LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hộI ở Việt Nam, phát triển kinh tế
là một trong những yếu tố quan trọng để đi đên thành công.Xuất phát từ yêu
cầu thực tế khách quan, dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN bước
đầu đã đạt được những thắng lợi quyết định và quan trọng. Thực tiễn những
năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền KTTT nhiều thành
phần là hoàn toàn đúng đắn .Tuy nhiên, thực tế cũng đã đặt ra cho chúng ta
không ít những khó khăn và thách thức đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát
hiện và nhanh chóng giải quyết
Là một sinh viên kinh tế, với mong muốn được tìm hiểu những vấn đề
của nền kinh tế -đặc biệt là một vấn đề mang tính thực tiễn như trên -về quan
điểm lí luận cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lí các
vấn đề liên quan để có thể thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước nhà mà
Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ thực hiện nên em đã quyết định lựa chọn
đề tài “KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam” để làm đề án cho môn Kinh tế
chính trị .
Kết cấu đề án gồm ba vấn đề lớn :
I-Phát triển KTTT là một tất yếu khách quan.
II-KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
III-Thực trạng, mục tiêu và giải pháp phát triển KTTT định hướng
XHCN .
1
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG LÀ MỘT TẤT YẾU
KHÁCH QUAN.
1.Quan niệm về KTTT.
Lịch sử loài người đã được chứng kiến các kiểu tổ chức kinh tế - xã hội
:từ kinh tế tự nhiên ( kinh tế tự cấp, tự túc ), đến KTTT ( cũng đi từ kinh tế
hàng hoá của nông dân và thợ thủ công ), phát triển thành KTHH TB, rồi đến
KTTT được hình thành và phát triển dưới CNTB khi mà hệ thống thị trường
được hình thành và phát triển một cách đồng bộ .
Như vậy, KTTT là hình thức phát triển cao của KTTT. Điều đó có
nghĩa là, về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và bản chất, tức là sản phẩm sản
xuất ra là để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích sản xuất không phải là
để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để
bán, thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng
KTTT và KTTT thì không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ
phát triển, trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường ; đồng
thời các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá.
Kinh tế hàng hoá vận hành theo CCTT thì được gọi là KTTT, nó bao
gồm tổng thể các nhân tố :năng suất lao động, mức độ giản đơn hay phức tạp
của lao động ;mối quan hệ giữa người tiêu dùng và các nhà sản xuất ; đặc biệt
là các quy luật chi phối sự vận động của nền kinh tế hàng hoá :quy luật giá trị,
quy luật cung -cầu, quy luật lưu thông tiền tệ …sự tác động của các quy luật
này hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế .
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng mang những đặc trưng
chung của nền KTTT. Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh. Hai là, giá cả được hình thành do thị trường là
chủ yếu ( do chịu sự chi phối của những quy luật vốn có của nền KTTT : quy
luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh …). Ba là, KTTT có đặc
trưng là kinh tế “mở”. Bốn là, trong nền KTTT hiện đại, thì còn có sự điều
tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính
sách kinh tế …
2. KTTT không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội .
a.
Về cơ sở tồn tại khách quan của KTTT.
KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá nên cơ sở chung
của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội không mất đi trong nền
kinh tế mà ngày càng được phát triển sâu, rộng. Về chiều sâu, sự phát triển
của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất
lượng ngày càng cao của sản phẩm được đưa ra trao đổi trên thị trường. Về
2
chiều rộng, sự phân công lao động được phát triển trong từng cơ sở kinh tế,
từng địa phương trong cả nước và tiến tới tham gia vào phân công lao động
quốc tế.
Cũng như trong nền KTHH, nếu như phân công lao động xã hội là điều
kiện cần thì sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là
điều kiện đủ cho sự tồn tại khách quan của nền KTTT. Được biểu hiện trước
hết trong nền KTTT là tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất : , sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể,
sở hữu tiểu chủ, sở hữu TB tư nhân ), sở hữu hỗn hợp. Từ các loại hình sở
hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế :kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế TB tư nhân, kinh tế TB nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích
riêng. Ngay cả các đơn vị kinh tế dưa trên cùng một quan hệ sở hữu cũng có
sự tách biệt về kinh tế do lực lượng xã hội hoá chưa cao, chưa thể phân phối
trực tiếp sản phẩm cho nhau.
Ví dụ, thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác
biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng .
Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật –
công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiẹu quả sản
xuất cũng khác nhau.
Do đó, quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế chỉ có thể thực hiện bằng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Tiền tệ ra đời làm cho thế giới hàng hoá tách biệt
thành hai cực đối lập : hàng hoá và tiền tệ để tính hiệu quả kinh tế và trao đổi
sản phẩm cho nhau
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn phải được sử dụng trong quan hệ kinh tế
quốc tế.
Như vậy, KTTT ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan thì không
thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được.
b. KTTT không chỉ tồn tại khách quan chủ nghĩa xã hội ở nước ta
mà nó còn cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
KTTT được phát triển dưới CNTB nhưng không phải là sản phẩm riêng
có của CNTB, nó được coi là thành tựu của nền văn minh nhân loại .Trước đây,
K. Marx đã cho rằng : KTHH đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất
hàng hoá khác nhau, chỉ khác nhau về quy mô và trình độ phát triển .
Mấy thập niên trước năm 1968, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp. Đặc trưng của cơ chế này là :Nhà nước giao kế
hoạch cho các doanh nghiệp với một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước
cung cấp vật tư, tiền vốn. Xí nghiệp sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của
Nhà nước và giao nộp sản phẩm, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù, điều đó
có nghĩa là triệt tiêu mất động lực sản xuất, kinh doanh. việc phân phối mang
3
tính chất bình quân và dưới hình thức hiện vật là chủ yếu, một sự bao cấp tràn
lan, làm cho nền kinh tế bị hiện vật hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ không
được coi trọng.
Với cơ chế này đã là một trong những nguyên nhân làm cho hệ thống
CNXH lâm vào khủng hoảng. Do đó, từ đại hộI VI – 1986, Đảng ta chủ
trương xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền KTHH
nhiều thành phần vận hành theo CCTT có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước dần
từng bước chuyển sang KTTT.
Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT :
Thứ nhất, phát triển KTTT tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển : Trong quá trình cạnh tranh, để có thể đứng vững thì buộc các chủ
thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để
giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu. Nhờ đó mà năng suất lao động xã hội
được nâng cao.
Thứ hai, khi mà kinh tế nước ta bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội còn mang nặng tính tự cấp, tự túc thì phát triển KTTT là cách tốt nhất để
phá vỡ và dần xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng
hoá thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất tức là sản xuất tập trung quy mô lớn, sự
phân công lao động ngày càng chi tiết gắn với sự hợp tác ngày càng mở rộng.
Thứ ba, phân công lao động xã hội là cơ sở của KTTT, đến lượt nó, sự
phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn
hoá sản xuất phát triển. Do đó, phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng
vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Thứ tư, phát triển KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, tạo ra cơ sở kinh tế ngày càng lớn ; đồng thời chon được những người
sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ quản lý có trình độ, lao động
lành nghề đáp ứng nhu cầu của đất nước.
Thứ năm, KTTT kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế,
kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối
lượng hàng hoá và dịch vụ. Bởi vì, người sản xuất phải căn cư vào nhu cầu
của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất ra sản phẩm gì, với
khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào.
Thứ sáu, tác dụng quan trọng của KTTT là thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế, từ khi chuyển sang KTTT cho đến nay tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam cao, tính trung bình là 7 % GDP/ năm, đời sống nhân
dân được cải thiện, mức thu nhập và mức tiêu dùng được tăng cao ; chỉ số con
người năm 2005 nhảy từ vị trí 102 lên vị trí 98 so với thế giới ; mức tiêu dùng
của người Việt Nam năm 2004 là 378000 đồng / người /tháng, bằng hai lần
năm 2000, năm 2005 là 438000 / người / tháng ; giá cả tăng 8, 4 %; tổng mức
bán lẻ 14, 8 % / năm .
Với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay thì chúng ta không thể lặp
lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước mà cần phải
4
và có thể xây dựng nền KTTT hiện đại, định hướng XHCN theo kiểu rút
ngắn tức là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để xây dựng thành
công nền KTTT định hưóng XHCN đòi hỏi phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước.
I.
II.KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM.
Mô hình kinh KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là mô hình kinh tế
tổng quát trong thời kì quá độ lên CNXH. Thực chất của mô hình này là phát
triển nền KTHH nhiều thành phần vận đông theo CCTT có sự quản lí vĩ mô
của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là nền
kinh tế bao cấp, quản lí theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp như trước đây,
nhưng đó cũng không phải là nền KTTT tự do theo cách của các nước TB, tức
là không phải KTTT TBCN và cũng không phải hoàn toàn là nền KTTT
XHCN mà mới là KTTT mang tính chất định hướng XHCN. Bởi vì, chúng ta
còn đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa đầy đủ yếu tố XHCN. Nó vừa mang
những đặc trưng chung của KTTT, lại vừa mang những đặc trưng cơ bản của
CNXH .
Mô hình này bao gồm những cái chung, đó là sự chi phối của những quy
luật vốn có của nền KTTT : quy luật giá cả, quy luật cung - cầu, quy luật lưu
thông tiền tệ … Các phạm trù trung tâm như giá cả, cung - cầu, cạnh tranh.
Các chủ thể có tính tự chủ cao. Và giá cả do thị trường quyết định là chủ yếu
… Cái đặc thù là cái thể hiện cái đặc trưng :
1- Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt : sở hữu,
quản lý và phân phối.
2- KTTT định hướng XHCN dựa trên nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất gắn liền với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nếu trong KTTT tư
bản cũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất : sở hữu tư nhân,
sở hữu tập thể của các nhà TB trong đó sở hữu tư nhân là nền tảng thì trong
KTTT định hướng XHCNcũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu : sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở
hữu tư nhân TB ), trong đó sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước là nền tảng .
Tuy nhiên, bên cạnh việc củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa
trên chế độ công hữu còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên
chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền KTTT rộng lớn. Các đơn vị kinh tế
thuộc các thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác
vừa cạnh tranh để phát triển.
3- KTTT định hướng XHCN dựa trên nhiều hình thức sở hữu là một cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần : kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế TB tư nhân, kinh tế TB Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư của
5
nước ngoài. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Điều khác biệt
với KTTT TB là trong KTTT TB thì kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ đạo.
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước ở nước ta là một vấn
đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất với KTTT TB. Với
mỗi chế độ xã hội sẽ có một chế độ kinh tế tương ứng với nó và chế độ
XHCN ở nước ta cũng có cơ sở kinh tế tương ứng với nó là kinh tế Nhà nước
và kinh tế tập thể . Với nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh sự thống nhất còn
có sự khác biệt và mâu thuẫn khiến cho KTTT ở nước ta có khả năng phát
triển theo những hướng khác nhau. Vì vậy, kinh tế Nhà nước phải được xây
dựng có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình.
4- Về quan hệ phân phối : quan hệ phân phối là do quan hệ sản xuất mà
trước hết là do quan hệ sở hữu quyết định. Nếu trong KTTT TB cũng có nhiều
hình thức phân phối trong đó phân phối theo giá trị là chủ yếu thì trong KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều quan hệ sản xuất nên cũng có nhiều
hình thức phân phối : phân phốI theo lao động, phân phối ngoài thù lao lao
động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể, phân phôí theo nguồn lực
đóng góp, trong đó phân phối theo lao động là hình thức cơ bản và đây cũng
là sự khác biệt cơ bản với KTTT TB .
5- Nếu trong KTTT TB đã phân hoá xã hội thành hai cực đối lập :giàu –
nghèo, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu, rộng. Tính chung một bên là
20% ngườI giầu chiếm 80% tài sản quốc dân và một bên là 80% người nghèo
chiếm 20% tài sản quốc dân. Để giải quyết những mâu thuẫn xã hội phát sinh
trong giầu nghèo Nhà nước tư bản đã có chính sách xã hội trợ cấp ngườI
nghèo, người thất nghiệp, người già cô đơn, người tàn tật …
Ở Việt Nam, sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với công bằng
xã hội trong mỗi bước phát triển, trong đó tăng trưởng và phát triển kinh tế là
điều kiện, tiền đề để thực hiện công bằng xã hội, công bằng xã hội là mục
đích và trở thành động lực để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Thực hiện một
sự công bằng xã hội có nghĩa là người lao động người lao động phảI thoát
khỏi áp bức bóc lột, được phân phối công bằng tức là được hưởng thụ đúng
với thành quả lao dộng của mình, xã hội phải tạo ra điều kiện cho người lao
động để người lao động thực hiện khả năng lao động của mình, phải thực hiện
xoá đói, giảm nghèo.
Ví dụ, để tăng trưởng và phát triển kinh tế thì trước hết phải giải quyết
vấn đề việc làm cho người lao động. Bằng nhiều giải pháp, Nhà nước tạo ra
nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong
nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề,
các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai
nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các
làng nghề, đấy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên và đào tạo lao
đông có nghề. Tổ chức, quản lý chặt chẽ hoạt động suất khẩu lao động và bảo
vệ quyền lợi của người lao động ở nước ngoài. Mở rông hệ thống bảo hiểm xã
6
hội và an toàn xã hội. Xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với
người lao động thất nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo
thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương để sớm
đạt mục tiêu không còn hộ đói, hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn vốn xoá
đói, giảm nghèo mở rộng các hình thức tín dụng trợ giúp người nghèo sản
xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông dân, phát triển việc làm và nghề
phụ nhằn tăng thu nhập của các hộ nông dân. Nhà nước tạo điều kiện mở rộng
thị trường trong nước và thế giới để hàng hoá của người lao động sản xuất ra
có nơi tiêu thụ ổn định và tìm được nơi cung cấp nguyên liệu. Đồng thời thực
hiện các chương trình quyên góp từ thiện, tạo ra chỗ ở ổn định cho người
nghèo để họ có điều kiện tập trung sản xuất …
Nhà nước khuyến khích làm giầu hợp pháp. Điều này không đồng nhất
với việc tạo ra hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng sâu, rộng mà ngược lại nó
đang rút dần khoảng cách đó lại. BởI vì, thứ nhất, bên cạnh việc xoá đói giảm
nghèo thì Nhà nbước khuyến khích làm giàu, điều đó có nghĩa là việc xoá đói
giảm nghèo và khuyến khích làm giầu được đặt song song với nhau. Thứ hai,
khuyến khích làm giầu hợp pháp sẽ giải quyết được một khối lương lớn lao
đông dư thừa trong xã hội, từ đó hạn chế được các tệ nạn xã hội như ma tuý,
mai dâm, trẻ em lang thang …tiết kiệm ngân sách Nhà nước, tạo ra sự ổn
định xã hội .Thứ ba, nếu không khuyến khích làm giầu hợp pháp, thì nền kinh
tế đất nước sẽ mãi trì trệ, không phát triển được và nhanh chóng rơi vào tình
trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực nói riêng và toàn thế giới nói
chung. Mà mọi sự phát triển đều đi lên từ việc giải quyết thành công những
mâu thuẫn và khuyến khích làm giầu sẽ tạo động lực cho xã hội phát triển.
6- KTTT XHCNở Việt Nam có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước – là yếu
tố đảm bảo phát triển theo định hướng XHCN của KTTT. Vì KTTT XHCN
vân động theo những quy luật vốn có của nền KTTT nên phải có sự can thiệp
của Nhà nước nhưng sự quản lý vĩ mô của Nhà nước cũng phải tôn trọng tính
khách quan của KTTT, phải phát huy được ưu điểm của KTTT, đồng thời
cũng phải điều chỉnh “những thất bại của nền KTTT” . Và với Nhà nước
XHCN – Nhà nước của dân, do dân, vì dân nên còn nhằm thực hiện các mục
tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân CCTT không thể thực hiện được.
Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp
kế hoạch với thị trường căn cứ vào đặc điểm riêng của KTTT đó là thị
trường tồn tại khách quan, tự vân động theo những quy luật vốn có, cơ chế thị
trường là sự điều tiết của bản thân nền kinh tế, sự điều tiết của cơ chế thị
trường thường nhanh nhậy nhưng có khuyết tật cơ bản là tính tự phát, trong
khi đó thì kế hoạch là sản phảm chủ quan của chủ thể quản lý nhưng sự điều
chỉnh của kế hoạch lại không nhanh nhậy.
Sự kết hợp đó được thực hiện ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
7
III.THỰC TRẠNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Thực trạng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đang ở trong tình trạng kém
phát triển, điều đó được thể hiện ở những mặt sau :
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, có đổi mới trên một số lĩnh vực, một
số cơ sở nhưng chưa đồng bộ. Trình độ công nghệ nước ta lạc hậu 2/7 thế
giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ ( có lĩnh vực 4-5 thế hệ ). Do đó
năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp so với khu vực và thế giới
( năng suất lao động nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới ).
Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên
lạc … còn yếu kém. Điều này đã làm cho các địa phương, các vùng bị chia
cắt, tách biệt nhau. Do dó, làm cho tiềm năng các địa phương không thể khai
thác được, các địa phương không thể chuyên môn hoá để phát huy thế mạnh .
Do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu nên phân công lao động – cơ sở
của KTTT còn kém phát triển. Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDPcó sự
chuyển dịch rõ rệt, nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay hơn 75%
dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động trong nông nghiệp chiếm hơn 70%
trong tổng số lao động xã hội nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP. Các
ngành kinh tế công nghệ chiếm tỷ trọng thấp .
Thị trưòng dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành đồng bộ.
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi kéo được tất cả các vùng
trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường
hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều tiêu cực :
hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu … làm rối loạn thị trường. Thị
trường vốn ( thị trường chứng khoán )mới ra đời ( tháng 7/2000)nên chưa có
nhiều “hàng hoá” để mua bán và có ít doanh nghiệp có khả năng tham gia thị
truờng này. Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung
tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã làm
nảy sinh những hiện tượng khủng hoảng, nét nổi bật của thị trường này là sức
cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về lao
động giản đơn lại vượt quá xa cầu. Thị trường bất động sản mới hình thành
nhưng có nhiều trắc trở .
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sản xuất hành
hoá cùng tồn tạI, đan xen nhau, trạng thái sản xuất nhỏ, phân tán ở Việt Nam
còn phổ biến
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc
hậu, năng suất thấp nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn thấp.
Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỷ cương
còn nặng và phổ biến.
8
Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất,
tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển
còn thấp.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu : khả
năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỷ lệ
bội chi ngân sách còn cao .
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thủ tục còn rườm rà .
*Thực trạng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn ở trong
tình trạng yếu kém như trên một mặt là do hậu quả của những năm trước đây
để lại và do những tác động bất lợi của tình hình thế giới ; mặt khác, còn có
những khuýet điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước.
2. Mục tiêu phấn đấu.
Chủ trương năm 2005 hình thành một bước KTTT định hướng XHCN.
Đến năm 2010, mục tiêu đưa nước ta ra khỏI tình trạng một nước nghèo và
kém phát triển. Phấn đấu đến năm 2020, thể chế KTTT định hướng XHCN
được hình thành về cỏ bản.
3. Giải pháp để thực hiện mục tiêu.
Trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế còn không ít những yếu kém để
tìm nguyên nhân của những vấn đề còn tồn đọng, từ đó Đảng và Nhà nước đã
tìm những giảI pháp hữu hiệu nhất để xây dựng và phát triển nền KTTT định
hướng XHCN :
a, Đẩy mạnh phân công lao động xã hội – cơ sở của cơ CCTT trong
từng cơ sở kinh tế từng địa phương, trong cả nước và tiến tới phân công quốc
tế. Sự phân công này diễn ra theo một quy luật : tăng tỷ trọng lao động trong
công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp. Từ đó
hình thành nên cơ cấu kinh tế hợp lý, cho phép khai thác tốt nhất các nguồn
lực của đất nước tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn
bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, muốn mở rộng phân công lao động xã hội cần phải đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vậ chất- kỹ
thuật của nền sản xuất lớn hiện đại bởi sự phát triển của phân công lao động
xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Đồng thời
phân bố lại dân cư trong phạm vi cả nước .
b, Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trang bị kỹ thuật công
nghệ hiện đại cho nền kinh tế, khắc phục sự lạc hậu. Với lợi thế so sánh là
một nước đi sau, được chuyển giao công nghệ của các nước tư bản lại có sẵn
tiềm lực : lao động nhiều, giá rẻ tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, có
môi trường chính trị ổn định nên con đưòng công nghiệp hoá, hiện đai hoá
9
của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự, lại vưà có những bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá
với hiện đại hoá.
c, Chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ
chế thị trường cần phải chuyển đổi cơ cấu sở hữu giản đơn với hai hình thức :
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể sang cơ cấu sở hữu mới tức là đa dạng các
hình thức sở hữu để tạo ra sự tách biệt nhất định về kinh tế - cơ sở của KTTT.
Trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác
mọi tiềm năng : vốn, kỹ thuật, công nghệ, sức lao động và kinh ngiệm quản
lý… để thúc đẩy KTTT tăng trưởng và phát triển.
Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, hợp tác
cạnh trạnh lành mạnh và được khuyến khích phát triển lâu dài, thực sự là bộ
phận cấu thành của nền KTTT định hướng XHCN.
Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước : Sắp xếp, tổ chức lại và
đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh .Chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, thực hiện tốt chủ
trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hưũ đối với những doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần phải nắm 100% vốn. Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu
quả của các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con, kinh doanh
đa ngành tổng hợp trên cơ sở chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành
phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh làm nòng cốt để hình thành mnột số
tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế
quốc dân như viễn thông, hàng không, dầu khí …
Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước có chính sách
để giải quyết nợ tồn đọng và lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nước. Tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế
Nhà nước trong lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Tăng cường đầu tư chiều
sâu và đổi mới công nghệ, tập trung cho những doanh nghiệp hoạt động trong
một số lĩnh vực then chốt như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng, công nghiệp công nghệ cao. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với
tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn Nhà nước .Các doanh nghiệp thực
sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất
kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp
tác xã là nòng cổt. Thực hiện tốt chuyển đổi hợp tác xã cho phù hợp với tình
hình mới. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng
phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường .
Khuyến khích kinh tế cá thể tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông
thôn
Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển những ngành nghề sản
xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm.
10
Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức liên doanh liên
kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là
một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, hướng vào mục tiêu phát triển các sản
phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công
nghệ hiện đại.
d, Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp,
bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng, công ty bảo
hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư …nhằm thu hút các nguồn vốn trong
xã hội. Triển khai an toàn và từng bước mở rộng phạm vi hoạt động của thị
trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
Hình thành thị trường lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di
chuyển lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực. Trên cơ sở hoàn thiện khung pháp luật và chính sách, khuyến khích
đào tạo nghề, hoạt đông dịch vụ giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động. Có
chính sách thu hút nhân tài, lao động có trình độ chuyên môn cao. Cải tiến hệ
thống bảo hiểm xã hội.
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ ( dịch vụ khoa học công nghệ,
dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ bảo hiểm ..). Xúc tiến việc ứng dụng thương
mại điện tử, tham gia đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thi
trường.
Phát triển thị trường bất động sản, xây dựng và phát triển thị trường
thông tin, thị trường khoa học công nghệ.
Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp luật
và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Có biện pháp hữu
hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại. Nâng cấp cơ sở hạ tầng vì theo
K. Marx giao thông phát triển đến đâu thì thị trường thương mại phát triển
đến đó.
e, Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng và nâng
cao kinh tế đối ngoại để tranh thủ nguồn lực bên ngoài : vốn, kỹ thuật, công
nghệ hiện đại … để khai thác tốt và phát huy nội lực bên trong. Thực hiện đa
dạng hoá kinh tế đối ngoại.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá quán triệt
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau bảo
đảm độc lập tự chủ. Hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng
điểm của kinh tế đối ngoại, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh
tăng số lượng các mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế
biến có giá trị gia tăng cao., giảm tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô trong kim
ngạch xuất khẩu . Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để
phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng mọi hình thức thu hút vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần
11
hướng vào những sản phẩm, những lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, có tỷ
trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ,
cải thiện được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc
với bước đi thích hợp .
Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, giảm các chi phí giao dịch
phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung
pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài .
f, Tăng cường đổi mới quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước
quản lý kinh tế bằng pháp luật, hệ thốmg pháp luật đồng bộ là công cụ quan
trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần .Nó tạo ra
hành lang pháp luật cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận
sự điều tiết của Nhà nước, do đó cần phải đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn
thiện khung pháp luật phù hợp với KTTT định hướng XHCN. . Nghiên cứu,
sửa đổi bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược
kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế :Luật Thương mại, Luật
Phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Lao động …Xây dựng một số luật mới. Để
nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần nâng cao năng lực
của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và đặc biệt chú trọng việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm
minh .
Gĩư và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đó
là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị vì sự ổn định chính trị bao giờ cũng là
nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất
kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư .
Đổi mới thủ tục hành chính, phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp
trong hệ thống hành chính Nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền
hạn, nghĩa vụ với quyền lợi; có trương trình kế hoạch, đào tạo, đào tạo lại và
bồi dưỡng thường xuyên cán bộ, công chức Nhà nước ; hỗ trợ và khuyến
khích các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của
nhân dân. Đồng thời, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn
định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế.
Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và sử dụng tốt các
công cụ quản lý kinh tế như kế hoạch hoá, chính sách tài chính, chính sách
tiền tệ để quản lý nền kinh tế thị truờng. Thực hiện đúng chức năng chủ sở
hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các
doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh
12
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới kinh tế ở nước ta với việc chuyển đổi mô hình CNXH,
Đảng ta cho rằng cần phải khôi phục và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN gọi tắt là KTTT định hướng XHCN. Đó là con đường đúng đắn để phát
triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự
nghiệp CNH - HĐH.
Tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung đời sống nhân dân cả về đời
sống vật chất và tinh thần đã được cải thiện một bước rõ rệt những thành tựu
kinh tế đã đạt đư ợc trên đây là kết quả của đường lối đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, đó cũng là kết quả của sự phù hợp đưa ý Đảng vào lòng dân.
Những thành tựu đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Uy tín của nước ta trên trường
quốc tế cũng ngày càng được nâng cao tạo ra thế và lực mới để nước ta phát
triển mạnh mẽ nữa trong thế kỷ XXI.
13
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU. ..................................................................................................1
I-PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG LÀ MỘT TÂT YẾU KHÁCH
QUAN.................................................................................................................2
1-Quan niệm về KTTT .......................................................................................2
2-Kinh tế thị trưòng không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.................................................................2
II- KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HÔỊ CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM ..................................................................................................................5
III-THỰC TRẠNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA...................................8
1 - Thực trạng......................................................................................................8
2- Mục tiêu phấn đấu .........................................................................................9
3-Giải pháp thực hiện mục tiêu...........................................................................9
KẾTLUẬN........................................................................................................13
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia.
2-Báo cáo về kinh tế Việt Nam. Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (
Tháng 12/1990).
3-Các mô hình KTTT thế giới.Nhà xuất bản Thống Kê Hà Nội /1994.
4-Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.Nhà xuất
bản Sự Thật Hà Nội/1993.
5-Phân phối thu nhập trong nền KTTT .Nhà xuất bản Thống Kê Hà Nội /
1994.
6-Vai trò của Nhà nước trong sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN.Nhà
xuất bản Thống Kê Hà Nội /1993.
7-Nghị quyết đại đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng Sản Việt
Nam.Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội/1977.
8-Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
15
- Xem thêm -