội trong hình thức lỗi này mang tính chủ quan, các suy đoán và giả thuyết của họ không có cơ sở khoa học, không sát thực, chưa lường hết các tình huống xảy ra, hoặc biện pháp phòng ngừa không có kết quả…nên hậu quả nguy hiểm đã xảy ra. Tuy nhiên, A đánh H (người mà A tưởng là C) đến khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay và bỏ đi. Điều đó chứng tỏ, A chấp nhận hậu quả gây thương tích cho H sẽ xảy ra và không có ý thức ngăn ngừa hậu quả là H chết. Như vậy, lỗi của A cũng không thuộc trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin. Mặc dù A có bị sai lầm về đối tượng, khi A nhầm H là C nhưng hành động gây thương tích gây cho A không phải lỗi vô ý mà vẫn phải là lỗi cố ý, A mong muốn hậu quả gây thương tích đó xảy ra. Mặt khác, sai lầm về đối tượng không ảnh hưởng gì đến TNHS của người phạm tội và cũng không ảnh hưởng đến việc xác định lỗi của người phạm tội. Như vậy, khẳng định thứ nhất A giết người với lỗi vô ý là sai. b. Khẳng định thứ hai: A phạm tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người A muốn giết nhưng C đã không chết. Theo Điều 18 BLHS , phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Một người được xác định là phạm tội ở giai đoạn chưa đạt khi có 3 dấu hiệụ sau: - Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. 10 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 - Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng, các hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. - Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Căn cứ vào thái độ chủ quan và mục đích cần đạt được của người phạm tội, giai đoạn phạm tội được chia thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. - Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm và hậu quả của tội phạm chưa xảy ra cho xã hội. - Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng hậu quả của tội phạm chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng hậu quả đó chưa thoả mãn dấu hiệu hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm. Trong cấu thành tội phạm giết người, thời điểm hoàn thành của tội phạm được tính từ khi xảy ra hậu quả chết người. Trong trường hợp này, H đã thực hiện hết tất cả các hành vi cần thiết để giết H (người mà A tưởng là C) và các hành vi đó đã thỏa mãn hết dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội giết người và đã gây nên hậu quả là H chết. Vì vậy, không thể kết luận A phạm tội chưa đạt được. Còn việc C không chết chỉ là sự sai lầm về đối tượng của A, không ảnh hưởng đến xác định giai đoạn phạm tội và đến TNHS của người phạm tội. Như vậy, khẳng định A phạm tội giết người chưa đạt là sai, mà phải xác định A phạm tội ở giai đoạn hoàn thành. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CADN, Hà Nội, 2009. 2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần chung, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb. ĐHQG, Hà Nội ,2001. 3. BLHS Việt Nam năm 1999. 4. Bình luận KHBLHS phần các tội phạm, Tập 1-Đinh Văn Quế, NXB TPHCM, 2002. 5. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Tập 1, TS.Trần Minh Hưởng, NXB Lao Động, Hà Nội, 2009. 6. Từ điển pháp luật hình sự, PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa – PGS.TS Lê Thị Sơn, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006. 7. Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999, TS.Đinh Văn Quế, NXB TPHCM, 2001. 8. Định tội danh và quyết định hình phạt, TS. Dương Tuyết Miên, NXB Lao động – xã hội. 12 Luật Hình sự Việt Nam II Bài tập nhóm tháng 1 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan