Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tục ngữ người việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và c...

Tài liệu Tục ngữ người việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội

.PDF
100
238
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- THÁI PHƢƠNG THẢO TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội, 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- THÁI PHƢƠNG THẢO TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI Chuyên ngành : Văn học dân gian Mã số : 60 22 36 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS .TS Nguyễn Xuân Kính Hà Nội, 2013 MỤC LỤC MỤC LỤC ............................................................................................................................. 1 QUY ƢỚC TRèNH BÀY ...................................................................................................... 5 1. Kớ hiệu viết tắt............................................................................................................ 5 2. Về xuất xứ tài liệu ....................................................................................................... 5 MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 6 2. Lịch sử nghiờn cứu vấn đề ............................................................................................. 7 3. Giới thuyết một số khỏi niệm ..................................................................................... 9 4. Mục đớch và nhiệm vụ nghiờn cứu ............................................................................. 10 5. Đối tƣợng nghiờn cứu .................................................................................................. 10 6. Phƣơng phỏp nghiờn cứu ............................................................................................. 11 7. Bố cục của luận văn ..................................................................................................... 11 Chƣơng 1. ............................................................................................................................ 12 TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIấN .................................................................................................................. 12 1.1. Dự đoỏn thời tiết ................................................................................................... 12 1.1.1. Dự đoỏn thời tiết qua việc chiờm nghiệm những triệu chứng bỏo trƣớc của thiờn nhiờn ................................................................................................................... 12 1.1.2. Dự đoỏn thời tiết qua việc quan sỏt động vật .................................................... 19 1.1.3. Dự đoỏn thời tiết qua việc quan sỏt thực vật ..................................................... 21 1.2. Ứng dụng trong việc canh tỏc nụng nghiệp .............................................................. 23 1.2.1. Ứng dụng trong trồng lỳa .................................................................................. 23 1.2.2. Kinh nghiệm trồng một số loại cõy khỏc ........................................................... 31 1.3. Ứng dụng trong chăn nuụi ........................................................................................ 34 1.3.1. Kinh nghiệm đỏnh bắt cỏ ............................................................................... 34 1.3.2. Kinh nghiệm chăn thả gia sỳc gia cầm .............................................................. 36 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................................... 39 Chƣơng 2. ............................................................................................................................ 40 TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI .................................................................................................... 40 2.1. Mối quan hệ trong gia đỡnh ...................................................................................... 40 2.1.1. Mối quan hệ giữa ụng bà - chỏu, cha mẹ - con: ................................................ 40 2.1.2. Mối quan hệ vợ chồng........................................................................................ 45 2.1.3. Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dõu, bố mẹ vợ – con rể, dỡ ghẻ – con chồng, bố dƣợng – con vợ: ........................................................................................................... 49 2.1.4. Mối quan hệ giữa anh chị em ruột trong gia đỡnh: .......................................... 52 2.1.5. Mối quan hệ họ hàng ......................................................................................... 55 2.2. Tục ngữ phản ỏnh mối quan hệ ngoài xó hội. .......................................................... 58 2.2.1. Mối quan hệ bạn bố, thầy trũ trong tục ngữ ...................................................... 58 2.2.2. Mối quan hệ đồng bào, hàng xúm lỏng giềng: .................................................. 62 2.2.3. Mối quan hệ giữa chủ và ngƣời làm thuờ .......................................................... 64 2.2.4. Mối quan hệ vua quan và dõn trong tục ngữ ..................................................... 65 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................................... 69 Chƣơng 3. ............................................................................................................................ 70 SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN QUA MẢNG ĐỀ TÀI VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIấN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ....................................................... 70 3.1. Xột về mặt nghĩa. ...................................................................................................... 70 3.1.1. Nghĩa của những cõu tục ngữ phản ỏnh tri thức về thế giới tự nhiờn ............... 71 3.1.2. Nghĩa của những cõu tục ngữ phản ỏnh tri thức về cỏc mối quan hệ xó hội .... 73 3.2. Xột về mặt cấu trỳc .................................................................................................. 77 3.2.1. Cấu trỳc của những cõu tục ngữ phản ỏnh thế giới tự nhiờn ............................ 78 3.2.2. Cấu trỳc của những cõu tục ngữ phản ỏnh cỏc mối quan hệ xó hội.................. 80 3.3. Xột về cỏch gieo vần và nhịp điệu ............................................................................ 82 3.3.1. Về cỏch gieo vần : .............................................................................................. 82 3.3.2. Nhịp điệu : ......................................................................................................... 85 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ...................................................................................................... 92 KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 95 QUY ƢỚC TRÌNH BÀY 1. Kí hiệu viết tắt GS: giáo sƣ TS: Tiến sĩ Nxb: Nhà xuất bản Tr: Trang 2. Về xuất xứ tài liệu Các yếu tố xuất xứ tài liệu (tác giả, năm, tên tài liệu, nhà xuất bản, nơi xuất bản (hoặc tên tạp chí, nơi xuất bản…)). MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tục ngữ đƣợc coi là cái “túi khôn” hay hơn thế, là kho báu trí tuệ của nhân dân. Túi khôn hay kho báu trí tuệ ấy mang tính thực hành, biết để làm, biết để sửa đổi những sai lầm, những lệch lạc mắc phải. Tục ngữ đƣợc chia làm 3 loại cơ bản đó là: kinh nghiệm giúp cho ngƣời ta làm theo, biết định hƣớng công việc và dạy cho con ngƣời biết phân biệt thiệt hơn, phải trái để sống tốt hơn giữa ngƣời với ngƣời. Đọc tục ngữ ta thấy muôn mặt của cuộc sống đƣợc phản ánh một cách sinh động, đầy đủ, tỉ mỉ. 1.2. Tục ngữ Việt phản ánh đời sống của các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác nhau chủ yếu là nhân dân lao động và tình hình đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột của nhân dân trong xã hội phong kiến [5, tr.250]. Tục ngữ đúc rút mọi kinh nghiệm của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần. Nó mang những yếu tố tƣ tƣởng triết học của cha ông. Giá trị lớn nhất của tục ngữ là những kinh nghiệm sống, cách sống giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội cũng nhƣ cách ứng dụng của con ngƣời với thế giới xung quanh. Ngƣời nông dân xét đoán con ngƣời qua cách ứng xử, thái độ ăn ở trong gia đình, bạn bè cũng nhƣ ngoài xã hội nhằm giữ gìn những truyền thống văn hoá quý giá của dân tộc. Nó phản ánh đầy đủ những đức tính của con ngƣời Việt với lòng nhân ái, tính vị tha và tinh thần đấu tranh chung. Ngƣời nông dân ấy còn biết trông trời, trông đất, dự đoán thời tiết để tìm cách ứng phó kịp thời với sự thay đổi bất thƣờng của thiên nhiên và từ đó chinh phục thiên nhiên và vũ trụ. Tất cả những điều ấy đã góp phần giải thích sức mạnh của ngƣời Việt và những thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh bền bỉ với thiên nhiên và kiên dũng với giai cấp thống trị cũng nhƣ kẻ thù xâm lƣợc. 1.3. Đã từ lâu, ngƣời Việt đã có ý thức giáo dục, hình thành và phát triển con ngƣời không những có đủ phẩm chất nhân cách cao đẹp: trí, dũng, chân, thiện, mỹ… mà còn hƣớng ngƣời ta tới một cái nhìn đầy đủ hơn về xã hội và thiên nhiên. Tìm hiểu sự phản ánh về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội trong tục ngữ Việt sẽ giúp ngƣời nghiên cứu nhận diện những giá trị giáo dục đạo lý cổ truyền của cha ông mà nền giáo dục hiện đại nay cần đƣợc kế thừa và phát huy một cách đầy đủ và nghiêm túc hơn. Trong xã hội ồn ào của một cuộc sống đang trên đà phát triển không ít ngƣời đã xem thƣờng những giá trị vô cùng to lớn ấy. Vì thế, đề cao và bảo vệ những giá trị văn hoá ấy là việc làm cần thiết: nó khẳng định giá trị và tác dụng của tục ngữ trong kho tàng văn hoá quý giá folklore và nền văn học của mọi thời đại. Với lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tục ngữ của ngƣời Việt trong đó có thể kể đến: Giáo trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Tập 1), Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân…. (1961 – 1978) (5lần in) đã đề cập tới những vấn đề của đời sống tự nhiên và xã hội đồng thời cũng đề cập tới giá trị về nội dung và nghệ thuật của tục ngữ. Trong cuốn “Văn học dân gian”, do Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (in lần đầu năm 1972 và tái bản lần thứ 13 năm 2010) đã phác hoạ quá trình lao động sản xuất đƣợc nảy sinh trong việc dự báo thời tiết và quá trình đấu tranh với tự nhiên của nhân dân lao động cũng nhƣ cách ứng xử của con ngƣời trong xã hội cũ. Năm 1973, Hoàng Hữu Triết trong bài “Bƣớc đầu tìm hiểu về khí tƣợng dân gian Việt Nam đã nghiên cứu ca dao tục ngữ nói về khí hậu, thời tiết trong năm ở nƣớc ta qua các mùa. Năm 1975, nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri trong cuốn “Tục ngữ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội đã đề cập đến một số vấn đề quan hệ xã hội, gia đình trong tục ngữ và việc quan sát tự nhiên. Tác giả đã khẳng định tục ngữ Việt biểu hiện lối sống thời đại và lối nghĩ của nhân dân cũng nhƣ khẳng định và phản ánh các mối quan hệ với thiên nhiên và quan hệ xã hội đƣợc điểm xuyết một cách sơ lƣợc. Trong bài viết “Đạo lý và thi pháp dân gian trong tục ngữ Việt Nam” của tác giả Hồ Tôn Trinh trên tạp chí Văn hoá dân gian, số 2 năm 1985 đã chỉ ra kinh nghiệm thu thập trong cuộc sống đƣợc tổng kết và khái quát hoá bằng một số từ theo quy tắc nhằm khẳng định và phủ định từ đó để truyền bá và răn dạy một điều gì đó. Năm 1987, trên tạp chí văn học số 5, Nguyễn Đức Dân đã nghiên cứu “Đạo lý trong tục ngữ” đã đƣa ra những phƣơng pháp nghiên cứu tục ngữ để xác định đạo lý nhân sinh quan của ngƣời Việt thể hiện trong tục ngữ. Năm 2002, phần sƣu tầm trong công trình “Kho tàng tục ngữ ngƣời Việt” do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ biên cùng nhóm biên soạn, nhà xuất bản Văn hoá thông tin, trong đó, vấn đề tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội đƣợc thể hiện đầy đủ và rõ ràng. Ngô Thị Thanh Quý trong cuốn “Tìm trong tục ngữ nét văn hoá Việt” in năm 2010 đã chỉ ra nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của bộ phận cƣ dân lúa nƣớc nhiều nhất trên đất Việt đƣợc đặt ra trong những mối liên hệ hệ thống. Nhìn chung, đã có một số công trình, tài liệu nghiên cứu về sự phản ánh quan hệ tự nhiên và xã hội trong tục ngữ ngƣời Việt, song chƣa có ai dành những trang viết dày dặn, tập trung và có hệ thống trong vấn đề này. Trên cơ sở đó, trong thời gian và phạm vi của luận văn chúng tôi muốn tiếp tục tìm hiểm và hoàn thiện dần những vấn đề mà đề tài đặt ra. 3. Giới thuyết một số khái niệm 3.1. Khái niệm tục ngữ Khái niệm tục ngữ với tƣ cách là một thể loại văn học dân gian. Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con ngƣời và xã hội. Tục ngữ thiên về trí tuệ nên thƣờng đƣợc ví von là “trí khôn dân gian”. Trí khôn đó rất phong phú mà cũng rất đa dạng nhƣng lại đƣợc diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân gian nên thƣờng đƣợc nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn nhƣ lời ăn tiếng nói và khuyên răn. Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa, hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo nên và lƣu truyền qua nhiều thế kỉ. [21, tr.245] 3.2. Khái niệm ngƣời Việt Là bộ phận dân tộc Việt (hay còn gọi là ngƣời Kinh) trong 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất nƣớc Việt Nam. Dân tộc Việt chiếm đại đa số trong tổng số dân cƣ sinh sống trên đất nƣớc ta. 3.3. Khái niệm tri thức dân gian Là những kinh nghiệm lâu đời của nhân dân đƣợc đúc kết từ thực tiễn bằng lời nói hoặc không bằng lời nói. Tri thức dân gian thƣờng đƣợc trình bày bằng ngôn ngữ nghệ thuật vì thế hấp dẫn ngƣời đọc, ngƣời nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền với thời gian. Tri thức dân gian thể hiện quan điểm và nhận thức của ngƣời dân, vì thế có sự khác biệt với nhận thức của giai cấp thống trị cùng thời, đặc biệt là các vấn đề lịch sử và xã hội. 3.4. Thế giới tự nhiên Là toàn bộ những gì tồn tại xung quanh con ngƣời. Đó là toàn bộ hệ thống phƣơng pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống giá trị để con ngƣời đánh giá và điều chỉnh hành vi trong hoạt động của mình. 3.5. Mối quan hệ xã hội Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đƣợc hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tƣ tƣởng, đạo đức, văn hóa, v.v… Quan hệ xã hội đƣợc hình thành từ tƣơng tác xã hội. Những tƣơng tác này không phải là ngẫu nhiên, mà thƣờng phải có mục đích, có hoạch định. Những tƣơng tác này phải có xu hƣớng lặp lại, ổn định và tạo lập ra một mô hình tƣơng tác. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và mối quan hệ xã hội trong tục ngữ. - Thống kê, so sánh và đƣa ra nhận xét các biện pháp nghệ thuật thể hiện qua hai bộ phận tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và phản ánh các mối quan hệ xã hội. 5. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi sử dụng tƣ liệu Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” do nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri biên soạn năm 1975, Nhà xuất bản khoa học Xã hội. - Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội đƣợc phản ánh trong tục ngữ. 6. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: - Thống kê - Diễn dịch - Quy nạp - So sánh - Phân tích tổng hợp 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận cùng với tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên. Chƣơng 2. Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về các mối quan hệ xã hội. Chƣơng 3. So sánh biện pháp nghệ thuật đƣợc thể hiện qua hai bộ phận của tục ngữ phản ánh tri thức về giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội. Chƣơng 1. TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN Bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích tục ngữ đã “Diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm xã hội, lịch sử của nhân dân lao động” (Gorki). Những kinh nghiệm ấy đƣợc rút ra trong lịch sử đấu tranh tự nhiên và đấu tranh xã hội, đƣợc thể nghiệm nhiều lần trong nhận thức, đã trở nên thành những chân lý có tính chất phổ biến và đƣợc toàn nhân dân lao động công nhận và sử dụng. Đó là những kinh nghiệm lâu đời và có tính chất tập thể đƣợc rút ra trong quá trình quan sát các hiện tƣợng tự nhiên, quá trình dùng sức ngƣời biến cải thiên nhiên, hiện tƣợng tự nhiên, quá trình xây dựng kinh tế sản xuất. 1.1. Dự đoán thời tiết Tục ngữ nói về hiện tƣợng thời tiết thể hiện óc nhận xét tinh tế của nhân dân Việt Nam. Từ đó có một cái nhìn đầy đủ về thế giới tự nhiên và tìm cách ứng phó kịp thời, cải tạo và chinh phục thiên nhiên 1.1.1. Dự đoán thời tiết qua việc chiêm nghiệm những triệu chứng báo trước của thiên nhiên Đã từ lâu thiên nhiên là đối tƣợng không thể tách rời với cuộc sống lao động và sinh hoạt của con ngƣời. Việc sản xuất nông nghiệp luôn gắn chặt với từng sự thay đổi của thiên nhiên. Vì vậy, việc khám phá và tìm hiểu một cách cụ thể, chính xác tự nhiên để từ đó con ngƣời có những cách ứng xử, biến đổi và cải tạo thiên nhiên nhằm phát triển cuộc sống của mình ở mức cao hơn. Ngƣời Việt từ đó có thể cùng chung sống với thiên nhiên mà không hề bị lệ thuộc vào nó, thông qua những công việc hàng ngày con ngƣời đã quan sát, đúc kết cho mình và những thế hệ đời sau những kinh nghiệm và bài học vô cùng quý báu để con ngƣời có thể ứng dụng một cách linh hoạt và sáng tạo trong cuộc sống của mình ở từng thời kỳ và thời điểm khác nhau. Thời tiết luôn là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến năng suất và sản lƣợng cây trồng và vật nuôi. Nếu không nắm bắt đƣợc những quy luật của thời tiết thì dù ngƣời lao động có bỏ ra công sức bao nhiêu cũng không thể thu về lợi ích cho mình. Và vì thế, từ buổi bình minh của loài ngƣời, ngƣời Việt đã đúc kết ra những kinh nghiệm dự báo thời tiết cho mình dựa trên những yếu tố nhƣ chiêm nghiệm bằng thời gian, những triệu chứng báo trƣớc của thiên nhiên, qua việc quan sát động thực vật để từ đó ứng dụng và ứng phó với tự thay đổi của thiên nhiên để canh tác nông nghiệp, phát triển sản xuất. Trƣớc hết, những câu nói ấy ban đầu là câu nói của một cá nhân trong cộng đồng. Rồi từ đó, nó đƣợc đúc kết kiếm chứng rồi chuyển từ ngƣời này sang ngƣời khác, nó đã trở thành câu nói của cả cộng đồng ngƣời, là tri thức không thể thiếu trong đời sống lao động của con ngƣời Việt. Dự đoán thời tiết qua thời gian trong một năm Thời gian nông lịch của ngƣời Việt từ ngàn xƣa cho đến nay đƣợc chia thành mƣời hai tháng, từ tháng một đến tháng mƣời hai hay còn đƣợc chia thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Căn cứ vào thời gian này mà ngƣời dân Việt đã xem xét chiêm nghiệm thời tiết. Theo đó, các hiện tƣợng của thiên nhiên nhƣ mƣa, nắng, bão, gió đều đƣợc đề cập một cách tƣơng đối đầy đủ. Ngƣời dân Việt đã đúc kết đƣợc rằng: “Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”. Hết tháng giêng (tháng 1) thì thời gian của một năm trôi qua rất nhanh, qua rằm (qua ngày 15 hàng tháng) thì thời gian của một tháng cũng nhanh chóng trôi qua. Kinh nghiệm này dùng để chỉ thời gian trong năm và trong tháng, theo đó quy định các hiện tƣợng thời tiết trong năm và trong ngày. “Đêm tháng năm chƣa nằm đã sáng, ngày tháng mƣời chƣa cƣời đã tối”. Tháng năm là tháng mùa hè, hiện tƣợng ngày lớn hơn đêm và ngƣợc lại ở tháng mƣời, tháng mùa đông. Hiện tƣợng này là hiện tƣợng thƣờng thấy ở khu vực bắc bán cầu. Ngƣời dân Việt từ xa xƣa đã quan sát và nhận thấy rõ điều này. Kèm theo hiện tƣợng ngày đêm, họ còn có nhận xét tinh tế trƣớc sự biến đổi của thời tiết. Không những có sự khác biệt giữa mùa này, mùa kia mà còn có sự thay đổi rõ nét trong một mùa. “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”. Ba tháng trong mùa xuân thời tiết rét nhƣng cái rét ở mỗi tháng cũng có sự khác nhau. Trong ba tháng ấy, cái rét tháng ba đƣợc ngƣời dân chú ý và đề cập nhiều hơn cả, đó là cái rét gắn liền với truyền thuyết của ngƣời Việt, là cái rét cuối cùng trong một năm nhƣng cũng là cái rét ghê gớm nhất. “Tháng ba bà già chết cóng (chết rét).” “Tháng ba chó già lè lƣỡi.” Nói về sự khác biệt giữa thời tiết trong một năm ngƣời dân đã đƣa ra những bài học kinh nghiệm đúc rút từ muôn đời mà cho đến nay điều đó vẫn hoàn toàn đúng và có giá trị. Bốn mùa trong năm ứng với những hiện tƣợng thời tiết khác nhau. “Đầu năm sƣơng muối, cuối năm gió bấc (nồm, đông).” Hay: “Mùa đông mƣa dầm gió bắc, mùa hè mƣa to gió lớn, mùa thu sƣơng sa nắng gắt.” Mùa đông gắn liền với hiện tƣợng giá rét, mùa hè oi nóng nắng và thƣờng có mƣa nhiều. “Mùa đông chết se, mùa hè chết lụt.” Hiện tƣợng thời tiết mƣa cũng thƣờng xuất hiện và khác nhau ở mỗi mùa. “Tháng ba mƣa đám, tháng tám mƣa cơn.” Các hiện tƣợng thiên nhiên còn thay đổi theo thời gian trong một ngày. “Sáng ƣớt áo, trƣa ráo thóc.” Hay: “Sáng mƣa, trƣa tạnh.” Các hiện tƣợng thời tiết nhƣ thế thƣờng là kiểu hiện tƣờng thời tiết thƣờng thấy ở khu vực miền bắc nƣớc ta đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình. Hiện tƣợng mƣa là kiểu thời tiết đƣợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tục ngữ và gần nhƣ mỗi tháng, mỗi mùa, kiểu hiện tƣợng thời tiết này lại có sự biến đổi dễ nhận thấy. “Mùa đông mƣa dầm gió bắc, mùa hè mƣa to gió lớn, mùa thu sƣơng sa nắng gắt.” Dựa vào các tháng: “Tháng ba mƣa đám, tháng tám mƣa cơn” “Tháng chín mƣa rƣơi, tháng mƣời mƣa cũ” “Tháng bảy nƣớc nhảy lên bờ” Hiện tƣợng mƣa gió còn đƣợc dân gian dựa vào thời gian trong một ngày. “Mƣa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.” Với những chiêm nghiệm của mình từ cuộc sống hàng ngày ngƣời dân đã đúc kết ra đƣợc kiểu thời tiết mƣa không kéo dài qua giờ ngọ và hiện tƣợng gió không kéo dài qua giờ mùi. Những chiêm nghiệm nhận biết từ cuộc sống ấy giúp cho ngƣời dân sắp xếp công việc của mình trong một ngày, một tháng và trong cả một năm. Điều đó có lợi cho việc sản xuất, nuôi trồng của ngƣời dân từ xa xƣa cho tới nay. Ngoài kiểu thời tiết mƣa gió nhân dân ta còn đề cập đến hiện tƣợng nƣớc triều dâng căn cứ theo thời gian trong năm. Tục ngữ khẳng định: “Tháng chín đôi mƣơi, tháng mƣời mồng năm.” Hiện tƣợng bão lụt: “Ông tha nhƣng bà chẳng tha, hãy còn cái lụt mồng ba tháng mƣời.” Hàng năm cứ đến hai mƣơi tháng chín và mồng năm tháng mƣời là hai ngày con nƣớc dâng. Vì chỉ ra đƣợc đặc điểm này nên ngƣời dân đã đƣa ra đƣợc các phƣơng án phòng chống thiên tai xảy ra trong năm. Ngoài ra, ông cha ta còn dự đoán các hiện tƣợng thời tiết dựa vào các triệu chứng báo trƣớc của thiên nhiên. Điều này, cho thấy óc nhận xét tinh tế của nhân dân ta. Họ không chỉ dừng lại ở việc trông trời trông đất, khả năng quan sát mà còn trông mây trông mƣa để có thể phòng chống và tránh đƣợc những ảnh hƣởng nặng nề của thiên tai. Tục ngữ phản ánh tất cả những kiểu thời tiết, hiện tƣợng của thiên nhiên nhƣng xét trong tổng số những câu tục ngữ nói về các hiện tƣợng tự nhiên thời tiết trong Tục ngữ Việt Nam, số câu tục ngữ nói về mƣa và nắng là nhiều nhất. Bởi lẽ mƣa nắng quyết định việc đƣợc mất trong sản xuất nông nghiệp. ngƣời dân chú trọng hai kiểu thời tiết này dƣới nhiều góc độ và quan sát chúng, dự báo dựa vào những triệu chứng báo trƣớc của thiên nhiên. Trƣớc tiên đó là kiểu thời tiết mƣa. Hiện tƣợng này đƣợc ngƣời bình dân đề cập bởi nó là yếu tố quyết định đến đƣợc mùa hay mất mùa của sản xuất. Có mƣa mới có nƣớc cày bừa, cấy hái, chăm bón. Nhƣng mƣa quá nhiều sẽ dẫn tới lũ lụt, sản xuất mất trắng mà mƣa quá ít sẽ dẫn tới hạn hán, ruộng đồng khô nứt không canh tác đƣợc. Những hiện tƣợng báo hiệu trời mƣa đƣợc quan sát qua các kiểu hiện tƣợng báo trƣớc nhƣ: mống, ráng, sấm, chớp, thâm, gió…. Hiện tƣợng “mống” đƣợc nhân dân quan sát với nhiều trạng thái và vị trí. Kinh nghiệm cho thấy: hễ khi nào có mống thì nhất định sẽ có mƣa thậm chí có lụt. “Mống cao gió táp, mống rạp mƣa dầm.” “Mống cao gió táp, mống áp mƣa rào.” Khi trời có mống vàng và trắng thì kiểu thời tiết khác nhau. Mống trắng thì có mƣa còn mống vàng thì không thể. “Mống vàng trời nắng, mống trắng trời mƣa”. Ngay cả việc mống xuất hiện ở vị trí nào cũng là đặc điểm để báo trƣớc cơn mƣa và sự nặng nhẹ của nó “Mống đông vồng tây, chẳng mƣa dây cũng bão giật.” Khẳng định khả năng quan sát và óc nhận xét tinh tế của ngƣời bình dân còn cho ta biết đƣợc khi nào có lũ lụt còn khi nào có mƣa bình thƣờng dựa vào việc quan sát mống. “Mống dài thời lụt, mống cụt trời mƣa.” Rõ ràng, bằng việc quan sát ấy đã giúp cho việc cày cấy, chăm sóc và phát triển sản xuất của ngƣời dân một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngƣời dân từ đó cũng biết cách đề phòng phản ứng trƣớc những thay đổi thất thƣờng của thời tiết. Ngoài hiện tƣợng mống thì hiện tƣợng “ráng” cũng báo trƣớc những cơn mƣa hoặc không. Hiện tƣợng này cũng dựa vào màu sắc là chủ yếu. “Ráng vàng thời nắng, ráng trắng thời mƣa.” Hay: “Ráng mỡ gà thời gió, ráng mỡ chó thời mƣa.” “Ráng mỡ gà ai có nhà thì chống.” Nhân dân ta đã quan sát các triệu trứng báo trƣớc của thiên nhiên và đặc biệt đã chú ý đến hai hiện tƣợng của trời đó là sấm, chớp. “Sấm trƣớc, chƣớc sau.” “Sấm kêu, rêu mọc.” Sau tiếng sấm thƣờng là những cơn mƣa thƣờng kéo theo những tia chớp. hiện tƣợng chớp cũng là một trong những hiện tƣợng đƣợc nhân dân ta đề cập đến nhiều trong tục ngữ. “Chớp thừng chớp chão chẳng bão thì mƣa.” “Chớp đằng đông mua dây mà tát.” “Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mƣa.” Theo quan niệm của dân gian, thông thƣờng cứ có chớp thì trời sẽ đổ mƣa, đặc biệt là khi có chớp đằng đông. Những cơn mƣa này thƣờng là mƣa lớn thậm chí còn có thể gây bão. Dự báo thời tiết mƣa ngƣời bình dân còn dựa vào thâm, sầm hay màu sắc của bầu trời. “Thâm đông, trống bắc hễ nực thì mƣa.” Hay: “Sầm đông thời mƣa, sầm dƣa thời khú, sầm nhũ thời chửa.” “Sầm đông sang bắc, tía tây, chó đen ăn cỏ trời này thì mƣa.” Ngoài ra, quan sát mặt trời, mặt trăng, mây, sao… để dự báo thời tiết, đó là: “Mặt trời có quầng thì hạn, trăng tán thì mƣa.” “Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mƣa.” Hay: “Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mƣa.” “Vàng mây thời gió, mây đỏ thời mƣa.” Dựa vào các ngôi sao: “Mau sao thì nắng, vắng sao thì mƣa.” “Một ngôi sao, một ao nƣớc.” Rõ ràng rằng, theo kinh nghiệm của dân gian, khi mặt trăng có quầng thì trời sẽ hạn hán, có tán tản ra bên ngoài thì trời sẽ có mƣa. Hay khi có mây xanh thì trời nắng, mây trắng thì trời sẽ đổ mƣa. Cũng căn cứ vào kiểu thời tiết này thì cứ trời có ít sao thì sẽ có mƣa lớn, nhiều sao thì không mƣa mà có nắng to. Dựa theo đó mà ngƣời dân sẽ biết phải phòng chống thiên tai, lũ lụt, hạn hán nhƣ thế nào và nhắc nhở mọi ngƣời trong việc trồng cây, hoa màu và con giống để có thể có đƣợc năng suất cao khi gặp phải những thay đổi bất thƣờng. Từ những kinh nghiệm trông trời, trông đất này mà ngƣời dân đã có đƣợc những kinh nghiệm trong gieo trồng, chăn nuôi, giúp họ biết trƣớc đƣợc sẽ đƣợc hay mất mùa. Ngay từ buổi bình minh con ngƣời đã khẳng định đƣợc khả năng về trí tuệ của mình. Những kinh nghiệm ấy xét trên lĩnh vực khoa học thì nó chỉ là việc dự báo thời tiết một cách đơn thuần nhƣng xét trên một góc độ khác thì đó là cả cách nhìn, nhận xét, đánh giá, nhận xét tinh tƣờng của thế hệ trƣớc mà cho tới ngày nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Nó thể hiện cách nhìn, cách cảm, cách nhận biết của ngƣời nông dân về hiện tƣợng diễn ra quanh mình. 1.1.2. Dự đoán thời tiết qua việc quan sát động vật Ngƣời xƣa đã có câu “Kiến dọn tổ, trời mƣa.” Hay: “Cóc nghiến răng đang nắng thì mƣa.” Hiện tƣợng mƣa nắng tiếp tục đƣợc ngƣời dân Việt đề cập thông qua việc quan sát động vật và thực vật. Ngƣời dân chú ý đến các loại động vật nhƣ kiến, cóc, ếch, én, quạ, chuồn chuồn. Trong đó có thể nói rằng con kiến đƣợc ngƣời dân Việt chú ý hơn cả: “Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt.” “Tháng bảy kiến đàn đại hàn hồng thủy.” Dân gian thƣờng đề cập đến kiến để báo hiệu trời mƣa hoặc báo hiệu những cơn mƣa lớn, gây lụt lội. Con kiến là con vật nhỏ bé, thƣờng rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết. Nếu nó xuất hiện theo đàn thì thời tiết nhất định sẽ có mƣa thậm chí có thể gây ra lụt lội. Không những trong tục ngữ Việt Nam xuất hiện những chi tiết, hình ảnh này mà ở trong tục ngữ của những dân tộc khác cũng đƣợc đề cập đến. Cùng với loài kiến, tục ngữ vẫn thƣờng nhắc nhở con cháu. “Cóc nghiến răng đang nắng thì mƣa.” Và vì thế, ngƣời đời vẫn truyền nhau rằng “Con cóc là cậu ông trời” và cứ mỗi khi cóc nghiến răng là trời đổ mƣa. Theo kinh nghiệm của cha ông thì câu tục ngữ này lý giải bằng một câu chuyện “Cóc kiện trời”. điều này cho ta thấy ngƣời dân Việt không chỉ quan sát bằng thị giác mà còn quan sát bằng thính giác. Mọi quan sát ấy đều rất tinh vi, tinh tế. Ngoài ra con ếch cũng là một hình ảnh của những cơn mƣa đầy nƣớc. “Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nƣớc.” Đó là những quan sát của ngƣời dân Việt với những âm thanh, hình ảnh hàng ngày có thể nhìn thấy, nghe thấy, trông thấy đƣợc. Trong tục ngữ Việt còn có bộ phận những câu tục ngữ đuợc quan sát qua hình ảnh những con chim, trong đó hình ảnh của những con chim én, con quạ, con sáo đƣợc nhân dân ta chú ý và đề cập đến nhƣ là những biểu tƣợng báo trƣớc kiểu thời tiết mƣa nắng. “Ác lắm thì ráo, sáo lắm thì mƣa.” “Quạ tắm thì nắng, sáo tắm thì mƣa.”
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất