Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận cnh hđh ở vn....

Tài liệu Tiểu luận cnh hđh ở vn.

.DOC
13
63
148

Mô tả:

Mở đầu Quan niệm về vai trò, mục tiêu và giải pháp cua công nghiệp hoá, hiện đại hoá ( CNH, HĐH) ở nước ta đã từng bước được xác định rõ từ Đại hội VII. Đến Đại hội IX, qua tổng kết thực tiễn, vấn đề CNH, HĐH lại được tiếp tục khẳng định và xác định cụ thể hơn: CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH, HĐH đất nước ta có thể rút ngắn so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trương kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là phương châm của CNH, HĐH. Thực hiện CNH, HĐH, HĐH ở Việt Nam là thực hiện một cuộc cách mạng về kinh tế, khoa học và văn hoá mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nó sẽ tạo ra sự biến đổi về chất ở trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Thực hhiện thắng lợi CNH, HĐH. HĐH ở đất nước ta là một sự nghiệp vĩ đại, trải qua với bao thời cơ, vận hội và cũng gặp không ít thách thức, khó khăn, trở ngại, đòi hỏi phải động viên và phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực tạo nguồn lức tổng hợp để đạt mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. CNH, HĐH là đường lối chiến lược cảu Đảng ta trong lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi tiểu luận này chúng tôi xin nêu một số vấn đề về bản chất , nội dung của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay; qua đó khẳng định rõ vai trò của nó với công cuộc xây dựng CNH, HĐH của chúng ta, thấy rõ được sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. 1 NỘI DUNG I.Chiến lược CNH, HĐH, HĐH ở Việt nam trong thời kỳ quá độ. 1.Khái niệm CNH, HĐH, HĐH. a, Khái niệm trước đây. b, Khái niệm hiện nay. 2. Bản chất và nội dung của CNH, HĐH, HĐH ở Việt nam. a, Bản chất b, Nội dung 3. Mục tiêu quan điểm CNH, HĐH ở Việt Nam a, Mục tiêu b, Quan điểm 4.Chính sách của nhà nước nhằm thực hiện quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam a, Phát triển kinh tế CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm b, Phát triển kinh tế nhiều thành phần c, Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội và thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH II.Cơ sỏ lý luận triết học 1.Dựa trên quan điểm phát triển toàn diện của Đảng 2.Sự vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp phát triển của nước ta 3.Dựa vào tiềm lực trong nước, xu hướng phát triển của thế giới a,Những thành tựu đạt được b,Xu hướng phát triển của thế giới II.Kết luận 2 I,Chiến lược CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. 1. Khái niệm CNH, HĐH. Khái niệm chung: Từ trước đến nay, từ khi quá trình CNH, HĐH bắt đầu hình thành và phát triển tới bây giờ đã có một số quan điểm về CNH, HĐH a, +Khái niệm trước đây: CNH, HĐH là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. b, +Khái niệm hiện nay: CNH, HĐH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này. một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu này là có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản suất hàng tiêu dùng và có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội. Theo khái niệm này cho thấy quá trình CNH, HĐH nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải một mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Những khái niệm CNH, HĐH mang tính lịch sử tức là nó biến đổi theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất có ý nghĩa to lớm cả về ý nghĩa lẫn thực tiễn. 2,Bản chất và nội dung CNH, HĐH. a,Bản chất của CNH, HĐH. - CNH, HĐH là sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18, còn hiện đại hoá là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật giữa thế kỷ 20. Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, CNH, HĐH gắn liền với HĐH được coi là quá trình tất yếu, mang tính quy luật đối với tất cả các nước từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường thực hiện CNH, HĐH là cần nắm bắt xu thế phát triển tất yếu, khách quan của thời đại, khai thác tối đa những thời cơ, thuận lợi và hạn chế tối đa những khó khăn, bất lợi để thực hiện thành công sự nghiệp này. - CNH, HĐH đối với Việt Nam không chỉ là quá trình tất yếu, khách quan mà còn là một đòi hỏi bức thiết. Vì, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu phấn đấu đạt trình độ một nước phát triển, chúng ta chỉ có một con đường là thực hiện CNH, HĐH đất nước với tư cách là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời 3 sống của xã hội”. Hơn nữa, thực hiện CNH, HĐH để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh không những thể hiện tính quy luật của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, mà còn đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân và cả dân tộc. - Ngày từ những năm 60 của thế kỷ 20, khi nhận thức rõ tính quy luật và vai trò của CNH, chúng ta đã tiến hành CNH, theo đường lối Đại hội VIII. Đó là đường lối với tên gọi: “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”, và trong một thời gian dài, chúng ta đã đối lập “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” với “ Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa”. Nội dung của “ Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” là: ưu tiên phát triểnnông nghiệp và công nghiệp nhẹ… nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Mặc dù khi đó ta đã đề ra chủ chương phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, nhưng thực tế, công nghiệp nặng luôn được coi là tiền đề thiết yếu của “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”. Thực tế là hiệu quả của công nghiệp hoá rất thấp, thậm chí, trên nhiều lĩnh vực không có hiệu quả và kéo theo đó là nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng đã không phát triển, đời sống người lao động quá khó khăn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. - Chúng ta từ bỏ một quan điểm không đúng về CNH, từ bỏ cách thức tiến hành “Công nghiệp hoá xã hôi chủ nghĩa” theo cách cũ, không có nghĩa là phủ nhận tính tất yếu, khách quan của CNH. Khi xác định nhiệm vụ căn bản trong giai đoạn mới là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và động bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta đã coi đây là bước tiến rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chúng ta không còn con đường nào khác ngoài con đường CNH, HĐH để nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu hơn so với các nước trong khu vực và đưa đất nước nhanh chóng đạt tới trình độ cao của một nước phát triển. “CNH, HĐH là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự tiến bộ của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Như vậy, CNH, HĐH là quá trình cải 4 biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đó không phải là quá trình tăng lên một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với việc đổi mới công nghệ một cách thường xuyên, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. CNH không thể không gắn liền với HĐH, kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ phát triển của khoa học và công nghệ trên thế giới. Nói một cách khái quát, CNH, HĐH là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khao học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, có nền kinh tế phát triển, xã hộ được tổ chức khoa học, hợp lý, mà còn ở đời sống chính trị, văn hoá – tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. - CNH, HĐH ở nước ta có đặc điểm khác với CNH, HĐH của các nước đi trước. Chúng ta không thể thực hiện xong quá trình CNH với nội dung căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành HĐH. Và khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc lạc hậu được sản xuất trước đây, nà phải sử dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến. Với ý nghĩa đó, CNH trong điều kiện hiện nay bao hàm những nội dung của HĐH. CNH phải gắn liền với HĐH. b.Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - CNH, HĐH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. CNH luôn đòi hỏi phải trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành kinh tế gắn liền với hiện đại hoá ở cả phần cứng lẫn phần mềm của công nghệ. Tuy nhiên, cách thức tiến hành khác nhau ở các nước. Đã có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, sáng chế, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế; có nước thì kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội, “ thay thế nhập khẩu” sang mô hình CNH “hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”, CNH, HĐH sẽ thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch này và cho phép đạt hiệu quả kinh tế cao. Như vậy CNH, HĐH là quá trình chuyển 5 nề sản xuất xã hội từ trình dộ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại cùng với sự bố trí lại lượng lao động thích ứng với cơ cấu ngành nghề. CNH, HĐH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp, mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Nó thúc đẩy hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý cho phép khai thác tốt tất cả các nguồn lực và lợi thế của đất nước. Trong mỗi quốc gia, nền kinh tế là một thể thống nhất. Các ngành, các lĩnh vực có quan hệ biện chứng với nhau. Sự thay đổi ở một ngành, một lĩnh vực nào đó sẽ kéo theo hoắc đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực khác. Vì thế, quá trình CNH, HĐH cũng gắn với quá trình phân công lại lao động xã hội. Tỷ trọng và số lao động công nghiệp ngày càng tăn; tỷ trọng và số lao động nông nghiệp ngày càng giảm dần; tỷ trọng và số lao động trí tuệ ngày càng lớn so với lao động giản đơn; tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất. Cùng với quá trình phân công lại lao động xã hội, cơ cấu kinh tế mới cũng dần được hình thành. Hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng chiếm tỷ lệ cao. CNH, HĐH vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế xã hội. CNH, HĐH tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ lực lương sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Việc thực hiện thành công CNH, HĐH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đồng thời, CNH, HĐH có hiệu quả cũng thủ tiêu tinh trạng kém phát triển về mặt xã hội, nâng cao dân trí, phát triển đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Đến lượt mìn, sự phát triển của đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân tạo động lực cho phát triển CNH, HĐH. Như vậy, xét đến cùng, CNH, HĐH còn là quá trình xây dựng và phát triển văn hoá, trong đó phát triển con người và nguồn nhân lực, gia tăng giá trị và vai trò con người là nội dung cốt lõi, nao trùm của văn hoá. Vì vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH phải dựa trên nền tảng văn hoá, phải có sự kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc với thời đại vì mục tiêu phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Quá trình CNH, HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. 6 Nền kinh tế của ta sẽ không thể tăng trưởng và phát triển mạnh nếu không thiết lập các mối quan hệ kinh tế với các nước. Đó là quy luật, khi mà ngày nay quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển mạnh mẽ, sự hợp tác trong phân công lao động quốc tế trở thành nhu cầu thiết yếu; khi mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh với quy mô toàn cầu. Mỗi nước là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động qua lại lẫn nhau và chịu ảnh hưởng chung của sự biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. Vì vậy, các nước đang phát triển trong quá trình CNH, HĐH đều cần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn, công nghệ , thị trường, kinh tế nghiệm quản lý của các nước tiên tiến, đồng thời đẩy mạnh chiến lược hướng vào xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường thế giới. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta khẳng định: CNH, HĐH đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ…Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. CNH, HĐH không phải là mục đích tự than, mà là một phương thức có tính phổ biến để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Mặc dù mỗi nước có những bước đi cách thức CNH, HĐH khác nhau, nhưng đều có cái chung là: đó là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế ; cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH, vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Mục tiêu chung đều là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại. khai thác có hiệu qủa các nguồn lực của đất nước. tạo ra năng suất lao động động xã hội cao, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Thực tiễn thế giới trong những năm gần đây cho thấy, CNH, HĐH là phương tiện hữu hiệu làm thay đổi căn bản bộ mặt nền kinh tế - xã hội của tất cả các nước. Thực hiện CNH, HĐH trước hết là khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động xã hội , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý,nhờ vậy mà thúc đẩy năng xuất lao động. Mặt khác, CNH, HĐH cũng sẽ xoá bỏ tình trạng kém phát triển về mặt xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo điều kiện phát triển dân trí, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Tuy nhiên, CNH, HĐH không phải là liều thuốc vạn năng để chữa căn bệnh nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Một nước phát triển về kinh tế, vẫn có thể là một nước kém phát triển về đời sống văn hoá tinh thần. Vấn 7 đề này còn phụ thuộc vào tính ưu việt trong mục tiêu CNH, HĐH của mỗi nước. 3. Mục tiêu, quan điểm CNH, HĐH ở Việt Nam. a,Mục tiêu: Tại đại hội lần VIII của Đảng cộng sản Việt Nam , mục tiêu tổng quát của sự nghiệp CNH, HĐH được Đảng ta xác định đó là: “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình trình phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996, trang 80). Theo văn kiện này chúng ta phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Trong những năm trước mắt, trong điều kiện khả năng về vốn vẫn còn hạn hẹp,vấn đề công ăn việc làm càng bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, chúng ta cần đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. b,Quan điểm về CNH, HĐH. - Giữ vững độc lập tự chủ kết hợp mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập với khu vực và thể giới hường thế mạnh kinh tế tế vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu bằng các mặt hàng trong nước. - CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân của tất cả các thành phần kinh tế trong đó chủ đạo là thành phần kinh tế Nhà nước. - Phát huy nguồn lực con người làm cơ sở cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước., không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển, phát triển giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân. - Động lực của CNH, HĐH là khoa học và công nghệ, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. - Tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư là hiệu quả kinh tế xã hội, đầu tư có chiều sâu, ưu tiên qui mô vừa và nhỏ, tạo nhiều việc làm, xây dựng một số công trình qui mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. - Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. Khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng giữa các vùng phải hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển, hỗ trợ những nơi khó khăn, đảm bảo các vùng đều được hưởng thành quả của sản xuất, tăng cường 8 kết hợp kinh tế và quốc phòng, có những chiến sách hỗ trợ cho vùng khó khăn đưa các vùng này thoát khỏi sự kém phát triển. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đây có thể nói là một điều tất yếu của quá trình CNH, HĐH, sau một thời gian đóng cửa lâu dài thì mở cửa nền kinh tế là một nhu cầu cấp bách đối với nền kinh tế nước ta. Qua đây cho thấy để thực hiện được những nhiệm vụ này không phải dễ dàng, nó đòi hỏi sự đoàn kết của tất cả mọi người, cần có những chính sách phù hợp với quá trình phát triển, vậy nhà nước đã có những chính sách nào để thực hiện được các nhiệm vụ đó. 4.Chính sách của nhà nước nhằm thực hiện quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. a,Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. - Mục tiêu: phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. - Nội dung cụ thể: +Trong nông nghiệp: Đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp, tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh thuỷ lợi hóa, cơ giới hoá, điện khí hoá, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá tạo nhiều việc làm mới cải thiện đời sống cư dân nông thôn. +Trong công nghiệp: Phát triển các ngành sử dụnh nhiều lao động, đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, phát triển các ngành công nghiệp mà mình có thế mạnh như giày da, may mặc… xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. +Trong dịch vụ: Nâng cao chất lượng của các ngành dịch vụ như: Thương mại, du lịch, tài chính, y tế… đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu của người dân. b,Phát triển kinh tế nhiều thành phần. - Kinh tế nhà nước: Định hướng trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, củng cố, điều chỉnh cơ cấu nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước hiện có. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá đa dạng hoá sở hữu đối với các doanh nghiệp mà nhà nước không nắm 100% vốn, đổi mới cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước phát triển. - Kinh tế tập thể: Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt phát triển hợp tác xã kinh tế doanh tổng 9 hợp đa ngành hoặc chuyên ngành trong hợp tác xã thì vai trò của nhà nước rất lớn: đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng khuyến khích sự dụng vốn có hiệu quả. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ để phát triển khuyến khích hình thức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển hơn. - Kinh tế tư bản tư nhân: Khuyến khích phát triển những ngành nghề mà nhà nước không cấm, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển, liên doanh, liên kết với nhau, liên kết cả với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. - Kinh tế tư bản nhà nước: Phát triển đa dạng loại hình kinh tế này dưới các hình thức liên kết kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng hạ tầng kinh tế, thu hút công nghệ hiện đại, tạo nhiều việc làm. Qua đó có thể thấy Nhà nước ta chủ trương tổ chức các hình thức sản xuất đan xen lẫn nhau, giữa các hình thức đều có mối liên hệ phổ, liên kết với nhau đảm bảo cùng nhau phát triển. c,Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội thúc đẫy tiến trình CNH, HĐH. Cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến lực để thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước ta, khi mà các chính sách này được giải quyết thì nó sẽ trở thành động lực vô cùng mạnh mẽ cho sự phát triển của quá trình CNH, HĐH. - Các chính sách cụ thể: + Phát triển giáo dục và đào tạo. khoa học và công nghệ, xây dựng nên văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. + Tăng cường quốc phòng và an ninh. + Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. + Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. + Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. + Xây dựng chỉnh đốn Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Việc thực hiện các chính sách này không thể một sớm một chiều mà phải tiến hành trong thời gian dài cùng với sự quản lý của Nhà nước và đoàn kết của toàn dân. II.Cơ sở lý luận triết học 10 1.Theo quan điểm phát triển toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam, công nghiệp hoá không chỉ diễn ra trong một ngành, một lĩnh vực nhất định mà diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực 2.Sự vận dụng sáng tạo học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp phát triển của nước. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách phù hợp với điều kiện đất nước ta về “ học thuyết hình thái kinh tế xã hội” qua đó Đảng và nhà nước đã có những chỉnh sửa đúng đắn đưa đất nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội. 3.Dựa vào tiềm lực trong nước va xu hướng phát triển thế giới. Nước ta có nhiều tiềm lực phát triển: tài nguyên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, con người Việt Nam cần cù, sáng tạo trong lao động …Đảng và Nhà nước luôn quan tâm giúp đỡ, các chính sách phù hợp của nhà nước đối với công cuộc CNH, HĐH cùng với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, vì vậy mà nước ta cần chủ động, sáng tạo, nắm bắt thời cơ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Kết luận 11 - CNH, HĐH là công cuộc cách mạng của dân, do dân và vì dân, phản ánh tính quy luật tất yếu của phát triển đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại; thể hiện nhu cầu, nguyện vọng lợi ích của nhân dân ta. Đó là con đường để đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên hiện đại, tiên tiến. - Đại hội IX của Đảng đã tổng kết 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới và đề ra mục tiêu, phương hướng cùng những giải pháp nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến năm 2010 và 2020. Trong những năm qua, sự nghiệp CNH, HĐH đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Song, nền kinh tế của ta vẫn chưa có sự phát triển vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; một số vấn đề văn hoá, xã hội bức xúc, gay gắt và chậm được giải quyết; cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. - CNH, HĐH đang được triển khai trong bối cảnh khá phức tạp: thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Trước mắt chúng ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Một trong những thời cơ, thuận lợi được tạo ra, trước hết là do những thành tựu của chúng ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc hơn 15 năm qua. Mặc dù còn có những thiếu sót trong thực tiễn tiến thành CNH, HĐH mà chúng ta cần phải khắc phục và sửa chữa trong thời gian tới, song nhìn chung thế và lực của nước ta đã có chuyển biến rõ về chất. Chúng ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã tạo ra được nhữ`ng tiền đề cần thiết để chuyển sanmg giai đoạn mới - đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Một thuận lợi nữa là, “đất nước còn nhiều tiềm năng về tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình hợp tác, liên kết quốc tế và những xu hướng tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh tế nghiệm quản lý, mở rộng thị trường”. Danh mục các tài liệu tham khảo 12 1.Giáo trình triết học Mác – LêNin. NXB chính trị quốc gia (xuất bản năm 2004). 2.Giáo trình kinh tế chính trị Mac – LeNin. NXB chính trị quốc gia ( xuất bản năm 2003). 3.Văn kiện Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam. 4.Văn kiện Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam. 5.Tạp chí cộng sản số 17 ( tháng 9 năm 2004) 6.Nghị quyết Hội nghị TƯ (khoá IX) về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX, Báo nhân dân, ngày 5/2/2004. 7.Hội thảo khoa học Việt Nam – Trung Quốc tại Hà Nội: CNXH – kinh tế nghiệm của Việt Nam, kinh tế nghiệm của Trung Quốc, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001. 8.Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn: CNH, HĐH ở Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002 9.GS. Phạm Minh Hạc: Về phát triển toàn diện con người trong thời kỳ CNH, HĐH, NXB chính trị quốc gia năm 2001 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan