Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi ê đê qua tác phẩm mdrong dăm...

Tài liệu Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi ê đê qua tác phẩm mdrong dăm

.PDF
102
163
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HOC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------------ NGUYỄN THU THỦY VẤN ĐỀ THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG SỬ THI Ê ĐÊ QUA TÁC PHẨM MDRONG DĂM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian HÀ NỘI – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HOC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------- NGUYỄN THU THỦY VẤN ĐỀ THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG SỬ THI Ê ĐÊ QUA TÁC PHẨM MDRONG DĂM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số : 602236 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH HÀ NỘI – 2013 MỤC LỤC Mục lục ........................................................................................................ 0 Mở đầu ......................................................................................................... 1 Chương 1: Tổng quan về Tây Nguyên, dân tộc Ê Đê và sử thi Ê Đê…..8 1.1. Thiên nhiên, xã hội, con người Tây Nguyên .......................................... 8 1.2. Dân tộc Ê Đê và sử thi Ê Đê ................................................................ 12 1.2.1. Dân tộc Ê Đê ................................................................................ 12 1.2.2. Sử thi Ê Đê ................................................................................... 15 Tiểu kết ........................................................................................................ 18 Chương 2: Các dạng nhân vật và thi pháp thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm…………….……....20 2.1. Các dạng nhân vật ............................................................................... 20 2.1.1. Nhân vật trung tâm (nhân vật anh hùng) ..................................... 20 2.1.2. Nhân vật phụ nữ (nhân vật người đẹp) ....................................... 34 2.1.3. Nhân vật Mtao .............................................................................. 45 2.1.4. Nhân vật bà Duôn Sun và cháu gái .............................................. 51 2.1.5. Nhân vật thần linh ........................................................................ 52 2.2. Thi pháp ................................................................................................ 54 2.2.1. Ngôn ngữ miêu tả ........................................................................ 54 2.2.2. Ngôn ngữ trần thuật ..................................................................... 58 2.2.3. Công thức tả - kể mang tính chất lặp đi lặp lại ........................... 62 2.2.4. Biện pháp nghệ thuật ................................................................... 65 Tiểu kết ........................................................................................................ 70 Chương 3: So sánh việc thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê với sử thi Mơ Nông…………………………………….……………….71 3.1. Nhân vật trong sử thi Mơ Nông ........................................................... 71 3.2.So sánh việc thể hiện nhân vật trong sử thi ÊĐê với sử thi MơNông.. .83 3.2.1. So sánh ........................................................................................ 83 3.2.2. Lí giải .......................................................................................... 89 Tiểu kết ........................................................................................................ 93 Kết luận ..................................................................................................... 94 Tài liệu tham khảo .................................................................................... 97 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bàn về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam không thể không kể đến sử thi Tây Nguyên – các tác phẩm dân gian có quy mô phản ánh hiện thực rộng lớn, có nghệ thuật “không thể nào bắt chước”, được “sản sinh ra trong những điều kiện xã hội không bao giờ trở lại” (Các Mác) [18, tr.174]. Chủ nhân của một trong những kho tàng đó chính là tộc người Ê Đê cùng các sáng tác vô giá. Sử thi Ê Đê là nội dung hấp dẫn, đã được nghiên cứu sâu trên nhiều phương diện, một trong số đó phải kể đến những tìm hiểu về hệ thống nhân vật của thể loại này. Bằng cách miêu tả đặc biệt, với lối diễn đạt ấn tượng, các tác giả dân gian đã khiến cho tác phẩm của mình trở nên hấp dẫn, cuốn hút; khiến nhân vật trong sử thi Ê Đê có những nét đẹp riêng về ngoại hình, hành động khó phai mờ trong lòng người nghe, người đọc. Trong khuôn khổ yêu cầu của luận văn thạc sĩ, với thời gian cho phép, chúng tôi lựa chọn đề tài “Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm” để tìm hiểu việc thể hiện từ ngoại hình đến hành động, tính cách, phẩm chất của nhân vật trong sử thi Ê Đê. Lựa chọn đề tài “Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm”, một mặt chúng tôi kế thừa những nghiên cứu đi trước đồng thời dựa trên những nguồn tư liệu mới được công bố về một số tác phẩm sử thi để tìm hiểu kĩ hơn vấn đề của đề tài. Qua đó, chúng tôi hy vọng sẽ thu nhận được thêm nhiều tri thức về loại hình tự sự dân gian không hẳn mới mẻ, song chắc chắn còn nhiều điều lý thú này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sử thi Tây Nguyên thực sự là một mảnh đất màu mỡ mà ở đó nhiều nhà nghiên cứu đã “cày xới” tạo nên những công trình có giá trị tiêu biểu. Chỉ tính riêng ở Việt Nam, việc nghiên cứu sử thi đã bắt đầu từ cách đây khá nhiều năm gắn với tên tuổi các tác giả Võ Quang Nhơn, Phan Đăng Nhật, Đỗ Hồng Kỳ... Chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình như: Sử thi anh hùng Tây Nguyên – Võ Quang Nhơn [20], Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam [14], Sử thi Ê Đê [15], Vùng sử thi Tây Nguyên [16], Nghiên cứu sử thi Việt Nam [17] cùng của tác giả Phan Đăng Nhật; Sử thi Tây Nguyên [24] của nhiều tác giả; Hệ thống nghệ thuật cuả sử thi Tây Nguyên – Phạm Nhân Thành [22]... Ngoài những công trình trên có nghiên cứu hoặc đề cập đến vấn đề thể hiện nhân vật trong các sáng tác sử thi nói chung thì chúng tôi cũng tiếp cận được các công trình nghiên cứu riêng về sử thi Ê Đê như cuốn Sử thi Ê Đê – Phan Đăng Nhật [15], Văn học dân gian Ê Đê, Mơ Nông – Trương Bi (chủ biên) [1], Văn học dân gian Ê Đê, Mơ Nông – Đỗ Hồng Kỳ [13], Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 9, Sử thi Ê Đê – Viện khoa học xã hội Việt Nam [25]... Trong những nghiên cứu trên, vấn đề mà chúng tôi lựa chọn tìm hiểu đều ít nhiều được nói đến. Ở cuốn Sử thi anh hùng Tây Nguyên [20], tác giả Võ Quang Nhơn đã đề cập đến việc thể hiện nhân vật thông qua một hệ thống nghệ thuật liên hoàn, có quan hệ hữu cơ với nhau. Vẻ đẹp ngoại hình của con người được giới thiệu với cách nói ví von, giàu hình ảnh “khi mô tả chàng trai thì người nghệ sĩ kể khan nói như sau: “Anh đi trên đường cái thoăn thoắt như con rắn prao huê. Anh đi trong đám cỏ tranh lanh như rắn prao howmat... Mỗi khi anh giẫm mạnh vào ngạch cửa làm sàn nhà rung rinh bảy lần...”. Đó là vừa nhanh nhẹn, mềm mại, vừa khỏe khoắn của chàng trai. Còn khi mô tả cô gái thì sử thi dùng những lời như sau: “Nàng đi đủng đỉnh, thân hình uyển chuyển như cành cây blô sai quả, mềm dẻo như những cành trên ngọn cây, gió đưa đi đưa lại... Nàng đi như chim phượng bay, như chim diều lượn trên không, như nước chảy dưới suối...” Lối nói ví von của khan, khắc họa một cách sắc sảo, rõ ràng vẻ đẹp duyên dáng nhẹ nhàng, uyển chuyển của các cô gái Tây Nguyên như bay lượn trên không, chứ không phải đi dưới đất nữa” [20, tr. 82]. Ngoài ra, tác giả Võ Quang Nhơn cũng đề cập đến những đặc điểm thi pháp khác giúp xây dựng nhân vật anh hùng trong sử thi như ngôn ngữ kịch, tình thế tương phản... Với điểm tựa này, chúng tôi mong muốn có thể nghiên cứu được cách thể hiện của nhiều dạng nhân vật trong sử thi. Tác giả Phan Đăng Nhật trong cuốn Sử thi Ê Đê [15] có nghiên cứu kĩ nhân vật anh hùng như một hình ảnh thẩm mỹ tiêu biểu của sử thi. Ông đã nhân định rất chính xác rằng: “Về mọi mặt, hình thức cũng như nội dung, tài năng cũng như đức tính các nhân vật anh hùng khan là một kiểu mẫu của CÁI ĐẸP, cái tuyệt vời, siêu việt và phi thường; một hình ảnh con người lý tưởng không những hơn hẳn mọi người thường trên thế gian mà đạt đến tầm của thần thánh” [15, tr.182]. Vấn đề thể hiện nhân vật theo tác giả không chỉ tập trung ở việ miêu tả ngoại hình mà còn cả ở hành động, tâm lý, tính cách. Đặc biệt, tâm lý của nhân vật được hành động hóa một cách tài tài tình, “các hiện tượng tâm lý trừu tượng của con người được khan chuyển thành hành động cụ thể” [15, tr 34]. Nhân vật hiện lên sống động qua từng lời kể bởi các biện pháp nghệ thuật như phép cường điệu, phóng đại, so sánh với tính hình tượng cao. Mặc dù chỉ đề cập đến nhân vật anh hùng trong hệ thống hệ thống rất nhiều nhân vật của sử thi Ê đê nhưng thông qua nghiên cứu của tác giả Phan Đăng Nhật, chúng tôi có gợi dẫn để nghiên cứu sâu hơn về nhân vật người anh hùng nói riêng cũng như các nhân vật khác nói chung trong sử thi Mdrong Dăm. Ngoài ra, việc tác giả khẳng định: “Lấy tư duy cụ thể thay cho tư duy trừu tượng là một đặc điểm của người Ê Đê và các dân tộc ở trình độ xã hội tương tự” [15, tr.34] cũng giúp chúng tôi mạnh dạn so sánh cách thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê với sử thi Mơ Nông. Tiếp tục vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đọc được cuốn Văn học dân gian Ê đê, Mơ nông [13] của tác giả Đỗ Hồng Kỳ. Trong cuốn sách này tác giả đã phân chia hệ thống nhân vật trong sử thi Ê Đê gồm: nhân vật trung tâm, nhân vật mtao (tù trưởng), nhân vật nữ tài sắc, nhân vật bà Duôn Sun và cháu gái, nhân vật Aê Du, Aê Diê (ông trời). Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến hệ thống thi pháp của sử thi Ê Đê. Cuốn sách của tác giả Đỗ Hồng Kỳ khá gần với đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhưng nội dung mới chỉ đề cập đến vấn đề chung, khái quát; nghiên cứu về nhân vật mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài, chưa tìm hiểu sâu trên các phương diện hành động, tính cách... Kế thừa nghiên cứu của tác giả, chúng tôi mong muốn sẽ triển khai được vấn đề của luận văn một cách cụ thể và sâu sắc hơn. Đa dạng và đầy đủ hơn, tác giả Phạm Nhân Thành trong cuốn Hệ thống nghệ thuật của sử thi Tây Nguyên [22] đã trình bày về đặc điểm các nhân vật chính trong sử thi Tây Nguyên trong chương hai khá rõ nét Nghiên cứu đã chia nhân vật chính trong sử thi ra làm bốn loại: nhân vật anh hùng, nhân vật người đẹp, nhân vật đối địch, nhân vật tượng trưng. Đồng thời, trong chương ba, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong quá trình xây dựng nhân vật cũng được bàn tới. Cuốn sách đã giúp chúng tôi nhiều trong việc tìm hiểu về các dạng nhân vật trong sử thi Mdrong Dăm của người Ê Đê. Gần đây, tác giả Phạm Văn Hóa với bài báo “Hình tượng người đẹp Tây Nguyên trong sử thi” đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam [6] đã bàn riêng về vẻ đẹp bên ngoài cũng như vẻ đẹp phẩm chất của những nhân vật phụ nữ trong các sáng tác sử thi Tây Nguyên. Tuy nhiên, do khuôn khổ của một bài báo, lại tìm hiểu trên nhiều nhân vật nên chỉ mới là điểm qua chứ chưa phân tích sâu vào một nhân vật phụ nữ cụ thể của một tác phẩm. Nhưng đây cũng là gợi dẫn để chúng tôi khai thác về nhân vật người phụ nữ nói riêng cũng như các nhân vật khác nói chung trong sử thi Mdrong Dăm của dân tộc Ê Đê. Những nghiên cứu đã tiếp cận được điểm qua trên đây cũng như những nghiên cứu chưa được đề cập đến (do phạm vi có hạn của luận văn) chính là điểm tựa, là gợi dẫn để chúng tôi tiếp thu, kế thừa trong quá trình triển khai đề tài “Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm”, Chúng tôi cũng mong muốn tìm hiểu sâu việc thể hiện nhân vật trong một tác phẩm sử thi Ê Đê cụ thể và có sự so sánh đối chiếu về vấn đề này với sử thi Mơ Nông. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Với đề tài “Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm”, chúng tôi nghiên cứu cách thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê thông qua tác phẩm Mdrong Dăm [27] - được sưu tầm và công bố thời gian gần đây (năm 2006). Với việc lựa chọn của mình, chúng tôi hi vọng có thể nghiên cứu tốt một vấn đề cũ nhưng trên một nguồn tư liệu mới. Để nhận diện cái riêng của sử thi Ê Đê trong vấn đề nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu, so sánh đối chiếu nội dung liên quan ở tác phẩm của sử thi Mơ Nông: Lêng giành lại cây nêu ở bon Ting, Yông con Gâr [30]. Đây cũng là tác phẩm rất mới, được sưu tầm và công bố gần đây (năm 2011). 4. Mục đích nghiên cứu - Thấy được những nét đặc sắc trong miêu tả nhân vật tù trưởng, nhân vật phụ nữ chính và các nhân vật khác qua ngoại hình, hành động, tính cách… trong sáng tác của nghệ nhân dân gian Ê Đê trên cơ sở nghiên cứu tác phẩm Mdrong Dăm. - So sánh, đối chiếu để thấy điểm tương đồng, khác biệt cũng như bước phát triển trong việc miêu tả con người giữa sử thi Ê Đê và sử thi Mơ nông. - Thấy được đặc trưng thi pháp miêu tả con người trong sáng tác sử thi được lựa chọn cũng như sử thi Ê Đê nói riêng và sử thi Tây Nguyên nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Với đề tài “Vấn đề thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm”, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: Đọc, phân loại. Đây là tháo tác đầu tiên giúp xác định được những dạng nhân vật cần tìm hiểu. Thống kê. Phương pháp này có nhiệm vụ sơ lược thống kê những dạng nhân vật, tần suất của các yếu tố trong cách thể hiện nhân vật của sử thi hai dân tộc Ê Đê và Mơ Nông. Phân tích. Đây là phương pháp cơ bản giúp tìm hiểu rõ ràng cách thể hiện nhân vật của sử thi Ê Đê. So sánh. Phương pháp này giúp đối chiếu để thấy được trong cách thể hiện nhân vật của sử thi Ê Đê và Mơ Nông cớ sự tương đồng và khác biệt từ đó lí giải nguyên nhân. Tổng hợp, khái quát. Đây là phương pháp giúp nhận ra những nét chung trong cách thể hiện nhân vật của dân tộc Ê Đê và Mơ Nông. 6. Cấu trúc: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì nội dung chính của luận văn được triển khai qua ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan về Tây Nguyên, dân tộc Ê Đê và sử thi Ê Đê Chương 2: Các dạng nhân vật và thi pháp thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê qua tác phẩm Mdrong Dăm Chương 3: So sánh việc thể hiện nhân vật trong sử thi Ê Đê với sử thi Mơ Nông CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÂY NGUYÊN, DÂN TỘC Ê ĐÊ VÀ SỬ THI Ê ĐÊ 1.1. Thiên nhiên, xã hội, con ngƣời Tây Nguyên Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên ở các cao nguyên cao 400 - 500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới. Tây Nguyên là vùng đất được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên. Tây Nguyên có đến 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ, chủ yếu tại Gia Lai và Đắk Lắk. Tây Nguyên còn là vùng trồng dâu tằm, nuôi tằm tập trung lớn nhất nước ta, nhiều nhất là ở Bảo Lộc. Đây cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn. Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái. Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Tây Nguyên có khoảng 20 dân tộc khác nhau. Nói là “khoảng” vì có dân tộc theo bảng phân định dân tộc chính thức của nhà nước hiện nay được coi là một nhánh của một dân tộc chung lớn hơn, nhưng cho đến nay lại không chịu chấp nhận cách phân loại đó mà tự coi mình là một dân tộc riêng. Như người Cà Dong ở miền núi tây Quảng Nam, theo bảng phân loại dân tộc học của nhà nước là một nhánh của dân tộc Xơ Đăng, nhưng hầu hết người Cà Dong nhất định tự coi mình là một dân tộc riêng với tất cả các đặc điểm riêng của một dân tộc độc lập… Các dân tộc ở Tây Nguyên thuộc hai ngữ hệ khác nhau: Môn-Khơme (hay Nam Á) và Malayo-Polynésien (hay Nam Đảo). Quan sát sự phân bố các dân tộc ở Tây Nguyên theo ngữ hệ có thể thấy một điều đáng chú ý: thuộc ngữ hệ Môn-Khơme có các dân tộc ở Bắc Tây Nguyên từ khoảng giữa tỉnh Gia Lai hiện nay trở ra, như các dân tộc Xơ Đăng, Cơ Tu, Dẻ Triêng, Rơ Mâm, Ba Na, Brâu…, và các dân tộc ở miền Nam Tây Nguyên từ nửa tỉnh Đắc Lắc trở vào như các dân tộc Mơ Nông, Kơ Ho, Mạ, Sre, Stiêng… Chen vào giữa, trên vùng đất từ giữa tỉnh Gia Lai hiện nay cho đến nửa tỉnh Đắc Lắc, là các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-Polynésien gồm người Gia Rai, người Ê Đê, người Chu Rú, người Rakglei. Người Chàm sống ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ cũng thuộc ngữ hệ này. Đông, mạnh nhất ở Tây Nguyên là dân tộc Gia Rai, rồi đến người Ê Đê, người Ba Na, người Xơ Đăng… Cũng có những dân tộc rất nhỏ như người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người… Trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền, vẫn còn rất đậm nét cho đến tận ngày nay, làng là đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Không có đơn vị xã hội cao hơn làng. Trong nhiều ngôn ngữ các dân tộc Tây Nguyên không có từ để chỉ đơn vị cao hơn làng. Bon trong tiếng Mơ Nông, Buôn trong tiếng Ê Đê, Plei trong tiếng Gia Rai, Ba Na, Veil trong tiếng Cơ Tu… đều có nghĩa là làng. Ngày trước trong một số dân tộc có từ T’ring dùng để chỉ liên minh giữa một số làng, nhưng đấy chỉ là những liên minh tạm thời để cùng nhau đối phó với một số trở lực nào đó, khi trở lực ấy đã được giải quyết thì những liên minh đó cũng tan rã, không hề có lãnh thổ và tổ chức hành chính tương đương. Trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên cũng không có đơn vị nhỏ hơn làng. Ở đây ý thức về cá nhân chưa phát triển, không có cá nhân độc lập đối với làng. Con người là một bộ phận nhỏ chìm trong cộng đồng làng, hòa tan trong làng, không thể tách rời khỏi làng. Ở Tây Nguyên, hình phạt nặng nề nhất, nổi đau đớn lớn nhất, điều nhục nhã nhất đối với một người là bị đuổi khỏi làng. Nếu ta thường nói người Tây Nguyên có tính cộng đồng rất cao, thì tính cộng đồng đó là tính cộng đồng làng, thậm chí còn sâu đậm và cụ thể hơn cả ý thức về tộc người. Một người Ê Đê biết mình là người Ê Đê, nhưng ý thức về tộc người Ê Đê không sâu đậm bằng ý thức về làng của mình. Ngày trước, trong chiến tranh bộ lạc, không phải chẳng hạn mấy làng Ê Đê này liên minh lại đi đánh nhau với mấy làng Mơ Nông kia, mà là hai ba làng Ê Đề này liên minh với vài ba làng Mơ Nông kia đi đánh hai ba làng Ê Đê khác liên minh với vài ba làng Mơ Nông khác. Con người Tây Nguyên có nhiều phẩm chất đẹp, để lại những ấn tượng sâu sắc cho ai đã từng tiếp xúc với họ. Ấn tượng đầu tiên là sự trầm lặng, ít nói. Nhưng đó là sự im lặng lắng sâu của núi rừng. Từ sự trầm lặng dồn nén ấy, đến mùa lễ hội sẽ bùng lên thành những con người mang phẩm chất khác, đó là phẩm chất nghệ sĩ được hấp thụ trong sự phong phú của những điệu nhạc rừng tuôn chảy từ thuở hồng hoang. Con người nghệ sĩ ấy thể hiện trước hết ở tâm hồn phóng khoáng, lấy lang thang phiêu bạt làm niềm vui của cuộc đời, không chịu ràng buộc bởi yếu tố vật chất. Trong mùa "ăn năm uống tháng" họ lang thang, uống rượu, vui chơi, ca hát đến quên cả thời gian. Có lẽ do sống trong môi trường phóng khoáng của tự nhiên dẫn đến sự phóng khoáng trong tính cách và tâm hồn. Môi trường rừng với sự phong phú của sản vật cùng những bí ẩn đã thôi thúc con người khám phá, chính vì vậy mà người Tây Nguyên có thói quen thích lang thang trong rừng, xem đó là một thú vui lớn. Dần dần, lang thang đã trở thành một lẽ sống - lẽ sống nghệ sĩ. Tuy nhiên lang thang phiêu bạt chưa phải là biểu hiện rõ nhất và phong phú nhất của con người nghệ sĩ Tây Nguyên. Đặc điểm nổi bật chính là năng khiếu âm nhạc và điêu khắc, trong đó khả năng âm nhạc là hàng đầu. Đối với họ, có hai hình thức sinh hoạt chủ yếu là làm rẫy để có cái ăn vật chất và sinh hoạt âm nhạc để có "cái ăn" tinh thần. Với thể chất cường tráng, họ có thể lao động không ngơi nghỉ; với tâm hồn khoẻ khoắn và tư chất âm nhạc bẩm sinh, họ có thể đánh đàn ca hát suốt đêm, thậm chí là suốt đời. Có lẽ vì vậy mà Nguyên Ngọc đã từng khẳng định rằng ở Tây Nguyên không có nghệ sĩ chuyên nghiệp. Người ta không làm nghệ thuật. Nghệ thuật tuyệt đối không phải là một nghề. Nghệ thuật là đời sống, cách sống, thế thôi. Là hơi thở, là không khí. Con người Tây Nguyên do vậy luôn đậm đặc chất nghệ sĩ. Chất nghệ sĩ ấy đã làm nên một đời sống văn hóa lễ hội đặc sắc trên đất Tây Nguyên hùng vĩ và trữ tình. Hiểu được về vùng đất và cuộc sống của con người nơi đại ngàn Tây Nguyên sẽ giúp ta hiểu về những dân tộc sống ở nơi đây nói chung cũng như tộc người Ê Đê và nền văn hóa của họ nói riêng. 1.2. Dân tộc Ê Đê và sử thi Ê Đê 1.2.1. Dân tộc Ê Đê Ê Đê là cộng đồng có gần 195.000 người có địa bàn cư trú tương đối tập trung ở tỉnh Đắc Lắc và miền tây hai tỉnh Khánh Hoà, Phú Yên. Ngoài ra, còn có các nhóm địa phương như Kpa, Adham, Bih, Ktul…với những tên gọi khác như Rađê, Đê, Kpa, Ktul… Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bih làm ruộng nước theo lối cổ xưa có trâu dẫm đất thay cho việc cày xới. Người Ê Đê không đi vào cải tiến những công cụ làm rẫy mà tập trung vào thay đổi các khâu canh tác để giữ gìn cải tạo đất như luân canh, xen canh…Khai thác những đặc điểm khác biệt của tiểu khí hậu chẳng hạn như khi phơi rẫy thì gặp nắng, trỉa lúa thì có mưa…Người Ê Đê có rất nhiều hiểu biết về những biến đổi thời tiết hàng năm, về đất đai, cây cỏ, muông thú. Mặc dù đó mới chỉ là những tri thức ở dạng kinh nghiệm dân gian. Ở trình độ phát triển tư duy của mình, người Ê Đê vẫn quan niệm rằng những thành bại của nghề nương rẫy là do thần linh. Vì vậy, song song với việc canh tác nương rẫy, người Ê Đê còn tiến hành các lễ nghi nông nghiệp, tìm sự trợ giúp của thần linh với ước mong về mùa màng bội thu sung túc. Canh tác nương rẫy theo kiểu luân canh đã hình thành cho ngưòi Ê Đê một thói quen di chuyển thường xuyên. Cũng như những dân tộc làm nương rẫy khác, từ xa xưa người Ê Đê cư trú nửa năm ở ngoài nương, nửa năm ở trong buôn. Đến khi có thiên tai, đất đai khan hiếm, người Ê Đê còn di chuyển cả buôn làng đến một nơi ở mới. Tại đây họ chặt phá cây làm nhà, đốt rừng làm nương. Chính lối canh tác đó đã khiến cho đồng bào Ê Đê một tập quán sinh hoạt du canh du cư, tự do, tạm bợ, tuỳ tiện. Chăn nuôi của người Ê Đê cũng khá phát triển, mỗi gia đình thường có từ vài con đến vài chục con, có khi tới hàng trăm con trâu bò. Ngoài trồng trọt, người Ê Đê còn làm những việc như săn bắt, hái lượm, đánh cá, dệt… Sống giữa thiên nhiên, núi rừng hoang dã, người Ê Đê từ xa xưa có nghề săn bắn, thuần phục voi. Ngoài ra họ hái lượm, săn bắt những thứ rau quả, măng nấm, cá tôm, một số côn trùng ăn được…Ngoài nhu cầu sinh nhai, đó còn là cách để họ quay về với thế giới thiên nhiên thân thuộc của mình. Các nghề thủ công chưa trở thành nghề độc lập với kinh tế nông nghiệp. Đồng bào tự làm lấy các công cụ sản xuất, các đồ nan, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ đất nung hợp với nhu cầu sinh hoạt của dân tộc. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế của xã hội, người Ê Đê cũng có những thay đổi trong đời sống lao động của mình đó là việc mở rộng những ngành nghề mới. Trồng cà phê hiện được coi là một nghề quan trọng của đồng bào Ê Đê. Về trang phục thì phụ nữ Ê Đê thường quấn váy dài chớm gót, mặc áo chui đầu ngắn trên gai hông, có hoa văn ở vai, nách và cổ tay. Đàn ông Ê Đê đóng khố, mặc áo chui đầu, thân sau dài quá mông với mảng vải đỏ giữa ngực, có đường hoa văn dọc hai bên nách, suốt ngang gấu áo thân sau và có những tua sợi thắt nút lồng hạt cườm. Người Ê Đê ở nhà sàn. Ngôi nhà sàn Ê Đê nhìn từ xa tựa như con thuyền. Cầu thang lên nhà được làm bằng một tấm gỗ liền thân, đầu trên hơi uốn cong; ở đó chạm hình mặt trăng khyết, hình con chim cu đất, hay đôi vú phụ nữ căng tròn. Nhà sàn là nơi cư trú của đại gia đình mẫu hệ Ê Đê. Gian trong bao gồm các tiểu gia đình, mỗi tiểu gia đình đều có một bếp nấu ăn uống lớn. Đứng đầu ngôi nhà dài là một phụ nữ nhiều tuổi, có uy tín phân công lao động, quản lí tài sản, giải quyết những mối bất hòa trong phạm vi gia đình. Trong sinh hoạt của xã hội Ê Đê, các hoạt động nghi lễ tín ngưỡng chiếm vị trí hết sức quan trọng. Vai trò của những thầy cúng, thầy bói được đặc biệt đề cao. Ngoài ra, còn phải kể đến những nghệ nhân dân gian gọi là Pôkhan (người kể Khan), PôMtul Ching (người sửa chiêng)… Trong đời sống, người Ê Đê vẫn bảo lưu tàn dư của xã hội tiền giai cấp: lấy buôn làng làm đơn vị tổ chức xã hội nhỏ nhất. Hợp thành buôn là các gia đình, đại gia đình theo chế độ mẫu hệ. Trong xã hội Ê Đê truyền thống dòng họ đóng vai trò hết sức quan trọng. Người Ê Đê có tập tục chuê nuê. Tập tục quy định: nếu trong hai vợ chồng có một người chết thì gia đình người qúa cố phải tìm người thế vào. Người Ê Đê luôn luôn coi gia đình, cả đại gia đình mẫu hệ là một “hruh malao” (tổ ấm). Nếu không may, một trong hai người chết đi, con trẻ sẽ rỡi vào tình trạng thiếu người nuôi nấng, dạy bảo. Đối với người đàn ông già chết vợ cũng vậy, nếu không có người nuê thì ông ta phải trở về nhà cha mẹ để ở với cháu gái (lúc này cha mẹ đã rất già hoặc đã chết). Việc chuê nuê giúp cho con trẻ, người già góa bụa có nơi nương tựa, có được cái không khí thân mật, ấm cúng của gia đình. Đó chính là tính nhân văn của hiện tượng này. Ngày nay, tục lệ này vẫn còn tồn tại ở những mức độ khác nhau. Trong số những dân tộc thiểu số ở nước ta, Ê Đê là dân tộc có đời sống tinh thần phong phú. Người Ê Đê cho rằng thế giới có ba tầng: tầng đất, tầng trời và tầng dưới mặt đất. Ở ba tầng đó đều có các vị thần trú ngụ. Trong xã hội Êđê truyền thống, đời sống hiện thực của con người luôn gắn bó chặt chẽ với tín ngưỡng, nghi lễ. Các thần linh là những lực lượng chi phối đến đời sống hiện thực của con người. Con người muốn có đựơc sự bình yên, sản xuất và chiến đấu với các bộ lạc khác được thuận lợi phải cầu xin để tìm sự che chở của các đấng siêu nhiên. Vì còn phát triển ở trình độ tiền chữ viết, nền văn hoá của người Ê Đê về cơ bản vẫn là văn hoá dân gian. Kho tàng văn hoá dân gian của đồng bào nơi đây bao gồm khá nhiều thể loại truyện thơ, ngụ ngôn và đặc biệt là những tấc phẩm sử thi – klei khan được truyền miệng từ đờì này sang đời khác như “Đăm Săn”, “Đăm Di”, “Xinh Nhã”… và đặc biệt là tác phẩm “Mdrong Dăm” mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu. Khan của người Ê Đê là những tác phẩm văn học dân gian được các nhà nghiên cứư phát hiện sớm nhất trong số những di sản văn hoá còn lại của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. 1.2.2. Sử thi Ê Đê Cũng như các dân tộc anh em, trong ngữ văn dân gian, người Ê Đê thường dung ba hình thức ngôn ngữ và thơ ca để phản ánh cuộc sống, diễn đạt tâm hồn tư tưởng của mình. Thứ nhất là ngôn ngữ thông thường; thứ hai là lời nói vần được gọi là duê; thứ ba là ca hát. Như vậy là, người Ê Đê có ba loại hình văn học dân gian: Loại hình kể chuyên xưa được diễn đạt bằng lời nói thông thường; loại hình đúc kết kinh nhiệm được diễn đạt bằng lời nói vần; loại hình phô diễn tâm tình được diễn đạt bằng ca hát dân gian. Sự phân loại trên đây không hoàn toàn chặt chẽ và ranh giới giữa các loại hình cũng không hoàn toàn dứt khoát. Nổi bật trong văn học dân gian Ê Đê phải kể đến Klei khan. Trong tiếng Ê Đê, klei là lời, bài, còn khan là hát kể. tuy nhiên hát ở đây không phải là hát thông thường, mà là hát bao hàm ý nghĩa ngợi ca. Klei khan là một hình thức truyện kể tổng hợp được thông qua hát kể. Nghệ nhân khan – sử thi đã thu hút, sử dụng các hình thức ngôn ngữ giao tiếp, lời cúng thần, tập quán pháp, thành ngữ, tục ngữ, ca dao – dân ca, một số “điển tích” của thần thoại, cổ tích vào trong các tác phẩm khan. Về phương diện nội dung, klei khan là bức tranh rộng lớn về cuộc sống vật chất và tinh thần của người Ê Đê. Nội dung cơ bản của khan - sử thi là kể chuyện các nhân vật anh hùng trong mối quan hệ với con người và thần linh, trong đó chủ yếu là tường thuật các trận đánh nhau giữa hai lực lượng đối lập nhau về quyền lợi. Về phương thức thể hiện, khan – sử thi kết hợp phương thức trần thuật khách quan và phóng đại hiện thực. Nhìn chung, mạch văn nhịp nhàng, đôi khi ào ạt, có sức lôi cuốn, hấp dẫn người khác. Khi diễn xướng khan, nghệ nhân chủ yếu chỉ dùng ngôn ngữ và giọng điệu để biểu đạt nội dung truyện kể, rất ít người dùng động tác nào đó để mô phỏng cử chỉ, hành động của nhân vật. tùy theo nội dung cụ thể của truyện kể mà nghệ nhân có giọng điệu sao cho phù hợp, nhằm đưa lại hiệu qủa nhận thức – thẩm mĩ cao nhất cho người nghe. Nhìn chung, hát kể khan được tiến hành theo một chu kì khá đơn giản. Khi bắt đầu, giọng nghệ nhân từ thấp lên cao, diễn tả hết một câu, một ý thì giọng nghệ nhân ngân dài để ngắt câu, chuyển ý. Sau khi ngắt câu, chuyển ý, nghệ nhân lại có giọng như lúc bắt đầu khan. Điều kính phục ở đây là nội dung khan được người diễn xướng diễn đạt bằng nhiều làn điệu. Khi thì nói vần, khi thì ngân nga, khi thì hát, sự cuốn hút, hấp dẫn người nghe của khan chủ yếu là ở ngôn ngữ, âm điệu, hình ảnh nội dung lời khan và giọng kể, ngâm của nghệ nhân. Ngoài ra thường không có nhạc kèm theo. Klei khan được kể trong các buổi sinh hoạt công cộng có cúng lễ hoặc không có cúng lễ vào giai đoan vui chơi của buổi sinh hoạt. Klei khan được hát kể tại ba địa điểm: trong chòi, ở trên rẫy, lễ bỏ mả và trong gian khách của ngôi nhà dài. Khan thường được diễn xướng trước đám đông. Sự có mặt đông đúc của công chúng sẽ làm cho nghệ nhân càng thêm hứng khởi. Công chúng khan đa dạng hơn công chúng của các hình thức văn học dân gian khác, cảm xúc thẩm mĩ của họ khi nghe khan cũng phong phú, đa dạng hơn. Sinh hoạt khan không thể tách rời không khí hòa hợp với tinh thần cộng đồng hân hoan của các sinh hoạt tập thể của người Ê đê với các hoạt động của nó như chiêng trống, cúng lễ, uống rượu cần… Một không khí tràn ngập hội hè ăn uống mà đồng bào gọi là “ăn năm, uống tháng”. Sinh hoạt khan dẫu có được tổ chức sau buổi sinh hoạt công cộng có cúng lễ hay không thì nó cũng không mang tính chất nghi lễ tín ngưỡng mà mang tính chất văn học nghệ thuật. Đặc biệt để có xúc cảm và niềm tin chân thành về toàn bộ các hoạt động thần kì và không khí thần thoại trong khan, toàn bộ quá trình sang tạo, trình diễn và thưởng thức khan đều phải tắm trong quan niệm mà các nhà nghiên cứu gọi là quan niệm về sự huyền ảo có thật.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất