Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người dân xã nùng nàng, huyện tam đường, tỉnh lai...

Tài liệu Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người dân xã nùng nàng, huyện tam đường, tỉnh lai châu

.PDF
101
336
78

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC Đỗ Thị Hiện TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI DÂN XÃ NÙNG NÀNG, HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60220102 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Hiệu I LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Đỗ Thị Hiện II LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô giáo. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, quan tâm chỉ bảo của Thầy giáo – PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệu đã giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này. Qua đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm, giúp đỡ của các Thầy, Cô; sự ủng hộ của gia đình và sự cổ vũ của các bạn. Tôi xin chân thành cám ơn! Học viên Đỗ Thị Hiện III MỤC LỤC Trang phụ bìa ..................................................................................................... Lời cam đoan ...................................................................................................... Lời cảm ơn .......................................................................................................... Mục lục ............................................................................................................... Quy ước viết tắt ................................................................................................. I Danh mục các bảng ......................................................................................... II MỞ ĐẦU ................................................................................................................ VII Chương 1: Cơ sở lí luận và một vài nét sơ lược về địa bàn khảo sát. ................10 1.1. Một số tiền đề lí luận có liên quan. .................................................................10 1.2.Vài nét sơ lược về người Mông và tiếng Mông ở Việt Nam. .........................12 1.2.1. Người Mông ở Việt Nam................................................................................12 1.2.2. Tiếng Mông. ...................................................................................................18 1.3. Một vài nét sơ lược về tỉnh Lai Châu .............................................................20 1.4. Khái quát về địa bàn khảo sát. ........................................................................24 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................29 Chương 2: Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu ...................................30 2.1. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về độ tuổi. ...........................................................................................................................30 2.1.1. Nhóm tuổi trên 50. .........................................................................................32 2.1.2. Nhóm tuổi từ 31 – 50......................................................................................34 2.1.3. Nhóm tuổi từ 16 – 30......................................................................................36 2.1.4. Nhóm tuổi từ 6 – 15........................................................................................39 2.2. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về trình độ văn hóa. .....................................................................................................41 2.2.1. Mù chữ. ...........................................................................................................43 2.2.2. Nhóm người có trình độ từ lớp 1 đến lớp 5. .................................................44 2.2.3. Nhóm người có trình độ từ lớp 6 đến lớp 9. .................................................45 2.2.4. Nhóm người có trình độ từ lớp 10 đến lớp 12. .............................................46 2.2.5. Nhóm người có trình độ trên lớp 12. .............................................................47 2.3. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về nghề nghiệp. .............................................................................................................49 2.3.1. Nông dân. .......................................................................................................50 2.3.2 Giáo viên, y tá. .................................................................................................51 2.3.3. Học sinh. .........................................................................................................52 2.3.4. Sinh viên. ........................................................................................................53 IV 2.4. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về môi trường giao tiếp. ......................................................................................................54 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................55 Chương 3: Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. .........................58 3.1. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về độ tuổi. ...........................................................................................................................58 3.1.1. Nhóm tuổi trên 50. .........................................................................................60 3.1.2. Nhóm tuổi từ 31 – 50......................................................................................61 3.1.3. Nhóm tuổi từ 16 – 30......................................................................................62 3.1.4. Nhóm tuổi từ 6 – 15........................................................................................64 3.2. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về trình độ văn hóa. .....................................................................................................................67 3.2.1. Mù chữ. ...........................................................................................................68 3.2.2. Nhóm người có trình độ từ lớp 1 đến lớp 5. .................................................69 3.2.3. Nhóm người có trình độ từ lớp 6 đến lớp 9. .................................................70 3.2.4. Nhóm người có trình độ từ lớp 10 đến lớp 12. .............................................72 3.2.5. Nhóm người có trình độ trên 12. ...................................................................73 3.3. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về nghề nghiệp. .............................................................................................................74 3.3.1. Nông dân. .......................................................................................................75 3.3.2. Giáo viên, y tá, cán bộ. ...................................................................................76 3.3.3. Học sinh. .........................................................................................................77 3.3.4. Sinh viên. ........................................................................................................78 3.4. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu dựa trên sự khác biệt về môi trường giao tiếp. ......................................................................................................79 Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................80 KẾT LUẬN ..............................................................................................................82 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................86 PHỤ LỤC V QUY ƯỚC VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ GS Giáo sư PGS Phó giáo sư TS Tiến sĩ HS Học sinh THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TC Trung cấp CĐ Cao đẳng ĐH Đại học PTTQ Phong tục tập quán VI DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Tên bảng Trang 2.1 2.2 Các nhóm tuổi của nữ giới là người Mông ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiêng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở độ tuổi học đường theo cấp học Trình độ văn hóa của nữ giới là người Mông ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới theo nghề nghiệp ở xã Nùng Nàng Các nhóm tuổi của nam giới là người Mông ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới theo độ tuổi ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở độ tuổi học đường theo cấp học Trình độ văn hóa của nam giới là người Mông ở xã Nùng Nàng Năng lực tiếng mẹ đẻ và tiêng Việt của người Mông là nam giới theo nghề nghiệp 30 31 2.3 2.4 2.5 3.1 3.2 3.3 3.4 3.5 VII 39 42 49 58 59 65 67 74 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số 86.8%, sống tập trung chủ yếu ở vùng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng ven biển miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long và các thành phố lớn. 53 dân tộc thiểu số khác sống chủ yếu trên các vùng núi, trải dài từ Bắc vào Nam, xen kẽ với nhau tạo nên một bức tranh đa dạng và phức tạp về địa bàn cư trú. Các dân tộc nước ta đều có nền văn hóa riêng đặc sắc. Tất cả góp phần tạo nên một nước Việt Nam đa ngôn ngữ, đa văn hóa – một đất nước có nền văn hóa đa dạng nhưng thống nhất. Cho đến nay vẫn chưa có một con số chính xác, đủ sức thuyết phục về số lượng các ngôn ngữ ở Việt Nam, nhiều trường hợp chưa xác định rõ đó là ngôn ngữ dân tộc hay chỉ là một biến thể địa phương ( phương ngữ) nhưng trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta thấy sự có mặt đầy đủ của các họ ngôn ngữ quan trọng nhất ngữ hệ Đông Nam Á là: Nam Á, Thái – Kađai, Nam Đảo, Mông – Dao, Hán –Tạng. Sự hội tụ này đã tạo nên “một thiên đường ngôn ngữ học” (V.B.Kasevich), thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới. Mông là một dân tộc lớn với dân số đông thứ năm trong các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên tiếng Mông lại đang dần bị mai một. Lý do là hiện nay có một bộ phận người Mông sử dụng tiếng Việt thay vì tiếng Mông. Ngôn ngữ là công cụ để các dân tộc giữ gìn bản sắc, phát huy phong tục tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Cùng với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến văn hoá 1 truyền thống các dân tộc thiểu số mà trong đó có sự mai một về ngôn ngữ. Muốn bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số thì việc gìn giữ ngôn ngữ của dân tộc mình là điều thiết yếu. Vì vậy, nghiên cứu tiếng Mông là vô cùng quan trọng. Các ngôn ngữ dân tộc nói chung và tiếng Mông nói riêng đóng một vai trò thiết yếu vào việc phổ biến kiến thức cho các cộng đồng người bản địa, kể cả các kiến thức về khoa học tự nhiên và công nghệ. Khi đó ngôn ngữ là cánh cửa để những sắc tộc khác nhau cùng được tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sắc tộc, vùng miền, bắt đầu từ ngôn ngữ mẹ đẻ. Ngôn ngữ là di sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Bởi lẽ, ngôn ngữ là sản phẩm kết tinh nhiều nhân tố (tư duy, phong tục, văn hoá) của một cộng đồng cư dân qua bao nhiêu đời. Một ngôn ngữ mất đi có nghĩa là một nền văn hoá đã bị tiêu vong. Có rất nhiều lý do nhưng điều đáng buồn lại chính là thái độ ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số đối với tiếng mẹ đẻ của họ. Nhận thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ trong bối cảnh quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, Đảng và Nhà nước ta đề ra các chính sách phát triển cho đồng bào các dân tộc thiểu số đã sớm chú trọng đến chính sách ngôn ngữ. Ngay từ năm 1935, trong Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã xác định: “ Mỗi dân tộc… dược dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa của mình” [14, tr.73]. Chủ trương đó được quán triệt xuyên suốt các giai đoạn cách mạng của dân tộc, cụ thể: Nghi quyết Hội nghị trung ương lần thứ V, khóa VIII của Đảng xác định: “ … Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc; đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành 2 thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình” [13, tr. 65-66]; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “ Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc…dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc” [15, tr.115]. Chủ trương, đường lối của Đảng về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp, các luật và nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết: “ Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói và chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” [20, tr.138]. Các bộ luật, các luật như: Luật giáo dục, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tòa án, Luật báo chí, Luật xuất bản,… đều ghi nhận rõ ràng, cụ thể về quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số. Hiện Lai Châu có 07 huyện và 1 thành phố, người Mông cư trú ở tất cả các địa bàn. Câu chuyện quên tiếng mẹ đẻ diễn ra ở nhiều nơi dẫn đến nguy cơ mai một tiếng Mông. Do vậy, muốn giữ gìn, chúng ta phải chú trọng nâng cao vị thế của ngôn ngữ này thông qua việc học nó song song với học chữ quốc ngữ và có những chính sách hợp lý trong việc bảo tồn và phát triển tiếng Mông nói riêng và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số nói chung. Vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa của mỗi dân tộc không chỉ là điều tra tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ của dân tộc đó mà cần phải nghiên cứu môi trường hoạt động của nó. Môi trường này hiển nhiên có sự đan xen nhiều thành phần ngôn ngữ khác nhau, ảnh hưởng đến sự hoạt động của ngôn ngữ ở từng mức độ khác nhau. Có thể khẳng định rằng chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với 3 ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là đúng đắn và căn bản. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn cònnhiều điều bất cập: “ Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về ngôn ngữ dân tộc thường chỉ dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể cùng các hình thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng khu vực, từng dân tộc, đặc biệt là thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức và phương pháp, sau cùng là một chế độ kiểm tra, đánh giá ở cấp Nhà nước, để triển khai” [37, tr.30] Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người dân xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu” với mong muốn khái quát rõ tình hình sử dụng ngôn ngữ ( cụ thể là tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt) của người Mông nơi đây. - Ý nghĩa lý luận của đề tài: Hệ thống hóa các quan điểm và làm rõ tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu - Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:  Kết quả khảo sát là một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về việc sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, xây dựng chính sách ngôn ngữ phù hợp giúp các ngôn ngữ vừa được sử dụng, vừa được phát triển để nâng cao vị thế và phát huy vai trò của nó.  Nhận thức được giá trị của ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong phát triển vùng. Góp phần vào sự cố gắng chung của cộng đồng trong việc bảo vệ tiếng Mông nói riêng và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số nói chung. 2. Lịch sử vấn đề 4 Về đề tài liên quan đến ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, hàng năm có rất nhiều các chính sách, các hoạt động thực tiễn, các công trình nghiên cứu của Đảng và Nhà nước, của các nhà ngôn ngữ học và các nhà giáo dục. Ngay từ khi giành được độc lập (1945) đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra rất nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến vấn đề ngôn ngữ các dân tộc thiểu số và luôn kiên trì thực hiện các tư tưởng, chính sách đã đề ra. Các chủ trương, chính sách ấy được thể hiện tập trung nhất trong quyết định số 53/CP của Hội đồng Chính phủ (1980). Quyết định này cũng khẳng định rằng: “Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển ...” Đi đôi với những chủ trương, chính sách ấy, Đảng và Nhà nước ta cũng đã thực hiện rất nhiều các hoạt động cụ thể để gìn giữ và phát triển ngôn ngữ, văn hóa của các dân tộc thiểu số nước ta. Những hoạt động đó là đầu tư ngân sách vào việc xây dựng cơ sở vật chất, điện, đường, trường, trạm,… để tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số sinh sống và học tập. Bên cạnh đó, là những đầu tư về mặt trí tuệ như tăng số lượng và chất lượng giáo viên giảng dạy cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Về mặt nghiên cứu, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không có điều kiện để liệt kê tất cả công trình nghiên cứu ấy. Chúng tôi chỉ xin nêu ra một số công trình tiêu biểu nhất. Trước hết là phải kể đến Hội thảo khoa học “Ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ dân tộc và phát triển” do Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia tổ chức vào tháng 5 năm 1993 tại Hà Nội. Trong hội nghị này, đã có hơn 50 báo cáo và tham luận được trình bày. Các báo cáo tiêu biểu nhất đã được tuyển chọn trong cuốn sách “Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam”. Các công trình nghiên cứu này đã cho chúng ta thấy rõ hơn thực trạng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số của nước ta 5 hiện nay. Ngoài ra hàng năm, có rất nhiều các luận văn tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học của các sinh viên, học viên khoa ngôn ngữ học trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn. Nhiều công trình có giá trị của các Giáo sư, Phó Giáo sư đầu ngành về ngôn ngữ của Việt Nam: Giới thiệu bức tranh chung về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ( Phạm Đức Dương, 1978; Hoàng Tuệ, 1981; Như Ý, 1992; Trần Trí Dõi, 1997;…); Khảo sát vấn đề giáo dục song ngữ vùng dân tộc thiểu số Việt Nam ( Trần Trí Dõi, 2003; Đinh Lê Thư, 2005); Nghiên cứu vấn đề sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp trong xã hội đa ngữ ở vùng dân tộc thiểu số Việt Nam ( Nguyễn Văn Khang, 2003; Nguyễn Thị Thanh Bình, 2004). Đây thực sự là những công trình nghiên cứu đóng góp rất nhiều cho việc nghiên cứu để tiến hành hoạch định ngôn ngữ. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là khái quát được tình hình sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt) của người Mông ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Chúng tôi hy vọng, với đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số nước ta. Thông qua đó sẽ góp phần cho việc triển khai các chính sách ngôn ngữ cho đồng bào các dân tộc thiểu số phù hợp và có hiệu quả hơn. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt) của người Mông ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu theo độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. - Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa đến việc sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. - Phân tích ảnh hưởng của yếu tố thái độ ngôn ngữ đến việc sử dụng 6 tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông ở đây. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi không có điều kiện để khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ của tất cả người dân ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Chúng tôi chỉ chọn khảo sát ngẫu nhiên 500 người dân tộc Mông ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Như đã nói ở trên, trong luận văn này, chúng tôi chọn địa bàn khảo sát là xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Tại một địa bàn khảo sát thì có rất nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề để nghiên cứu. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ chọn phạm vi nghiên cứu là khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ ( tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt) của người Mông ở đây. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận xét về khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của các đối tượng thông qua các yếu tố độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chính là: - Phương pháp điều tra điền dã ngôn ngữ học xã hội. - Phương pháp thống kê, xử lí tư liệu. 5.1. Phương pháp điều tra điền dã ngôn ngữ học xã hội Để thực hiện được đề tài này, đòi hỏi phải có sự khảo sát trực tiếp tại địa bàn thực tế, vì vậy mà chúng tôi cần chuẩn bị các phiếu khảo sát để phục vụ cho việc điều tra. Điều mà chúng tôi quan tâm trong đề tài này là tình hình sử dụng và khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông tại địa bàn khảo sát cho nên chúng tôi đã thiết kế bảng tự đánh giá năng lực ngôn ngữ cho những đối tượng được khảo sát. Ngoài ra, còn có các mục như: giới 7 tính, độ tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp… đây là những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của các đối tượng. Tiếp đó, phiếu khảo sát còn đề cập đến các trường hợp giao tiếp khác nhau với những đối tượng khác nhau như: gia đình, trường học, bệnh viện, nơi công cộng, ở chợ… đây là những yếu tố chi phối cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ của các đối tượng được khảo sát. Ngoài ra, chúng tôi có đề cập câu hỏi đến ý muốn duy trì và bảo tồn tiếng mẹ đẻ của họ để đánh giá ý thức của các đối tượng với chính ngôn ngữ của dân tộc mình. Phiếu khảo sát được thông qua ý kiến của giáo viên hướng dẫn, sau đó chúng tôi mới tiến hành đưa vào khảo sát. 5.2. Phương pháp thống kê, xử lí tư liệu Sau khi hoàn thành việc thu thập tư liệu, chúng tôi tiến hành thống kê theo các tiêu chí: độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa. Với tiêu chí độ tuổi, chúng tôi chia làm 3 nhóm: nhóm tuổi (từ 6 – 15 tuổi), nhóm tuổi (từ 16 – 50 tuổi) và nhóm tuổi (trên 50 tuổi). Với tiêu chí trình độ văn hóa, chúng tôi chia thành các nhóm tương đương với các lớp trong chương trình phổ thông hiện nay: Mù chữ, nhóm có trình độ từ lớp 1 đến lớp 5, nhóm có trình độ từ lớp 6 đến lớp 9, nhóm có trình độ từ lớp 10 đến lớp 12 và nhóm có trình độ trên 12. Với tiêu chí nghề nghiệp, chúng tôi chia thành các ngành nghề khác nhau. Qua sự phân loại các tiêu chí mà chúng tôi nhận thấy sự khác biệt khá lớn về tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của các đối tượng tại địa bàn khảo sát. Cuối cùng, chúng tôi tiến hành xem xét các tiêu chí rồi lập bảng cho phù hợp, sau đó tính phần trăm của các con số thu được. Sau khi đã xử lí số liệu, chúng tôi tiến hành so sánh, phân tích theo từng tiêu chí. Qua đó để có thể miêu tả, nhận xét và lý giải về tình hình sử 8 dụng tiếng mẹ đẻ và tiềng Việt của người Mông ở địa bàn khảo sát. 6. Bố cục luận văn Luận văn của chúng tôi gồm những phần chính sau: PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận và một vài nét sơ lược về địa bàn khảo sát Chương 2: Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nữ giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu Chương 3: Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Mông là nam giới ở xã Nùng Nàng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu KẾT LUẬN 9 Chương 1: Cơ sở lí luận và một vài nét sơ lược về địa bàn khảo sát 1.1. Một số tiền đề lí luận có liên quan Trong các nghiên cứu về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, chúng ta đều thấy rằng các dân tộc thiểu số Việt Nam đều là những cộng đồng song ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong môi trường nhất định như gia đình, làng xóm, các cá nhân với nhau thì họ còn sử dụng tiếng Việt như là ngôn ngữ thứ hai của mình. Tiếng Việt được họ sử dụng trong giao tiếp ngoài xã hội, trong các công việc buộc họ phải sử dụng tiếng Việt để hòa nhập. Điều này chứng tỏ tình trạng song ngữ và đa ngữ ở cộng đồng các dân tộc thiểu số là rất phổ biến. Vì thế mà bức tranh ngôn ngữ ở Việt Nam mang đầy vẻ hấp dẫn và kì thú nhưng cũng không kém phần phức tạp. Để góp phần làm rõ hơn những khái niệm liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi xin giới thiệu một số khái niệm sau đây: Khái niệm tiếng mẹ đẻ được nhiều nhà ngôn ngữ học, văn hóa học, dân tộc học … nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhưng trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin nêu định nghĩa về tiếng mẹ đẻ của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp Quốc (UNESCO):“Tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ mà con người học được trong những năm đầu đời của đời mình và thường trở thành công cụ tư duy và truyền thống tự nhiên”. Tiếng mẹ đẻ “không cần phải là thứ tiếng mà cha mẹ đứa trẻ dùng, cũng không cần phải là ngôn ngữ đầu tiên mà đứa trẻ học nói, bởi vì có những hoàn cảnh đặc biệt làm cho nó vào một tuổi rất sớm đã bỏ một phần hay hoàn toàn ngôn ngữ đó” (UNESCO, 1969) GS. Nguyễn Văn Khang cho rằng: “ tiếng mẹ đẻ là tiếng của dân tộc mình… là ngôn ngữ thứ nhất của mình” [22, tr. 43]. 10 Cũng có cách hiểu khác “ ngôn ngữ được con người sử dụng từ thủa nhỏ bằng cách bắt chước người lớn chung quanh mình; đối lập với tiếng nước ngoài”, là “ ngôn ngữ của bản thân dân tộc được nói đến, phân biệt với những ngôn ngữ khác; còn gọi là bản ngữ”[44, tr. 290] Đơn ngữ: là hiện tượng biểu thị khả năng biết và sử dụng một ngôn ngữ trong giao tiếp [ Dẫn theo 22] Hiện tượng song ngữ: là biểu hiện trực tiếp của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, nó xuất hiện từ lâu, phát triển không ngừng và là một trong những đặc trưng phổ biến có tính chất quy luật đối với các dân tộc và thế giới hiện đại. Cụ thể hơn, song ngữ là một hiện tượng tồn tại hai hay nhiều ngôn ngữ ở một người hay một tập thể người sinh sống trên một địa bàn có đặc điểm riêng về mặt xã hội – văn hóa [ Dẫn theo 31]. Hay song ngữ là hiện tượng sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ của người song ngữ trong xã hội đa ngữ [ Dẫn theo 22] Trạng thái song ngữ có thể được hiểu là “hiện tượng biểu thị khả năng biết và có thể sử dụng hai ngôn ngữ có vị thế xã hội ngang nhau trong giao tiếp” [ Dẫn theo 31]. Đây là hiện tượng phổ biến ở nước ta tại các địa bàn dân tộc thiểu số, họ sử dụng tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ một cách tự nhiên theo nhu cầu cuộc sống. Như vậy là năng lực ngôn ngữ gắn liền với tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ. Cá thể song ngữ là năng lực sử dụng hai hay trên hai ngôn ngữ của các cá nhân. Mức độ nắm vững song ngữ của người song ngữ là rất khó xác định. Vì thế mà người ta chia khả năng song ngữ của người song ngữ ra thành hai loại là: song ngữ bộ phận và song ngữ hoàn toàn. Song ngữ bộ phận (song ngữ không hoàn toàn) là trong phạm vi cơ bản, người sử dụng có thể trình bày được ý nghĩ của mình mà người khác 11 hiểu được, cảm thụ được, đồng thời có thể hiểu được ý của người khác trình bày bằng hai ngôn ngữ đó [ Dẫn theo 22] Song ngữ hoàn toàn là khả năng nắm bắt một cách chủ động, tự do như nhau hai ngôn ngữ đến mức có thể tư duy trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà không cần dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác [ Dẫn theo 22] Cộng đồng song ngữ là cộng đồng người sinh sống trên một địa bàn, có đặc điểm riêng biệt về mặt xã hội, văn hóa, sử dụng đồng thời hai hay nhiều ngôn ngữ do nhu cầu giao tiếp về kinh tế, văn hóa, chính trị [ Dẫn theo 22]. Như vậy , từ những khái niệm trên, kết hợp với việc nghiên cứu thực trạng ngôn ngữ ở vùng dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta cần hoạch định chính sách về ngôn ngữ và văn hóa nói chung nhằm củng cố an ninh quốc phòng cũng như khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Từ đó làm cho tiếng Việt khẳng định được vai trò, vị thế của mình là ngôn ngữ chung của đồng bào cũng như phổ cập kiến thức và nâng cao dân trí trong xã hội. Đồng thời giữ gìn và củng cố được vai trò của tiếng mẹ đẻ trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. 1.2.Vài nét sơ lược về người Mông và tiếng Mông ở Việt Nam 1.2.1. Người Mông ở Việt Nam Hiện nay dân tộc Mông sống ở nước ta có khoảng 60 vạn người, chiếm tỷ lệ gần 1% dân số cả nước. Nơi cư trú của đồng bào chủ yếu tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái v.v... và một số các tỉnh như Nghệ An, Thanh Hoá, Hoà Bình v.v... gần đây có một số vào các tỉnh Tây Nguyên sinh sống. Người Mông Việt Nam là một trong những cư dân sinh sống sớm nhất, 12 lâu nhất ở vùng núi cao của miền Bắc Việt Nam. Dân tộc Mông thuộc nhóm ngữ hệ Mông - Dao. Người Dao vào nước ta khoảng thế kỷ XIII còn người Mông muộn hơn, cách đây khoảng 2-3 thế kỷ. Khi sang ta thì vùng thấp và vùng giữa đã có người cư trú, nên họ phải sống trên rẻo cao, cách mặt biển hơn 1000m, làm rẫy du canh, du cư. Địa bàn cư trú hiện nay của các dân tộc cũng đồng thời phản ánh quá trình và thời gian phân bố tộc người. Những dân tộc sinh sống lâu đời thì chủ yếu sống ở vùng thấp, thung lũng như Tày, Nùng, Việt. Những dân tộc đến muộn hơn thì ở rẻo giữa như người Dao, người Thái, còn dân tộc chuyển cư muộn hơn cả thì ở rẻo cao như dân tộc Mông. Người Mông tự gọi tên dân tộc mình là dân tộc Mông, là người Mông. Người Mông ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Việt Nam... đều thống nhất một tên như vậy. Không bao giờ họ tự gọi mình là Mèo, Miêu hay Hơ Mông. Tên của dân tộc được gọi theo tên mà dân tộc đó thường tự gọi và thừa nhận là đúng nhất. Tại Hội nghị cốt cán dân tộc Mông có đại diện của tất cả các địa phương và các nhóm Mông ở trong nước đến dự, năm 1987 do Uỷ ban dân tộc của Chính phủ chủ trì, đã thống nhất kiến nghị và được chấp nhận tên gọi là dân tộc Mông mà không gọi là Mèo nữa. Dân tộc Mông miền núi phía Bắc, với đa số là cư dân sống trên rẻo cao, chủ yếu sống bằng nghề nông là chính, bằng phương thức canh tác nương rẫy (phát - đốt), thu nhập gia đình chủ yếu bằng các nghề trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và hái lượm, nền kinh tế cơ bản là tự cấp, tự túc. Do phương thức canh tác nương rẫy, nên sự tác động với cây trồng đều bằng sức lực của con người, việc sử dụng phân bón, sức kéo trâu bò, các phương tiện đều khó khăn nên năng suất cây trồng thường không ổn định, bấp bênh. Bởi vậy đời sống người Mông còn gặp nhiều khó khăn. Trong cơ cấu của nền kinh tế tiểu nông truyền thống, trồng trọt cây 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất