Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyền thuyết về một số danh nhân văn hóa thời trung đại trên đất hải dương (tt...

Tài liệu Truyền thuyết về một số danh nhân văn hóa thời trung đại trên đất hải dương (tt)

.PDF
31
312
119

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------- NGUYỄN THỊ QUYÊN TRUYỀN THUYẾT VỀ DANH NHÂN VĂN HOÁ TIÊU BIỂU THỜI TRUNG ĐẠI TRÊN ĐẤT HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Văn học dân gian Việt Nam Hà Nội – Năm 2011 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------- NGUYỄN THỊ QUYÊN TRUYỀN THUYẾT VỀ DANH NHÂN VĂN HOÁ TIÊU BIỂU THỜI TRUNG ĐẠI TRÊN ĐẤT HẢI DƯƠNG Luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Văn học dân gian Việt Nam Mã số: 60. 22.36 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS. LÊ CHÍ QUẾ Hà Nội – Năm 2011 2 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 2. Lịch sưu tầm nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương………………………. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………………………………….. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………. 5. Đóng góp của luận văn……………………………………………... 6. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… 7. Cấu trúc Luận văn…………………………………………………... B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: VĂN HOÁ DÂN GIAN HẢI DƯƠNG – CÁI NÔI CỦA TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ CÁC DANH NHÂN VĂN HÓA….. 1. Khái quát không gian văn hoá Hải Dương………………………. 1.1. Sơ lược lịch sử văn hóa Hải Dương…………………………………. 1.2. Văn hóa dân gian………………………………………………………. 1.2.1. Văn học dân gian……………………………………………….. 1.2.2. Lễ hội cổ truyền………………………………………………… 1.2.2.1. Lễ hội đền Kiếp Bạc………………………………………….. 1.2.2.2. Lễ hội đền Cuối………………………………………………. 1.2.2.3. Lễ hội đền Sượt………………………………………………. 1.2.2.4. Hội đền Tranh………………………………………………… 1.2.2.5. Lễ hội đình Vạn Niên………………………………………... 2. Các danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại- từ lịch sử đến truyền thuyết 2.1. Khái niệm danh nhân văn hoá………………………………………… 2.2. Danh nhân văn hóa – con người trong lịch sử……………………… 4 2.2.1. Chu Văn An…………………………………………………….. 2.2.2. Mạc Đĩnh Chi…………………………………………………… 2.2.3. Nguyễn Trãi…………………………………………………….. 2.2.4. Nguyễn Thị Duệ………………………………………………… 2.3. Danh nhân văn hóa – từ lịch sử đến truyền thuyết………………… 2.3.1. Chu Văn An…………………………………………………….. 2.3.2. Mạc Đĩnh Chi…………………………………………………… 2.3.3. Nguyễn Trãi…………………………………………………….. 2.3.4. Nguyễn Thị Duệ………………………………………………… Chương 2: TRUYỀN THUYẾT VỀ DANH NHÂN VĂN HÓA TIÊU BIỂU THỜI TRUNG ĐẠI TRÊN ĐẤT HẢI DƯƠNG 1. Khảo sát truyền thuyết về danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương……………………………………….. 1.1. Chu Văn An………………………………………………………. 1.2. Mạc Đĩnh Chi…………………………………………………….. 1.3. Nguyễn Trãi……………………………………………………… 1.4. Nguyễn Thị Duệ…………………………………………………. 2. Những phương diện nội dung cơ bản của truyền thuyết về danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương……….. 2.1. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện con người tài năng, nhân hậu, trung nghĩa………………………………… 2.2. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện là người có tài ngoại giao- ứng đối như thần ……………………………. 2.3. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện nhà giáo dục, sáng tạo văn hóa……………………………………………. 2.4. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện bi kịch cá nhân …………………………………………………………... 5 3. Những phương diện cơ bản của hình thức nghệ thuật truyền thuyết về danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương… 3.1. Nghệ thuật kết cấu……………………………………………… 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật………………………………….. 3.2.1. Kiểu lựa chọn nhân vật………………………………………………. 3.2.2. Cách thể hiện nhân vật – các mô típ nổi bật……………………… 3.2.2.1. Mô típ ra đời kỳ lạ……………………………………………. 3.2.2.2. Mô típ tài năng, xuất chúng…………………………………... 3.2.2.3. Mô típ giấc mơ………………………………………………... 3.2.2.4. Mô típ hoá thân, kỳ ảo………………………………………... 3.2.2.5. Mô típ về nghi lễ thờ cúng liên quan đến tôn vinh, tưởng nhớ danh nhân Chương 3: LIÊN QUAN ĐẾN DANH NHÂN VĂN HÓA TIÊU BIỂU TRONG TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI 1. Tín ngưỡng thờ các danh nhân văn hóa…………………………. 2. Lễ hội……………………………………………………………….. 2.1. Văn miếu Mao Điền và lễ hội truyền thống……………………. 2.1.1. Lễ hội xuân truyền thống.............................................................. 2.1.1.1. Thời gian tổ chức lễ hội xuân truyền thống............................... 2.1.1.2. Không gian lễ hội....................................................................... 2.1.1.3. Nội dung lễ hội.......................................................................... 2.1.1.4. Nội dung phần hội...................................................................... 2.1.2. Lễ hội thu...................................................................................... 2.2. Lễ hội đền Chu Văn An…………………………………………. 2.2.1. Thời gian tổ chức lễ hội................................................................ 2.2.2. Không gian lễ hội.......................................................................... 2.2.3. Quá trình hình thành lễ hội........................................................... 2.3. Đền thờ Nguyễn Trãi và Lễ hội chùa Côn Sơn............................. 6 2.3.1. Thời gian lễ hội............................................................................. 2.3.2. Không gian lễ hội......................................................................... 2.3.3. Nội dung lễ hội Côn Sơn.............................................................. 2.3.3.1. Lễ hội mùa xuân........................................................................ 2.3.3.2. Hội mùa thu Côn Sơn................................................................ C. KẾT LUẬN………………………………………………………... TÀI LI ỆU THAM KHẢO…………………………………………... PHỤ LỤC 1…………………………………………………………… PHỤ LỤC 2…………………………………………………………… 7 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hải Dương là miền đất có truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời và có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước, là tài sản vô giá, là niềm tự hào của đất và người Hải Dương. Nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hải Dương được coi là cái nôi của nền văn hoá Việt, là "Trấn thứ nhất trong tứ trấn" ở phía Đông của kinh thành Thăng Long xưa. Đây là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và danh thắng. Từ xa xưa đã được coi là vùng đất "Địa linh nhân kiệt”. Nơi đây gắn liền với những lịch sử truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và lưu giữ những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống. Hiện nay ở Hải Dương đã có trên 1000 di tích được kiểm kê, đăng ký, bảo vệ theo quy định của pháp lệnh, 97 di tích và cụm di tích được xếp hạng quốc gia. Trong đó có 02 di tích xếp vào hàng đặc biệt quan trọng là Côn Sơn - Kiếp Bạc. Ngày nay, trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân Hải Dương luôn luôn quan tâm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá lịch sử truyền thống của quê hương, đất nước. Nói đến Hải Dương mọi người đều biết đến miền đất thiêng gắn với danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, với rất nhiều nhân vật nổi tiếng như: Tuệ Tĩnh, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Phi Khanh, Vũ Hữu, Nguyễn Dữ...Cuộc đời và sự nghiệp của họ đã làm rạng danh quê hương đất nước, góp phần hun đúc lên tâm hồn, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu truyền thuyết về các danh nhân văn hoá thời trung đại trên đất Hải Dương là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong hành trình tìm về lịch sử và văn học. Các địa danh mang các dấu tích xưa sau nhiều thế kỷ bị thiên tai, chiến tranh và cả sự ấu trĩ của con người tàn phá, nhiều di tích đã trở thành phế tích. Hiện nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương nhiều công trình đã và đang được chỉ đạo tu bổ là Tiều ẩn cổ bích, Trạng nguyên cổ đường và Tinh phi cổ tháp. Nhân dân và địa phương cùng các nhà hảo tâm trong cả nước cũng đã tiến hành đóng góp tu bổ các di tích như: đền thờ Chu Văn An, đền thờ Nguyễn Thị Duệ, đền thờ Mạc Đĩnh Chi nhằm khôi phục, nâng cao và phát huy giá trị các di sản văn hoá đặc sắc trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Nghiên cứu truyền thuyết về các danh nhân văn hoá giúp cho chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn truyền thống, văn hoá của dân tộc, thêm tự hào về đất nước con người Việt Nam, nhất là những con người đã làm rạng danh cho quê hương đất nước. Từ chuyên 3 ngành Văn học dân gian, nghiên cứu truyền thuyết với việc tìm hiểu tín ngưỡng và lễ hội tưởng niệm các danh nhân văn hoá để có sự hiểu biết sâu sắc hơn về đặc trưng thể loại. Trên đây là ba lý do cơ bản khiến chúng tôi đặt ra vấn đề đi sâu vào tìm hiểu truyền thuyết về danh nhân văn hóa thời trung đại trên đất Hải Dương. 2. Lịch sử sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về một số danh nhân văn hoá thời trung đại trên đất Hải Dương Chúng tôi tiến hành khảo sát lịch sử sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội có liên quan đến bốn danh nhân văn hoá: Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Duệ để làm sáng tỏ luận văn. Năm 2000, trong cuốn “Truyện dân gian Hải Dương”, các tác giả đã sưu tầm những truyền thuyết điển hình của quê hương, trong đó có các truyền thuyết: Chu Văn An, Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ, nữ tiến sỹ. Trong các truyền thuyết này, các tác giả đã biên soạn lại cốt truyện được lưu truyền trong nhân dân vừa có yếu tố của lịch sử, vừa thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân dân được truyền thuyết hoá phù hợp với tâm thức của người dân địa phương. Trong cuốn “Truyện cổ dân gian Nam Sách”, các tác giả sưu tầm những truyện được lưu truyền trong dân gian ở Nam Sách, trong đó có truyền thuyết về các Trạng triều Mạc trong đó có trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Tuy nhiên, tác giả ở đây chỉ lược sử về các trạng nguyên qua các thời kỳ (mang tính chất lược sử nhiều hơn là văn học) Cuốn “Hải Dương- Di tích và Danh thắng” giới thiệu khái quát về Văn miếu trấn Hải Dương (Văn miếu Mao Điền) từ địa lý, lịch sử, người được thờ (trong đó có bốn danh nhân văn hoá trên). Theo tác giả Văn Miếu được xây dựng từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Nơi đây thờ Khổng Tử và tôn vinh các bậc nho học tiêu biểu cho truyền thống văn hiến của tỉnh Hải Dương. Năm 2006, trong cuốn “Di sản Hán Nôm Côn Sơn- Kiếp Bạc- Phượng Sơn”, các nhà nghiên cứu đã dựa vào những văn bia cổ tại đền. Tại khu di tích Phượng Hoàng hiện còn năm tấm bia, một tấm ghi việc trùng tu chùa Lệ Kỳ (chùa Côn Sơn) thế kỷ XVII, một tấm về Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn xứ, ba tấm bia về thân thế sự nghiệp Chu Văn An và việc trùng tu di tích vào các năm 1837, 1841, 1857. Cũng trong cuốn sách này các tác giả đã sưu tầm biên soạn các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Trãi, nói rõ xuất xứ Trạng nguyên cổ đường (nhà dạy học của Mạc Đĩnh Chi), Tinh phi cổ tháp nơi thờ bà chúa Sao Sa - Nguyễn Thị Duệ cũng như xuất thân, hành tung và công trạng của các danh nhân văn hoá trên. 4 Cuốn “Sự tích bà chúa Sao Sa và Chí Linh bát cổ”, tác giả Lê Phúc đã sưu tầm tìm hiểu những dấu tích mộ tháp và đền thờ Bà chúa Sao Sa, sưu tầm sự tích về Bà chúa Sao Sa. Tích nói rằng bà thân mẫu nằm mộng thấy sao trên trời sa vào bụng và sinh ra Nguyễn Thị Duệ và mộ thân phụ của bà được thầy địa lý phán bảo rằng đất này có “nhất kính chiếu Tam Vương” (một tấm gương sáng phản chiếu ba đời vua). Cuốn “Chí Linh với văn hoá xứ Đông”, tác giả Bùi Bá Tuân đã giới thiệu khái quát về các danh nhân đất Chí Linh, di tích và phong tục lễ hội. Trong cuốn sách này tác giả giới thiệu sơ lược về một số lễ hội, đền thờ như: Lễ hội Côn Sơn, lễ hội đền Chu Văn An……với những nghi thức trong phần lễ và phần hội. Bài viết thiên về góc độ văn hoá của di tích nhiều hơn là xét về lịch sử, qua đó đóng góp tiếng nói vào việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Là các truyền thuyết xoay quanh cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của các danh nhân văn hoá thời trung đại, các truyền thuyết có mối quan hệ khăng khít với lễ hội, tín ngưỡng và tôn giáo. Từ đó đi tìm những giá trị cơ bản như nội dung nghệ thuật, đề tài, mô típ cơ bản… để có cái nhìn tổng quan nhất về truyền thuyết các danh nhân văn hoá thời trung đại trên đất Hải Dương ở phương diện văn hoá. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tư liệu chính của luận văn là các truyền thuyết dân gian về các danh nhân văn hoá thời trung đại trên đất Hải Dương. Ở đề tài này, do điều kiện tư liệu, chúng tôi chưa thể khảo sát tất cả các danh nhân văn hoá thời trung đại trên đất Hải Dương mà chỉ giới hạn ở bốn danh nhân văn hoá tiêu biểu là: Nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, nữ tiến sỹ đầu tiên của nước Việt - Nguyễn Thị Duệ. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích Vận dụng lý thuyết chuyên ngành vào nghiên cứu các truyền thuyết ở lĩnh vực văn học và đóng góp cách nhìn nhận, đánh giá nhân vật theo qua điểm lịch sử thẩm mỹ. Nghiên cứu, miêu tả chi tiết các lễ hội Côn Sơn, lễ hội Văn miếu Mao Điền và lễ hội đền thờ Chu Văn An, các tín ngưỡng thờ cúng tại đền thờ nữ tiến sỹ Nguyễn Thị Duệ, đền Long Động thờ trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa truyền 5 thuyết và lễ hội là sự kết hợp truyền thống, tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. 4.2. Nhiệm vụ Khảo sát các truyền thuyết đã được sưu tầm, biên soạn và tài liệu tại chỗ. Khảo tả lễ hội, phân tích quan hệ truyền thuyết và lễ hội. Sử dụng các phương pháp khoa học để phân tích, nhận định, đánh giá giữa truyền thuyết và lễ hội nhằm tiến hành nghiên cứu theo mục đích của đề tài. 5. Đóng góp của luận văn Thông qua việc tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện về một số danh nhân văn hóa tiêu biểu sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn đúng hơn, sâu hơn, giá trị nhiều tầng, “nhiều vỉa” từ truyền thuyết về các danh nhân văn hóa trên đất Hải Dương – một di sản “phi vật thể vô giá”, không cũ theo thời gian, đồng thời đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc bảo lưu và phát triển vốn Văn học dân gian cổ truyền của dân tộc. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp thống kê 6.2. Phương pháp quan sát gắn với hoạt động điền dã: 6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp 6.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương với ba nội dung chính như sau: Chương 1: Văn hoá dân gian Hải Dương – cái nôi của truyền thuyết và lễ hội về các danh nhân văn hoá Chương 2: Truyền thuyết về một số danh nhân văn hoá tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương Chương 3: Liên quan đến danh nhân văn hóa trong tín ngưỡng và lễ hội 6 B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Văn hoá dân gian Hải Dương – cái nôi của truyền thuyết và lễ hội về các danh nhân văn hoá 1. Khái quát về không gian văn hoá Hải Dương 1.1. Sơ lược lịch sử văn hoá Hải Dương: Trong phần này, chúng tôi giới thiệu khái quát về không gian văn hóa Hải Dương từ vị trí địa lý, lịch sử, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, lễ hội (các giá trị văn hóa và phi vật thể), phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng người Hải Dương xưa và nay, để từ đó có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về đất và người Hải Dương – nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng biết bao thế hệ các anh hùng, danh nhân, vĩ nhân của thời đại, góp phần tạo nên bản sắc và tâm hồn của con người Hải Dương. 1.2. Văn hoá dân gian 1.2.1. Văn học dân gian Trong phần này chúng tôi trình bày khái quát về những đặc điểm cơ bản của văn học dân gian Hải Dương với nhiều thể loại khác nhau như truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, tục ngữ, ca dao, vè, đồng dao, câu đố… Những tác phẩm ấy đã phản ánh đầy đủ đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây và góp phần tạo nên một vùng văn hoá đặc sắc. Cũng mang những đặc điểm chung của văn học dân gian ở các vùng miền, văn học dân gian Hải Dương nổi bật với màu sắc tiếp xúc và hội tụ. Nhìn chung văn học dân gian Hải Dương tương đối đầy đủ về thể loại, nội dung phản ánh chủ yếu soi chiếu nét đẹp quê hương và tâm hồn người dân nơi đây. 1.2.2. Lễ hội cổ truyền Theo thống kê của tỉnh Hải Dương, hàng năm Hải Dương có 559 lễ hội dân gian. Trong mục này chúng tôi chỉ giơi thiệu khái quát 5 lễ hội dân gian tiêu biểu: 1.2.2.1. Lễ hội đình Vạn Niên (thôn Vạn Niên, xã Mạn Nhuế, tổng Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, thời Lê - Nguyễn, nay thuộc thị trấn Nam Sách). Đình thờ thành hoàng là Nguyễn Quý Minh, người có công trong sự nghiệp bảo vệ đất nước thế kỷ XVII. Hội đình được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 19 tháng Giêng hàng năm. Hội đình kéo dài tới 7 ngày. 7 1.2.2.2. Hội đền Tranh Thờ Quan lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn (huyện Ninh Giang hiện nay). Đây là một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian, hằng năm có hai mùa lễ hội lớn vào tháng 2 và tháng 5. Hội tháng 2, từ ngày 10-20/2, trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26/5, trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh. 1.2.2.3. Lễ hội đền Sượt (Thanh Cương linh từ hay Quang liệt miếu), ở làng Thanh Cương, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương. Lễ hội được tổ chức từ ngày 10 tháng 3, kỷ niệm ngày sinh Vũ Hựu ( một danh tướng thời Lê sơ, người con xuất sắc của Thanh Cương) kéo dài đến ngày 20 tháng 3 âm lịch. 1.2.2.4. Lễ hội đền Kiếp Bạc (Đền thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trần Hưng Đạo (Đức Thánh Trần), ngày 20 - 8 năm Canh Tý (1300). 1.2.2.5. Lễ hội đền Cuối thuộc làng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Hội đền Cuối bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Chế Nghĩa - một danh tướng đời nhà Trần, từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông (27- 8 âm lịch). Hội thường diễn ra trong ba ngày từ ngày 26 đến ngày 28- 8 hàng năm. 2. Các danh nhân văn hóa thời trung đại - từ lịch sử đến truyền thuyết 2.1. Khái niệm danh nhân văn hoá Qua nghiên cứu tìm hiểu chúng tôi thống nhất như sau: - Danh nhân văn hoá: là những con người, những nhân vật kiệt xuất có tiếng tăm, có cống hiến lớn lao cho nền văn hóa dân tộc, được lịch sử, dân tộc biết đến, ghi nhận và đánh giá cao; đại diện, biểu trưng cho một nền văn hóa.". Danh nhân văn hóa thường có 3 cấp độ; anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu và danh nhân văn hóa 2.2. Danh nhân văn hoá – con người trong lịch sử Trong phần này chúng tôi trình bày khái quát về tiểu sử của các danh nhân, trong đó có sự so sánh, đối chiếu giữa lịch sử và các thần tích, đình làng nơi các danh nhân đã từng sống hay thác khi lui về ở ẩn để có một cách nhìn toàn diện và đầy đủ về danh nhân. 2.2.1. Chu Văn An Về lịch sử của Chu Văn An chúng tôi xác định như sau: Chu Văn An (1292 1370), tức Chu An tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Ông tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong 8 sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, nhiều học trò theo học... Sau Chu Văn An được vua Trần Minh Tông (1314 -1329) vời ra làm đại quan Tư nghiệp Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông là người có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Ông đã cùng Mạc Đĩnh Chi, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào việc củng cố triều Trần lúc đó đã bắt đầu đi vào suy thoái. Công lao của Chu Văn An đối với quê hương, đất nước đó là việc truyền bá tư tưởng đạo đức Khổng giáo và Thất trảm sớ với nội dung xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng không được chấp thuận ông cáo quan về ở ẩn. Ngoài việc dạy học, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, chữa bệnh cho dân và làm thơ, viết sách. Sau khi ông mất, vua Trần dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. 2.2.2. Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346) Hiệu là Tốn Hạnh, tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động (Long Động), huyện Chí Linh (nay thuộc huyện Nam Sách), nguyên về dòng dõi quan Thượng thư Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý. Ông làm quan 35 năm, trải qua 3 đời vua Trần Anh Tông (12931314), Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341) và sống những năm tháng chí sĩ ở đời Trần Dụ Tông (1341-1369). Mạc Đĩnh Chi là nhân vật nổi tiếng triều Trần. Với tài ngoại giao, ứng đối, văn thơ xứng bậc "đứng đầu quần Nho" (sách Công dư tiệp chí), ông được vua Nguyên phong là Trạng của hai nước (Lưỡng quốc trạng nguyên). Trong quá trình làm quan triều, ông có hai lần đi sứ Nguyên, lần nào ông cũng đều tỏ rõ bản lĩnh, tâm hồn và khí phách của con người Việt Nam. Ông là người có nhiều công lao đóng góp cho nước nhà và là người có uy tín trong triều đình nhà Trần. Mạc Đĩnh Chi là một nhân vật kỳ tài trong nền văn học nước nhà, niềm tự hào của trí thức Việt Nam, là một trong những trạng nguyên xuất sắc nhất trong số những trạng nguyên của Việt Nam. 2.2.3. Nguyễn Trãi (1380- 1442) Nguyễn Trãi (1380- 1442), hiệu là Ức Trai, sống vào một giai đoạn lịch sử sôi động, từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ, thời đấu tranh chống ách Minh thuộc cho tới đầu đời Lê. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh nhậm chức Ngự sử đài Chánh chưởng triều Hồ. Cuối năm Khai Đại thứ 6 (1406), giặc Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ, xâm lược nước ta. Sau 10 năm phiên chuyển trong cảnh loạn lạc, kiên trì tránh giặc, tìm đường cứu nước, Nguyễn Trãi về Côn Sơn, ông rất đau xót trước cảnh quê nhà bị hoang 9 tàn, ông đã sớm tìm đến với nghĩa quân Lam Sơn, dâng Bình Ngô sách, cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống giặc, cứu nước; trở thành tổng tham mưu và linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, biên soạn nhiều văn kiện quan trọng. Năm 1427, cuộc kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi viết bài Bình ngô đại cáo nổi tiếng. Năm đó, ông được phong làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, tước quan phục hầu. Sang đời Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi đã đấu tranh với những quyền thần Lê Sát, Lê Ngân để thực hiện đường lối "giản chính, khoan hình". Lê Thái Tông vì còn trẻ tuổi nên thường cùng bọn cận thần chơi bời phóng phiếm. Sau sự cố về lễ nhạc với Lương Đăng, năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), Nguyễn Trãi thoái triều về Côn Sơn. Năm 1440, Lê Thái Tông đã trưởng thành, đã hiểu được rằng Nguyễn Trãi là người có tài, có đức, bèn triệu ông ra làm quan, phong cho chức Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ học sĩ coi việc Tam quán và kiêm chức hành khiển Đông bắc đạo, phụ trách quân dân bạ tịch Hải Dương. Ngày 5 tháng 8 năm 1442, xảy ra vụ án Lệ Chi viên – vụ án chu di tam tộc, nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Đến hơn hai mươi năm sau, năm 1464, Lê Thánh Tông mới giải oan cho ông, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan. 2.2. 4. Nguyễn Thị Duệ Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Du, Nguyễn Thị Ngọc Toàn, hiệu là Diệu Huyền, tên vua ban là Tinh phi (tức Sao Sa), người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, trấn Hải Dương (Hải Dương quê gốc nhà Mạc), gia thế thuộc trung nông và đặc biệt không có truyền thống khoa bảng. Năm lên 10 tuổi, Duệ đã đọc được sách thánh hiền, văn hay, chữ tốt nổi tiếng trong vùng. Năm 1952 – 1953, Nguyễn Thị Duệ theo gia đình chạy loạn lên Cao Bằng và đóng giả trai tham gia khoa thi Hội do nhà Mạc tổ chức và bà đã đỗ đầu. Khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc thấy vị tiến sĩ trẻ dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú... nên dò hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn Thị Duệ không bị khép tội mà còn được vua khen ngợi, lấy làm vợ phong là Tinh phi. Năm 1625, quân Lê - Trịnh do Đinh Văn Tả làm tiên phong tiến đánh Cao Bằng, quân Mạc đại bại. Nguyễn Thị Duệ ẩn trong hang núi bị quân Trịnh bắt được. Đến gặp vua Lê, chúa Trịnh, bà đối đáp thông minh nên lại được nhà chúa trọng dụng cho trông coi việc học của phủ chúa. Sau đó, bà được phong chức Nghi ái quan. Năm 70 tuổi, bà về 10 quê hương nghỉ ngơi rồi qua đời lúc ngoài 80 tuổi. Nhân dân lập đền thờ gọi là đền bà chúa Sao. 2.3. Danh nhân văn hoá - từ lịch sử đến truyền thuyết Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy giữa lịch sử và truyền thuyết có sự liên kết, gắn bó, song hành. Khó có thể khẳng định lịch sử ghi chép dựa vào truyền thuyết hay truyền thuyết về các danh nhân văn hoá bắt nguồn từ những sự kiện lịch sử. Nhìn chung truyền thuyết về các danh nhân tương đối đồng nhất đồng nhất trên một quan điểm - ngợi ca tài năng, đức độ, phẩm hạnh tốt đẹp của các danh nhân. Cảm hứng tôn vinh lịch sử của truyền thuyết dân gian được thể hiện sắc nét. 2.3.1. Chu Văn An Truyền thuyết về Chu Văn An: chủ yếu lưu truyền những câu chuyện về sự đức độ, tài năng, thanh cao của ông. Cuộc đời của Chu Văn An đã đi vào văn hoá dân gian qua con mắt ngưỡng vọng của nhân dân từ những sự kiện lịch sử, Chu Văn An toả sáng qua truyền thuyết với tầm vóc của một người thầy mẫu mực “thầy giáo giỏi của muôn đời” 2.3.2. Mạc Đĩnh Chi Truyền thuyết về Mạc Đĩnh Chi tựa như mô típ “người xấu xí mà có tài”. Ông là một người tài năng, đức độ, khí phách kiên cường, tinh thần tự tôn tự hào dân tộc và tài văn thơ, ứng đối mẫn tiệp, văn thơ xứng bậc "đứng đầu quần Nho”. Ông đã đi vào sử sách và đi vào tiềm thức của nhân dân từ chính tài năng văn chương của mình. 2.3.3. Nguyễn Trãi Truyền thuyết về Nguyễn Trãi: nổi bật là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Ở Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. 2.3.4. Nguyễn Thị Duệ Truyền thuyết về Nguyễn Thị Duệ: thể hiện bà là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, có ý chí, tinh thông chữ nghĩa, là “nữ thần đồng”, tài hoa sắc sảo và có “chí nam nhi”. Tài năng và đức độ của bà cũng như những cống hiến đóng góp cho triều đình, cho nhân dân đã khiến vua chúa và quan triều đình và nhân dân kính trọng và khâm phục. 11 * Tóm lại, xét ở cả phương diện lịch sử và truyền thuyết chúng tôi tạm đưa ra kết luận: giữa lịch sử và truyền thuyết có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và không có sự đối lập (trừ truyền thuyết “Rắn báo oán” – truyền thuyết về Nguyễn Trãi). Chương 2: Truyền thuyết về một số danh nhân văn hoá tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương 1. Khảo sát truyền thuyết về một số danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương 1.1. Chu Văn An Căn cứ vào kết quả khảo sát, chúng tôi đưa ra một số nhận xét sau: - Hầu hết các truyện về Chu Văn An được kể rất ngắn gọn, kéo theo đó là dị bản trong mỗi câu chuyện. - Trong quá trình điền dã, sưu tầm những truyền thuyết về Chu Văn An có những truyền thuyết do người hiện đại ngày nay hư cấu, sáng tạo nên kết hợp với cảm xúc tôn vinh tự hào, trân trọng và khẳng định tinh hoa dân tộc nên có xu hướng "hiện đại hóa tác phẩm": Núi Phượng Hoàng, Giếng son, Tục xin chữ đầu xuân. 1.2. Mạc Đĩnh Chi Truyền thuyết về Mạc Đĩnh Chi không nhiều, chủ yếu là những giai thoại về tài năng, đức độ và tài ngoại giao xuất chúng của ông được nhân dân lưu truyền từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, sau này khi nghiên cứu các nhà nghiên cứu đã xâu chuỗi các sự kiện, những mẫu kể đơn giản của giai thoại để viết về cuộc đời và tài năng, những cống hiến của Mạc Đĩnh Chi trong lịch sử nước nhà, tập hợp và biên soạn thành truyền thuyết Mạc Đĩnh Chi. Qua khảo sát chúng tôi sưu tầm được 12 truyện: Nhận xét: - Truyện được kể hết sức ngắn gọn, dường như chỉ nêu sự kiện là chính và cuối truyện thường có lời bình, lý giải hoặc thể hiện cảm xúc của người dẫn truyện. 1.3. Nguyễn Trãi Truyền thuyết về Nguyễn Trãi hầu hết các truyện có kết cấu xâu chuỗi (là tổ hợp của những mẫu kể đơn giản). Trong mỗi truyện có nhiều sự kiện và các sự kiện này được liên kết lại với nhau và kể lại cuộc đời, hành tung và công trạng của nhân vật. - Yếu tố dị bản 1.4. Nguyễn Thị Duệ 12 - Truyền thuyết có nhiều dị bản khác nhau. - Có truyền thuyết mang yếu tố hiện đại. 2. Những phương diện nội dung cơ bản của truyền thuyết về một số danh nhân văn hóa tiêu biểu thời trung đại trên đất Hải Dương 2.1. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện con người tài năng, nhân hậu, trung nghĩa Qua tìm hiểu, chúng tôi tạm đưa ra một số kết luận sau: - Phương diện con người tài năng: Chu Văn An – người thầy của muôn đời; Mạc Đĩnh Chi – tài thơ văn xuất chúng, một nhà ngoại giao hiếm có trong lịch sử; Nguyễn Trãi – nhà quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh bang tế thế; Nguyễn Thị Duệ - tài hoa, tinh thông chữ nghĩa. - Phương diện nhân hậu, trung nghĩa: cả bốn danh nhân trên đều thể hiện những tâm hồn cao thượng, tiết tháo, không màng danh lợi, trung quân, ái quốc, luôn đấu tranh chống , bảo vệ cái thiện và sẵn sàng rời bỏ vinh hoa để giữ chí cho mình. (Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần; Mạc Đĩnh Chi là một bậc trung thần, yêu nước, thương dân, khi làm chức quan trông coi việc đắp đê, chống lụt, ông đã lấy danh nghiã triều đình để xử những tên quan tham ô mang lại sự công bằng cho nhân dân. Nguyễn Thị Duệ, dân gian ca ngợi bà là con người tài hoa, sắc sảo và đức độ. Tài năng học vấn của bà đã nổi tiếng gần xa, được triều đình trọng dụng, bà là người có công lao to lớn đối với quê hương, đất nước trong việc khuyến học, đào tạo nhân tài và có những chính sách khuyến khích học tập, phương thức đào tạo tiến bộ và đã đào tạo được cho triều đình nhiều nhân tài, nhiều người đỗ đại khoa. Bà cũng là người thẳng thắn trong việc đấu tranh đòi lại sự công bằng trong thi cử, vạch trần tội “dối vua, lừa dân” của những kẻ coi thường phép nước, song cũng rất khoan dung, có lý, có tình. Truyền thuyết dân gian đã tôn vinh bà như là Nghiêu thuấn trong nữ giới. 2.2. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện là người có tài chính trị, ngoại giao- ứng đối như thần Trong bốn danh nhân văn hoá trên, nói đến tài ngoại giao - ứng đối có lẽ được dân gian và nhân dân truyền tụng, ca ngợi nhiều nhất đó chính là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi và danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Với Mạc Đĩnh Chi và Nguyễn Trãi sự nghiệp văn chương gắn bó với sự nghiệp chính trị, ngoại giao bởi vì chính văn chương là một nhân tố quan trọng trong thắng lợi 13 ngoại giao và cũng nhờ tư duy sắc bén trong chính trị, ngoại giao mà văn chương của hai nhân vật này lại càng sâu sắc. Sự nghiệp văn chương và ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi có thể nói là “Ưu thời mẫn thế”. Bằng trí thông minh, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc và tài thơ văn, ông đã thu phục được lòng tin yêu của triều đình nhà Nguyên, sự quý mến của sứ thần Cao Ly. Cũng nhờ tài ngoại giao và thơ văn mà trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi lại xây dựng được mối quan hệ thân hữu với sứ thần Cao Ly đang ở Trung Quốc. Với danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi, truyền thuyết không miêu tả trực tiếp tài chính trị, ngoại giao của ông mà là chỉ kể lướt qua các sự kiện như việc dâng Bình ngô sách cho lê Lợi “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà nói đến việc đánh vào lòng người”. Ngoài việc cùng với Lê Lợi vạch ra chiến thuật, Nguyễn Trãi còn làm tất cả các công việc giao thiệp với quân Minh. Nhân danh nghĩa quân Lam Sơn, cụ thể là nhân danh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết thư cho bọn chỉ huy quân Minh như Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Phúc, Vương Thông..v.v. để hoặc mắng nhiếc chúng, hoặc khiêu khích chúng hoặc dụ hàng. Ông đã đến thành Tam Giang (Việt trì) chiêu dụ quân Minh, tướng giữ thành là Lưu Thanh đã đem toàn bộ quân đội ra hàng và chiêu dụ quân Minh ở Nghệ An, Thuận Hoá, Tây Đô, các thành này đều “không phải đánh mà giặc ra hàng cả”... “...đều là nhờ ở thư từ giảng dụ, vận động của Nguyễn Trãi. Đến như các việc cơ mật trong quân ngũ, giảng hoà, thông sứ, nhiều lần dấn thân vào thành giặc, tiến hành cuộc kháng chiến hơn mười năm, đuổi được người Minh về nước, dẹp đại loạn, làm nên cơ nghiệp lớn.” [25, tr 180]. Ngoài ra trong truyền thuyết dân gian cũng nói nhiều về tài chính trị của Nguyễn Thị Duệ. Dù không trực tiếp nói nhiều đến việc bà làm chính sự, nhưng qua những lần trò chuyện với vua, qua những lần vua hỏi ý kiến, bà đều dẫn giải kinh sách, đóng góp những ý kiến hay khiến nhà vua rất tâm đắc. Truyền thuyết kể rằng có một năm, được mùa to, dân chúng vô cùng phấn khởi, quân sĩ chiêu mộ được nhiều mà lương thảo, khí giới cũng tích trữ được khá lớn, quần thần nhiều người lại muốn triều đình cho khởi binh chiếm lại Thăng Long. Vua đang phân vân chưa quyết, bèn đem bàn với Tinh phi, bà đã khuyên vua không nên đem quân đi đánh, phân tích rõ thiệt hơn, từ địa thế, thế mạnh của địch, vua nghe có lý và nghe theo. Nhưng sau đó ít lâu, khi nghe tin nhà Trịnh sợ bọn Phan Ngạn nổi lên làm loạn, lại có nhà Mạc đang hoạt động mạnh ở nhiều nơi. Trịnh Tùng sợ vội đưa quân chạy vào Thanh Hóa. Kinh thành Thăng Long bỏ trống, vua Mạc liền cho quân chiếm lấy, nhưng không giữ được lâu vì thế lực Trịnh Tùng còn rất mạnh. Ít lâu sau, 14 các trấn ở xung quanh Thăng Long hợp vào đánh, nhà Mạc thua phải chạy rút về Cao Bằng cố thủ. 2.3. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện nhà giáo dục, sáng tạo văn hóa Trong bốn danh nhân văn hoá nói trên, về phương diện giáo dục, sáng tạo văn hoá chúng tôi xin đề cập đến hai nhân vật chủ yếu đó là: Chu Văn An và Nguyễn Thị Duệ. Trong truyền thuyết, Chu Văn An là hiện thân của một người thầy mẫu mực, một tấm gương sáng về đạo đức, tiết tháo của người trí thức sống trong buổi thoái trào của triều đại. Ông đỗ tiến sỹ nhưng không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học. Với học vấn rất sâu, có uy tín về đạo đức và tài năng sư phạm đã thu hút được rất nhiều học trò và có rất nhiều người thành đạt và làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát làm đến chức Tể tướng. Tương truyền, một lần Phạm Sư Mạnh, bấy giờ đang làm Nhập nội hành khiển (một chức quan gần như Tể tướng) về thăm thầy Chu Văn An. Gặp ngày phiên chợ người đông, quân lính thét loa, vung roi mở đường cho kiệu quan hành khiển, huyên náo, ồn ào. Chu Văn An biết được việc đó, đã chỉ vào mặt Phạm mà mắng: - Về thăm thầy mà làm náo loạn cả bàn dân thiên hạ, thì ta còn mặt mũi nào mà ngẩng nhìn mọi người nữa! Rồi ông phủi áo bỏ vào nhà trong. Phạm Sư Mạnh vừa biết lỗi vừa hối hận, cứ quỳ gối bên giường, mãi đến khi thầy nguôi giận tha lỗi mới dám đứng dậy. Từ đó, mỗi lần về thăm thầy, Phạm Sư Mạnh chỉ mặc áo vải thâm, đi cùng vài người như học trò thường. Một truyền thuyết nổi tiếng mà dân gian thường truyền tụng đó là truyền thuyết về người học trò của Chu Văn An là con trai của thuỷ thần, đã nghe lời thầy giúp dân làm mưa cứu hạn và bị trời phạt bị sét đánh chết nổi lên thành xác con thuồng luồng. Qua truyền thuyết, dân gian muốn gửi gắm, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc về nhân vật lịch sử Chu Văn An, một người thầy mẫu mực, tài năng, đức độ đã cảm hoá được cả thuỷ thần. Truyền thuyết về Nguyễn Thị Duệ ca ngợi bà là người khéo khuyến khích người sau học tập để trở thành người hiền tài để phụng sự đất nước. Mỗi tháng hai kỳ cho họp sĩ tử Tư văn hàng huyện làm tập văn. Đề bài do bà ra, rồi sai người từ kinh đô mang về. Bài làm xong, giao cho hội tư văn niêm phong lại, rồi nộp cho bà. Nguyễn Thị Duệ tự chấm bài và trả bài đúng hạn, các bài viết đều có đánh giá đúng sai, nhằm khích lệ kẻ sĩ. 15 Dưới hai triều vua, bà đều lấy văn chương cung phụng. Mỗi khi việc cần hỏi, bà đều dẫn kinh sử, sự tích ngày xưa để đối đáp, chúa thường khen ngợi. Cả quyển thi hội, văn sớ quần thần đều qua tay bà xem xét, quyết định. Trong quá trình dạy học bà luôn khuyến khích việc học tập, rèn cặp nhân tài. Bà danh 10 mẫu lộc điền dọc theo sông Kinh Thầy (dân gian gọi là dải yếm Bà chúa Sao Sa) để thưởng cho những tân tiến sĩ của làng cày cấy, thu hoa lợi, giúp đỡ những học trò nghèo như miễn học phí, cấp cho tiền ăn và giấy bút. Từ đó phong trào học tập không ngừng phát triển. 2.4. Truyền thuyết khắc họa danh nhân văn hóa trên phương diện bi kịch cá nhân Trong bốn danh nhân văn hoá trên chúng tôi quan tâm đến hai danh nhân văn hoá đó là: Chu Văn An và Nguyễn Trãi (còn Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Duệ tuy cuộc đời cũng có những lúc thăng trầm, nhưng dù sao cả hai đều được triều đình trọng vọng, tin dùng hậu đãi đến tận cuối đời, cuộc đời khá bình yên, suôn sẻ). Bi kịch của Chu Văn An đó chính là bi kịch của một người trí thức yêu nước, bất đắc chí với thời cuộc, lui về ở ẩn mà tấm lòng mãi đau đáu với vận mệnh của đất nước, với nhân dân. Trong truyền thuyết nói đến việc Chu Văn An dân sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua Dụ Tông không nghe nên ông đành cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, hàng ngày dạy học, vui thú với thiên nhiên. Nhưng những bài thơ của ông đã nói hộ lòng ông rất nhiều với hậu thế. Tuy rằng, cáo quan về ở ẩn, nhưng trong lòng ông không khỏi âu lo, ưu tư trước thời cuộc, không thể “ngoảnh mặt làm ngơ”. Bởi thế “Mỗi khi có cuộc họp lớn trong triều, vua cho vời, ông không ngại đường xá xa xôi, sông nước ngăn cách lặn lội từ Chí Linh về kinh kỳ” [45, tr 62, 63]. Quả là tâm hồn ông, con người ông luôn hướng về những biến động xã hội diễn ra tại Thăng Long. Nhưng Dụ Tông có ý mời ông trong nom chính sự thì ông lại từ chối không nhận. Đó chính là bi kịch mâu thuẫn trong con người ông, bi kịch tinh thần. Song bi kịch của Chu Văn An so với bi kịch của Nguyễn Trãi, tấn bi kịch của Nguyễn Trãi còn khủng khiếp hơn gấp ngàn lần. Thảm án Lệ Chi Viên – tru di ba họ vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã làm kinh động cả đất trời. Xung quanh vụ thảm án Lệ Chi Viên có rất nhiều nghi vấn. Một trong những nghi vấn đó là huyền thoại Rắn báo oán. Có rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu. Để hiểu rõ các nhà nghiên cứu không chỉ dựa vào lịch sử mà từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có truyền thuyết Sự thực lịch sử là do Nguyễn Trãi đã vạch tội bọn bầy tôi hèn mọn trong cung đình. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ dám can thiệp vào sự tranh giành quyền lực nơi hậu cung giữa Nguyễn Thị Anh và Ngô Thị Ngọc Dao, cứu Ngô Thị Ngọc Dao. Cái chết do hàng 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất