Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật A ký hợp đồng bán hàng cho b.1. khi nào hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của luật...

Tài liệu A ký hợp đồng bán hàng cho b.1. khi nào hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của luật thương mại năm 2005 nêu các nội dung tranh chấp có thể phát sinh tro

.DOC
17
151
148

Mô tả:

BÀI TẬP NHÓM SỐ 1 (TM2.NT1) TM2.NT1 - 1. A ký hợp đồng bán hàng cho B. Hãy làm rõ: 1. Khi nào hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005? 2. Nêu các nội dung tranh chấp có thể phát sinh trong hợp đồng này mà bắt buộc sẽ phải sử dụng Bộ Luật Dân sự năm 2005 làm cơ sở giải quyết tranh chấp? 3. Khi hợp đồng không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng, việc xác định vi phạm hợp đồng của các bên sẽ được thực hiện như thế nào? 4. Để tránh khả năng hợp đồng trên đây vô hiệu do người không có thẩm quyền đại diện ký kết, cần lưu ý những vấn đề pháp lý nào? MỞ ĐẦU Hoạt động mua bán hàng hóa là một hoạt động trung tâm trong giao lưu thương mại, có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và mua bán hàng hóa trong thương mại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia. Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận của các bên đều được pháp luật thừa nhận mà chỉ có những thỏa thuận tuân theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa, đảm bảo cho cam kết giữa các chủ thể được thực hiện trên thực tế. Trong bài tập này, nhóm xin nghiên cứu về các vấn đề xung quanh hợp đồng mua bán mà cụ thể là hợp đồng mua bán giữa hai chủ thể A và B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Khi nào hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005? Trước hết ta phải hiểu thế nào là hợp đồng, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó. Bản chất thực sự của hợp đồng là sự tự nguyện và thống nhất ý chí thông qua thỏa thuận nhằm đạt được một hay nhiều lợi ích chung nào đó. Điều 388 BLDS năm 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự như sau: “ hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS2005). Theo đó, phạm vi áp dụng của BLDS 2005, các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho các hợp đồng nói chung bao gồm cả các hợp đồng phát sinh từ quan hệ kinh doanh thương mại. Do đó, 1 khái niệm hợp đồng dân sự cũng là khái niệm chung về hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, đầu tư và kinh doanh. Chính vì thế mà hợp đồng trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, bản thân nó cũng có những điểm riêng nhất định, khác biệt với những loại hợp đồng dân sự thông thường theo cách hiểu truyền thống. Theo cách tiếp cận này, những vấn đề cơ bản của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại như giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và cách xử lý hợp đồng vô hiệu sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật và không có sự khác biệt nào với những hợp đồng dân sự thông thường. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn sẽ gặp một số những quy định cụ thể dành riêng cho hợp đồng trong lĩnh vực thương mại do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, để nhận diện hợp đồng trong thương mại, có căn cứ vào các tiêu chí pháp lý chủ yếu sau: Thứ nhất, tiêu chí về chủ thể của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân. Theo Khoản 1 điều 6 Luật thương mại 2005: “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.” Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật thương mại (khoản 3 Điều 1 Luật thương mại). Trong một số trường hợp, pháp luật quy định chủ thể hợp đồng đều phải là thương nhân. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khác hợp đồng trong thương mại 2 chỉ đòi hỏi ít nhất một bên là thương nhân (như hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng …). Thứ hai, về hình thức của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết lập dựa trên cơ sở cách thức hai bên thỏa thuận theo ý chí tự nguyện, nó có thể được thực hiện dựa trên hình thức lời nói, văn bản hoặc cũng có thể là hành vi cụ thể của các bên giao kết. Thực tế, có một số trường hợp pháp luật bắt buộc các bên phải lập hợp đồng thành văn bản, VD: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quảng cáo,… theo Khoản 15 điều 3 LTM 2005 thấy đồng thời cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương bao gồm điện báo, fax, thông điệp dữ liệu. Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng. Thứ ba, về mục đích của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận luôn là đặc trưng trong các giao dịch kinh doanh thương mại do các bên hợp đồng nhằm thu được lợi nhuân từ việc thực hiện hợp đồng. Nhưng trong thực tế có một số trường hợp một bên chủ thể của hợp đồng không phải là thương nhân và họ giao kết hợp đồng không phải là thương nhân và họ giao kết hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận. Theo quy định của LTM 2005, việc có áp dụng luật thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không sẽ do bên không có mục đích lợi nhuận quyết định ( khoản 2 điều 1 LTM 2005). Trong tình huống này, A ký hợp đồng bán hàng cho B thì hợp đồng này sẽ chịu sự điều chỉnh của luật thương mại năm 2005 khi nó thỏa mãn 3 điều kiện sau:  Về chủ thể: Ít nhất A hoặc B phải là thương nhân.  Về hình thức hợp đồng: Hợp đồng bán hàng giữa A và B có thể được thiết lập dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bằng hình thức vàn bản Luật Thương mại 2005 3 cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu.  Về mục đích: Mục đích của hợp đồng đã ký giữa A và B đó là lợi nhuận. 2. Nêu các nội dung tranh chấp có thể phát sinh trong hợp đồng này mà bắt buộc sẽ phải sử dụng Bộ Luật Dân sự năm 2005 làm cơ sở giải quyết tranh chấp? Có 4 trường hợp: 2.1. Tranh chấp về hợp đồng vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. - Nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội – Điều 128. - Hợp đồng vô hiệu do giả tạo – Điều 129. - Vô hiệu do nhầm lẫn – điều 131. - Vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa – điều 132. - Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình - điều 133. - Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức – điều 134. 2.2. Tranh chấp về quyền sở hữu hàng hoá với bên thứ ba. Bên bán là người có tài sản đem bán. Bên bán là chủ sở hữu tài sản hoặc là người được ủy quyền bán. Bên bán còn có thể là người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ phải đảm bảo quyền sở hữu tài sản cho bên mua như chuyển tài sản và các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu tài sản của mình. Để bên mua có quyền sở hữu đối với tài sản mua, bên bán phải là chủ sở hữu hoặc người có quyền được bán theo quy định của pháp luật. Nếu bên bán không phải là chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền bán mà có người thứ 3 yêu cầu đòi tài sản 4 của bên mua thì bên bán phải có trách nhiệm hoàn trả cho bên mua số tiền mình đã nhận. Cụ thể điều này được quy định tại điều 443 BLDS 2005: “Điều 443. Bảo đảm quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua bán 1. Bên bán có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản đã bán cho bên mua không bị người thứ ba tranh chấp. 2. Trong trường hợp tài sản bị người thứ ba tranh chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên mua; nếu người thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua có quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại. 3. Trong trường hợp bên mua biết hoặc phải biết tài sản mua bán thuộc sở hữu của người thứ ba mà vẫn mua thì phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. 2.3. Tranh chấp liên quan đến các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng. Bảo đảm thực hiện theo hợp đồng được hiểu là quy định của pháp luật cho phép các chủ thể trong giao dịch dân sự thỏa thuận các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ chính được thực hiện, xác định quyền và nghĩa vụ chính được thực hiện, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó; là sự thỏa thuận giữa các chủ thể về các biện pháp bảo đảm đã được pháp luật quy định mang tính chất dự phòng nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng bao gồm: Thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh, đặt cọc,... * Thế chấp tài sản: thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. * Cầm cố tài sản: Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. 5 * Bảo lãnh: Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361). Bảo lãnh trong Bộ luật dân sự 2005 mang tính chất đối nhân, do đó việc xác định bảo đảm bằng tài sản không phải quyết định. * Đặt cọc: Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp các bên thực hiện đúng thỏa thuận trong thời hạn (hợp đồng được giao kết, thực hiện) thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. * Ký cược: là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (gọi là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê. * Ký quỹ: là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá trị khác vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng để bào đảm việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. * Tín chấp: là việc Tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm (bằng tín chấp) chó cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dung khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ. Bộ luật dân sự 2005 không quy định phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nhưng nếu ác luật chuyên ngành có quy định thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành. 2.4. Tranh chấp liên quan đến vấn đề giao kết hợp đồng. Luật doanh nghiệp quy định nội dung của hợp đồng kinh doanh, thương mại có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận những nội dung quan trọng của 6 hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, đồng thời phòng ngừa những tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật doanh nghiệp, luật Thương mại không quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung cụ thể nào trong hợp đồng kinh doanh, thương mại. Mặc dù các nội dung chủ yếu của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể xác định được dựa trên những quy định mang tính "khuyến nghị", "định hướng" của pháp luật, thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những rủi ro pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Một hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể được hình thành theo bất cứ cách thức nào, theo đó chứng tỏ giữa các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là thời điểm mà các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Trong quá trình xác lập hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ là: Đề nghị giao kết hợp đồng; Chấp nhận đề nghị hợp đồng; Thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng. Những vấn đề này không được Luật Thương mại quy định cụ thể, vì vậy các quy định của Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. a. Đề nghị giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 390 Bộ luật Dân sự, có thể định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể. Bộ luật Dân sự cũng như Luật Thương mại không quy định về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, song có thể dựa vào quy định về hình thức của hợp đồng (Điều 24 Luật Thương mại) để xác định hình thức 7 của đề nghị giao kết hợp đồng, theo đó đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này. Đề nghị giao kết hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường được bên đề nghị ấn định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng là: (i) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (bên được đề nghị là cá nhân) hoặc trụ sở của bên được đề nghị (trường hợp bên được đề nghị là pháp nhân); (ii) Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii) Bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác. Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình. Trong thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng trong kinh doanh, thương mại hình thành và ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp: (i) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; (ii) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: (i) Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) Hết thời hạn trả lời chấp nhận; (iii) 8 Thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv) Thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực; (v) Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời. b. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp sau: - Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị. - Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. c. Thời điểm giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Về nguyên tắc chung, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Theo Điều 404 Bộ luật Dân sự, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại theo các trường hợp sau: 9 - Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; - Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông qua các tài liệu giao dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định theo thuyết "tiếp nhận", theo đó, hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng; - Hợp đồng được giao kết hợp đồng bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp, chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc "các bên đã thỏa thuận" về nội dung của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bằng lời nói. Ngoài ra, sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể là căn xác định hợp đồng kinh doanh, thương mại đã được giao kết, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 3. Khi hợp đồng không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng, việc xác định vi phạm hợp đồng của các bên sẽ được thực hiện như thế nào? Địa điểm giao hàng là một nội dung quan trọng trong hợp đồng vì nó liên quan đến vấn đề chuyển rủi do và chi phí vận chuyển. Trên thực tế, đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa với số lượng lớn, vận chuyển đường dài hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì vấn đề này không thể có thỏa thuận trước. Ngoài ra, các trường hợp khác có thể xảy ra trường hợp các bên sơ xuất hoặc đã từng mua bán theo thói quen với nhau nên không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng, ví dụ như khách hàng quen đã thực hện việc mua bán, giao hàng cùng tại một địa điểm nhiều lần nên mặc định đó là địa điểm cố định, không cần thỏa thuận lại nữa. Điều này rất bất lợi vì khi có vi phạm xảy ra, ảnh hưởng tới chất lượng hàng hóa thì rất khó có thể xác định được trách nhiệm cho hai bên về tổn thất phải chịu, cả về vật 10 chất và tinh thần (uy tín, trách nhiệm…). Khoản 2 Điều 35 Luật thương mại 2005 quy định về vấn đề địa điểm giao hàng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận cụ thể. “ Trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì điạ điểm giao hàng được xác định như sau: a. Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hóa đó. b. Trong trường hợp hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên. c. Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó. d. Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán” Như vậy, nếu không có thỏa thuận trước về địa điểm giao hàng, vấn đề vi phạm hợp đồng phần lớn được đặt ra đối với bên bán, bên giao hàng. Đó là bởi vì họ là bên phải bảo đảm về địa điểm giao hàng, cũng như chất lượng hàng trước khi giao đến tay bên mua, bên nhận hàng. Dễ dàng lí giải được điều này vì khi địa điểm giao hàng không được xác định rõ ràng cụ thể ngay trong hợp đồng thì theo luật, nó sẽ phải gắn liền với nguồn gốc hàng, cũng như nơi lưu trữ do bên giao hàng, bên bán sử dụng trước khi đưa ra giao dịch. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bên mua, bên nhận hàng hoàn toàn không phải chịu bất kì trách nhiệm gì khi có thiệt hại xảy ra, cụ thể như trong trường hợp xảy ra thiệt hại do bên mua, bên nhận giao hàng không tiếp nhận hàng ở đúng địa điểm do pháp luật quy định. Để xác định vi phạm trong trường hợp hai bên chủ thể không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng, ta tiến hành xác định lỗi của bên vi phạm và những thiệt hại 11 vật chất thực tế xảy ra do vi phạm mà có. Trường hợp 1: Lỗi thuộc về bên bán, bên giao hàng. Bên này có lỗi khi không thực hiện giao hàng tại một trong các địa điểm cụ thể đã được quy định tại Điều 35 Bộ luật thương mại 2005 mà tự động tiến hành chuyển sang một địa điểm khác, không thông báo cho bên mua, bên nhận hàng hoặc không giao hoặc giao hàng chậm dẫn đến việc bên mua, bên nhận hàng không nhận được hàng, gây tổn thất về mặt kinh tế do không nhận được hàng, chi phí đi lại phát sinh... Trường hợp 2: Lỗi thuộc về bên mua, bên giao hàng. Bên này sẽ bị xác định vi phạm nếu như không có thỏa thuận trước nhưng không đến tiếp nhận hàng hoặc đến tiếp nhận hàng chậm tại địa điểm do pháp luật quy định. Nếu như do vi phạm này mà bên còn lại bị hao tổn về kinh tế, giảm sút lợi nhuận thì những tổn thất này được xác định là những thiệt hại vật chất thực tế xảy ra. 4. A kí hợp đồng bán hàng cho B. Để tránh hợp đồng bị vô hiệu do người không có thẩm quyền đại diện lí kết cần lưu ý một số vấn đề pháp lí sau: 4.1. Điều kiện về chủ thể để hợp đồng thương mại có hiệu lực. Một hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, nó không chỉ cần thỏa mãn yêu cầu về chủ thể, mà nó cần thỏa mãn các yêu cầu về mục đích, nội dung của hợp đồng thương mại, điều kiện về sự tự nguyện khi xác lập và thực hiện hợp đồng thương mại đồng thời cũng cần thỏa mãn điều kiện về hình thức của hợp đồng thương mại. tuy nhiên trong phạm vi bài làm, nhóm quan tâm làm rõ các yếu tố về mặt chủ thể giao kết để hợp đồng thương mại tránh bị vô hiệu. Hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa các thương nhân. Theo quy định tại khoản 2 điều 6 Luật thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế thành lập một cách hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Có những hợp đồng đòi hỏi 12 cả hai bên chủ thể đều phải là thương nhân (Hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lí thơpng nhân, hợp đồng đại lí thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại…), bên cạnh đó có những hợp đồng chỉ đòi hỏi một bên là thương nhân như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng…ngoài ra có những hợp đồng thương mại cả hai bên không phải là thương nhân, đó là những người chuyên buôn, bán hàng rong dịch vụ thu nhập thấp. Tuy không phải là thương nhân nhưng họ vẫn thực hiện các hành vi thương mại trên thị trường một cách thường xuyên mang tính nghề nghiệp và nhằm mục tiêu lợi nhuận. Việc xác định chủ thể là tiêu chí để phâm biệt hợp đồng thương mại với các hợp đônhg khác. Người tham gia hợp đồng thương mại ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thương mại. Đó là các thương nhân và các chủ thể khác không phải là thương nhân (tổ chức, cá nhân khác). Luật thương mại năm 2005 được áp dụng chủ yếu để điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các thương nhân với nhau nhằm mục đích lợi nhuận. Luật thương mại năm 2005 cũng được áp dụng đối với bên chủ thể không nhằm mục đích sinh lợi trong giao dịch thương mại khi bên không nhằm mục đích sinh lợi nhuận chọn áp dụng luật thương mại năm 2005. Đối với những thương nhân khi tham gia hợp đồng nhằm mục đích sinh lợi nhuận, các thương nhân phái đáp ứng điều kiện có đăng kí kinh doanh hợp pháp để thực hiện công việc đã thỏa thuận theo hợp đồng. Trường hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, thương nhân còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật. Trường hợp tại thời điểm giao kết hợp đồng, một bên không đang kí kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc thỏa thuận trong hợp đồng nhưng khi thực hiện hợp đồng và trước thời điểm phát sinh tranh chấp mà bên đó đã được đăng kí kinh doanh bổ xung thì hợp đồng cũng không bị tuyên vô hiệu. 13 Đối với các chủ thể không phái là thương nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng thương mại, các chủ thể phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, độ tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đối với cá nhân là 18 tuổi trở lên ( theo quy định tại điều 20, điều 21 Bộ luật dân sự. 4.2. Hợp đồng thương mại vô hiệu do người giao kết không đúng thẩm quyền. Việc xác định người có thẩm quyền giao kết hợp đồng thương mại dựa trên các căn cứ như điều lệ, quyết định thành lập đối với công ty nhà nước, giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư đối với doanh ngiệp có vốn nước ngoài, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh đối với doanh nghiệp khác. Đối với các thương nhân khi tham gia giáo kết hợp đồng thương mại có thể thông qua đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Hiện nay, người đại diện theo pháp luật của thương nhân là tổ chức kinh tế được pháp luật quy định tương ứng với từng doanh nghiệp, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân đối với Doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch hội đồng thành viên hoặc giám đốc (tổng giám đốc) đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, chủ tịch hội đồng quản trị hoặc giám đốc, tổng giám đốc công ty) đối với công ty cổ phần… Người đại diện của chủ thể khác không phải là thương nhân sẽ áp dụng các quy định khác về đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền của BLDS 2005. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền của người đại diện và người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Việc ủy quyền không bắt buộc phải lập thành văn bản, những trường hợp pháp luật quy định phải ủy quyền bằng văn bản phải tuân thủ hình thức của pháp luật. Hợp đồng thương mại được kí kết bởi người đại diện không có thẩm quyềm, sau đó người này được ủy quyền hoặc hợp đồng thương mại được kí kết bởi người không có thẩm quyền sau đó người đại diện theo pháp luật 14 biết mà không phản đối thì hợp đồng thương mại đó vẫn có hiệu lực. Thực tế ủy quyền có hai loại là ủy quyền theo vụ việc và ủy quyền thường xuyên. Ủy quyền theo vụ việc là hình thức ủy quyền đẻ kí kết một hoặc 1 số trường hợp cụ thể cho từng vụ việc. Ủy quyền thường xuyên là hình thức ủy quyền diễn ra trong một thời gian dài để kí kết nhiều hợp đồng. Việc ủy quyền thường xuyên được ghi nhận trong điều lệ hoặc quy chế hoạt động hoặc quyết định của thương nhân. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền. Khi người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hợp đồng, sẽ làm cho hợp đồng thương mại vô hiệu với người được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của bên đại diện chấp nhận. Hợp đồng thương mại được người đại diện xác lập, vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người đại diện đối với phần hợp đồng thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Ngoài các trường hợp vô hiệu theo quy định của BLDS năm 2005, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng quy định cụ thể một số trường hợp hợp đồng thương mại có thể vô hiệu do sự tư lợi hoặc tẩu tán tài sản khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Từ những phân tích trên, có thể thấy một số trường hợp hợp đồng thương mại sẽ bị vô hiệu do người không có thẩm quyền đại diện kí kết. Từ đó, hợp đồng thương mại giữa A và B cần tuân thủ đầy đủ các quy định trên, để hai bên thành lập được một hợp đồng thương mại hợp pháp. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Thông qua phân tích và giải quyết những vấn đề xung quanh hợp đồng mua bán hàng hóa giữa A và B giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về quy định của pháp luật đối với hợp đồng mua bán hàng hóa giúp phần nào áp dụng ngoài thực tiễn đạt được hiệu quả. 15 Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập 2, Nxb.CAND. 2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1+2, Nxb.CAND. 3. Tìm hiểu pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu, Khóa luận tốt nghiệp, Đặng Thị Huệ. 4. Một số vấn đề pháp lí về hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại, Luận văn tốt nghiệp đại học, Ngô Quang Huy. 5. Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Doãn Thị Thu Hằng, Hà Nội 2010 6. Luật Thương mại năm 2005. 7. Bộ Luật Dân sự năm 2005. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan