Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn tin học tại các trường trung...

Tài liệu Thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn tin học tại các trường trung học phổ thông ở thành phố mỹ tho, tỉnh tiền giang ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
94
93
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________________________________ Võ Hoàng Phi Long THÖÏC TRAÏNG COÂNG TAÙC QUAÛN LYÙ HOAÏT ÑOÄNG GIAÛNG DAÏY MOÂN TIN HOÏC TAÏI CAÙC TRÖÔØNG TRUNG HOÏC PHOÅ THOÂNG ÔÛ THAØNH PHOÁ MYÕ THO, TÆNH TIEÀN GIANG Chuyên ngành Mã số : Quản lý giáo dục : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 LỜI CẢM ƠN Luận văn này là kết quả của quá trình học tập tại trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và quá trình công tác của bản thân tại ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tiền Giang. Với tình cảm chân thành của mình, tác giả xin bày tỏ lòng trân trọng cảm ơn:  Ban Giám hiệu, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, Khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.  Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang, Cán bộ quản lý và quý Thầy, Cô của các trường trung học phổ thông thuộc Thành phố Mỹ Tho đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu này.  Quý Thầy, Cô giảng dạy lớp Cao học chuyên ngành Quản lý Giáo dục – Khóa 16 (2005 – 2008) đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.  Quý bạn đồng môn trong lớp đã hỗ trợ, động viên tác giả trong suốt khóa học.  Thầy PGS. TS. Đoàn Văn Điều đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2008 VÕ HOÀNG PHI LONG LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Võ Hoàng Phi Long DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL : Cán bộ quản lý CNTT : Công nghệ thông tin CNTT&TT : Công nghệ thông tin và truyền thông CSVC : Cơ sở vật chất GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo GV : Giáo viên HS : Học sinh THPT : Trung học phổ thông MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển mạnh mẽ với những bước tiến nhảy vọt đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động đến tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần xã hội. Khoảng cách giữa các phát minh khoa học – công nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp, kho tàng kiến thức của nhân loại ngày càng đa dạng, phong phú và tăng theo cấp số nhân. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và sự hội nhập của nền kinh tế tri thức càng thôi thúc nhu cầu học tập, nắm bắt tri thức hiện đại của tất cả mọi người. Điều này càng trở nên có ý nghĩa hơn khi những thành tựu của công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong cả cuộc sống đời thường bởi sự nhanh chóng, tiện lợi, rút dần khoảng cách trong tiếp thu tri thức và giao lưu văn hóa. Tin học như là phương tiện không thể thiếu qua việc giúp mọi người học tập, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và cả giải trí, giao lưu. Ở trường trung học phổ thông, môn Tin học được triển khai ở toàn cấp như một môn học văn hóa chính quy. Trong điều kiện số lượng học sinh khá đông ở mỗi lớp, số lượng máy tính thực hành có hạn, thời gian tồn tại của nội dung chương trình ngắn bởi tốc độ phát triển phần mềm của nền công nghệ tin học trên thế giới rất cao thì việc quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học ở các trường trung học phổ thông là vấn đề đòi hỏi tính khoa học quản lý với nghệ thuật cao. Đối với các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho, việc quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học cũng có nhiều đặc thù, dù đã có đôi lần hội thảo giữa các nhà quản lý của các trường về giải pháp hiệu quả cho hoạt động quản lý môn Tin học nhưng thực tế quá trình quản lý môn Tin học chưa đáp ứng yêu cầu, tính hiệu quả chưa cao, chưa tạo lập nề nếp và thu hút sự quan tâm đông đảo của học sinh; điều này là vấn đề đặt ra cho lãnh đạo các trường và các cấp bởi còn nhiều khiếm khuyết trong công tác quản lý việc giảng dạy môn Tin học. Từ những lý do nêu trên, đề tài: “Thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông ở Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang” được nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang, từ đó đề xuất một số giải pháp cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn học nói trên. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu tài liệu để hình thành cơ sở lý luận của đề tài. 3.2. Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang (các mặt quản lý và mức độ thực hiện). 3.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Mỹ Tho. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học. 5. Giả thuyết nghiên cứu Nếu tìm được đầy đủ các mặt của công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và thực hiện được các mặt đó ở mức độ khá trở lên thì chất lượng giảng dạy môn học này sẽ được nâng cao. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu tài liệu Thu thập tài liệu, đọc và phân tích các văn kiện, văn bản, các tài liệu và tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến: . Dành cho cán bộ quản lý, giáo viên . Dành cho học sinh. 6.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm Thông qua việc tìm hiểu, phân tích các biện pháp quản lý của cán bộ quản lý trong quá trình quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học mà có được bức tranh về thực trạng công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông ở Thành phố Mỹ Tho. 6.4. Phương pháp toán thống kê Dùng phương pháp toán thống kê để phân tích và xử lý số liệu nhằm định lượng kết quả nghiên cứu bằng phần mềm SPSS for Win 11.5. 7. Phạm vi nghiên cứu 7.1. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông. 7.2. Địa bàn nghiên cứu Bốn trường trung học phổ thông ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ứng dụng tin học trên thế giới Ngay từ khi tin học ra đời với công cụ là máy tính điện tử không lồ, choáng hết cả tòa nhà lớn, giáo dục đã có nhiệm vụ đào tạo người sử dụng máy tính dó. Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, một số nước đã nghiên cứu và thử nghiệm việc giáo dục tin học và kỹ thuật tính dạy toán mở rộng ở các trường phổ thông. Cuối năm 70, tin học và kỹ thuật tính đã bước sang một giai đoạn mới về chất do việc phát minh ra bộ vi xử lý (microprocessor) nên tạo tính nhảy vọt cho một thế hệ mới máy tính điện tử : máy vi tính (micropiloyter), đồng thời các ngôn ngữ giáo tiếp với máy tính điện tử trở nên gần với ngôn ngữ tự nhiên hơn đã tạo điều kiện đưa tin học phát triển trong trường học. [12, tr.157] Ở Pháp từ lâu đã thí điểm trên lĩnh vực Tin học giáo dục trên 58 trường cao trung vào đầu những năm 70. Kế hoạch “10 000 máy vi tính” từ năm 1979, kế hoạch “100 000 máy vi tính – 100 000 giáo viên” năm 1983, kế hoạch “Tin học cho mọi người” năm 1985, … . [12, tr.169] Ở một số nước thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương việc phát triển giáo dục Tin học mạnh mẽ từ những năm 1979 – 1980 trong các hệ thống giáo dục. Tháng 9/1984 “Hội nghị chuyên đề Châu Á lần thứ ba về kỹ thuật giáo dục” ở Tokyo đã tạo cơ hội cho các nước Châu Á – Thái Bình Dương trao đổi những kinh nghiệm về việc đưa tin học trong giáo dục. [12, tr.174] Dần dần Tin học trở thành một môn học chính thức được giảng dạy ở các cấp học trong hầu hết tất cả các nước phát triển và đang phát triển. 1.1P.2. Quan điểm của Đảng và Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin trong giáo dục. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Công nghệ thông tin phục vụ trực tiếp cho cải tiến quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế – xã hội khác; từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Công nghệ thông tin phát triển trên nền tảng phát triển của các công nghệ Điện tử – Viễn thông và Tự động hóa. Như vậy, cùng với giáo dục là quốc sách hàng đầu, công nghệ thông tin là mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, là phương tiện chủ lực để Việt Nam đi tắt, đón đầu nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đảng và Chính phủ nước ta đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết chỉ đạo về việc phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là trong giáo dục. - Sau khi thống nhất đất nước, Hội đồng Chính phủ đã hai lần ra các nghị quyết số 173 CP/1975 và 245 CP/1976 về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong quản lý kinh tế, tăng cường quản lý và sử dụng máy tính điện tử trong cả nước. - Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về Khoa học và Công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nêu :”Tập trung sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử, tin học, …” - Nghị quyết 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90 đã nêu rõ :” Phát huy tiềm năng nhân lực và trí tuệ là yếu tố quyết định sự thành công của sự phát triển công nghệ thông tin. Cần nhanh chóng đào tạo chính quy một đội ngũ chuyên viên lành nghề trong lĩnh vực công nghệ thông tin, giáo dục phổ cập về công nghệ thông tin trong trường trung học, phổ biến kiến thức về công nghệ thông tin rộng rãi trong xã hội, đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong bản thân ngành giáo dục và đào tạo”. - Nghị quyết 07/2000/NQ-CP của Thủ tướng chính phủ ký ngày 05/6/2000, về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005. - Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, ký ngày 17/10/2000, về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Quyết định số 128/2000/QĐ-TTG của Thủ tướng chính phủ ký ngày 20/11/2000 về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển công nghệ phần mềm. - Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là : Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá; Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhẩy vọt...". Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết. - Nghị quyết 4, Ban chấp hành TW khoá VII chỉ rõ: ”Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội”. - Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg ngày 24/5/2001 đã nêu rõ: ”Trọng tâm của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở mọi cấp học, bậc học, ngành học”. - Chỉ thị số 29/2001/CT_BG&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ký ngày 30/7/2001 về việc tăng cường giảng dạy, và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 20012005. - Công văn số 5488/GDTrH của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ký ngày 05/7/2004 về việc tổ chức dạy môn Tin học ở bậc trung học. Văn bản nêu rõ : những nơi có điều kiện về giáo viên, về thiết bị dạy học cần tổ chức dạy học chính khoá môn Tin học ở các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông từ năm học 2004-2005. Những nơi chưa có đủ điều kiện cần có kế hoạch đầu tư, chuẩn bị để có điều kiện tiến hành dạy học môn Tin học cho những năm học sau. - Công văn số 12966/BGD&ĐT-CNTT ngày 10/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về công nghệ thông tin. 1.1.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ứng dụng tin học ở Việt Nam Giai đoạn 1960 đến 1967, đây là giai đoạn ở miền Bắc chủ yếu phát triển các mô hình toán (vận trù học), tại Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước đã thành lập các phòng ban, tiền thân của các viện nghiên cứu sau này. Giai đoạn 1968 đến 1975, bắt đầu thành lập phòng máy tính thuộc Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhưng nằm bí mật. Trong giai đoạn này nhiều cán bộ, kỹ sư được cử đi học về máy tính, các máy tính Minsk 22, 32 được đưa về Hà Nội. Các ngôn ngữ đã bắt đầu được giảng dạy như FORTRAN, COBOL, ALGOL 60,… nhiều bài toán đã được xử lý trên máy tính. Giai đoạn 1976 đến 1985, đất nước đã thống nhất, nhà nước thành lập Viện Khoa học Việt Nam, Viện Toán học tính toán và điều khiển (tiền thân của Viện Công nghệ thông tin ngày nay), thành lập Tổng cục Điện tử và Tin học, thành lập Viện Công nghệ quốc gia, máy PC quả táo 2 nhập vào Việt Nam,… và nhiều phòng thí nghiệm được xây dựng để nghiên cứu sản xuất máy vi tính Việt Nam. Giai đoạn 1986 – 1995, trong giai đoạn này có biến đổi. Nhà nước đã có các chương trình về phát triển tin học, như Chương trình 48A (1985 – 1990), trong chương trình này có những đề tài về tin học như xây dựng Cơ sở dữ liệu cho một số Bộ ngành, chương trình KC. 01 (1991 – 1995),… . Trong giai đoạn này Tổng cục Bưu điện có nhiều chương trình về phát triển viễn thông và là thời kỳ phát triển mạnh. Giai đoạn này cũng có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ như thành lập Hội Tin học VN (1988), việc kinh doanh máy tính cũng phát triển đáng kể. Nhiều công ty máy tính, trung tâm máy tính ra đời như 3c, FPT, Genpacific,… . Giai đoạn 1996 – 2007, đây là giai đoạn Tin học Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có, thành lập Bộ Bưu chính Viễn thông, chương trình KH-01, Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin, nhiều nghị quyết của Đảng và Chính phủ về phát triển Công nghệ thông tin (phần cứng và phần mềm), các trung tâm phần mềm ra đời, khu công nghệ cao,..… Đặc biệt, được kết nối với mạng toàn cầu internet,… Điểm mốc của giai đoạn này là sự ra đời của hai bộ luật liên quan là Luật Giao dịch điện tử (11/2005), Luật Công nghệ thông tin (6/2006). Đối với giáo dục thì kể từ năm học 1990-1991, cùng với việc thay sách giáo khoa cũ bằng sách giáo khoa cải cách giáo dục, một số kiến thức tin học đã đưa vào chương trình môn toán lớp 10 trung học phổ thông. Đến năm học 1993-1994 thì tiến hành thí điểm phân ban và môn Tin học được đưa vào giảng dạy ở các trường phân ban cho cả 3 khối lớp 10,11 và 12. Khi chương trình phân ban tạm dừng kể từ năm học 2000-2001, việc giảng dạy tin học ở trường trung học phổ thông cũng bị gián đoạn và chỉ còn tồn tại tiếp tục ở một số trường vốn là thí điểm phân ban và thêm một số trường có điều kiện dưới hình thức dạy nghề phổ thông tin học cho học sinh. Từ năm học 2003-2004, chương trình thí điểm trung học phân ban cho hai ban là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn được triển khai thì tin học trở lại trường trung học phổ thông với tính cách là môn học chính khoá. Đến năm học 2006 – 2007, chương trình phân ban đại trà trên toàn quốc với ba ban là ban khoa học tự nhiên, ban khoa học xã hội và nhân văn và ban cơ bản thì môn Tin học là môn học bắt buộc cho cả ba ban học và ba khối lớp 10, 11, 12. 1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề 1.2.1. Một số đặc điểm cơ bản về giáo dục của tỉnh Tiền Giang và Thành phố Mỹ Tho Là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nằm bên bờ bắc sông Tiền giữ vị trí trung chuyển giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Tiền Giang có tám huyện, một thành phố và một thị xã, với 169 xã, phường, thị trấn; trong đó, có 42 xã vùng sâu thuộc khu vực 1 được hưởng chế độ ưu tiên trong tuyển sinh. Thời gian qua, truyền thống hiếu học được thế hệ trẻ phát huy tích cực, thành tích học tập của con em Tiền Giang được đánh giá cao, hằng năm số học sinh giỏi đoạt giải quốc gia, số học sinh trúng tuyển vào đại học, cao đẳng đều đứng đầu khu vực và có học sinh đạt thủ khoa kỳ thi đại học... . Kết quả này cho thấy Tiền Giang tạo được bước đi phù hợp, vững chắc trong sự nghiệp "trồng người". Chứng tỏ, quy mô giáo dục và đào tạo phát triển khá hợp lý và ổn định, đáp ứng được nhu cầu học tập của con em nhân dân. Hệ thống trường học cơ bản đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập của con em nhân dân lao động. Toàn tỉnh có hơn 500 trường, hơn 17 nghìn giáo viên và gần 400 nghìn học sinh, sinh viên. Bình quân cứ bốn người dân có một người đi học tại trường. Có nhiều xã có từ hai đến ba trường tiểu học, các huyện, thị xã, thành phố, có từ hai đến năm trường trung học phổ thông. Công tác bồi dưỡng đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục luôn được ngành giáo dục tỉnh quan tâm bằng nhiều giải pháp như đưa đi đào tạo, liên kết đào tạo, bồi dưỡng với nhiều hình thức đào tạo theo địa chỉ. Theo định hướng phấn đấu đến 2015 có 20% số giáo viên trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp có trình độ sau đại học. Một điểm sáng đáng ghi nhận nữa là Tiền Giang đã tập trung đầu tư đưa công nghệ thông tin vào trường học, cũng như nâng cao dần trình độ tin học cho giáo viên một cách căn cơ, đầy đủ và hiệu quả cao. Do đó, hiện nay tỉnh đã phần nào đẩy mạnh việc áp dụng thành công việc giảng dạy bằng giáo án điện tử trong các trường học một cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc đổi mới giáo dục thời gian qua ở Tiền Giang chủ yếu chỉ chú trọng mặt kiến thức, còn kỹ năng thì chưa tập trung cao độ. Hơn nữa, tổ chức trường học vẫn còn lạc hậu. Thành phố Mỹ Tho hiện là đô thị loại II, trực thuộc tỉnh Tiền Giang (được Thủ tướng Chính phủ công nhận vào ngày 07 tháng 10 năm 2005), là đô thị tỉnh lỵ, nằm ở bờ bắc hạ lưu sông Tiền. Phía đông và bắc giáp huyện Chợ Gạo, phía tây giáp huyện Châu Thành, phía nam giáp sông Tiền và tỉnh Bến Tre, có diện tích tự nhiên 49,98 km2, trong đó phần diện tích nội thị là 9,17 km2. Dân số thường trú và tạm trú khoảng 215.000 người, có 15 đơn vị hành chính cơ sở (gồm 11 phường và 04 xã). Ngày nay thành phố Mỹ Tho là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Tiền Giang, là một trong những đô thị đặc trưng vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Mỹ Tho có bề dày truyền thống văn hóa và lịch sử đấu tranh cách mạng hết sức vẻ vang, là đơn vị được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thành phố có bốn trường trung học phổ thông, trong đó trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu là một trong những trường trung học lớn nhất và sớm nhất Nam bộ, là cái nôi đào tạo nhân tài cho đất nước suốt hơn 120 năm qua. 1.2.2. Vấn đề triển khai việc giảng dạy môn Tin học tại các trường trung học phổ thông ở tỉnh Tiền Giang và thành phố Mỹ Tho Tỉnh Tiền Giang đã triển khai việc giảng dạy môn Tin học chính khóa từ năm 1993 đến 2000 theo chương trình thí điểm phân ban do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành với 04 trường trung học phổ thông, trong đó ở Thành phố Mỹ Tho có 01 trường là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm học 2000 – 2001 thì chương trình thí điểm phân ban tạm dừng nhưng Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang vẫn duy trì việc dạy môn Tin học cho bốn trường đã thực hiện thí điểm phân ban và một số trường trường trung học phổ thông khác có điều kiện về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giáo viên dưới hình thức dạy chính khóa hay dạy nghề phổ thông. Tuy nhiên giai đoạn này môn Tin học chưa được sự đầu tư cao của các trường. Đến năm học 2003 – 2004, Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang bắt đầu trang bị phòng máy tính với 24 máy vi tính/phòng lần lượt cho các trường trung học phổ thông, trang bị đến đâu thì cho dạy môn Tin học chính khóa đến đó. Dần dần, ba trường trung học phổ thông công lập ở Thành phố Mỹ Tho đã đưa môn Tin học vào giảng dạy như là một môn chính khóa cho cả ba khối lớp 10, 11, 12. Chính vì sự giảng dạy môn Tin học chưa đồng bộ ở các trường trung học phổ thông nên bộ môn Tin học vẫn chưa thật sự được đầu tư cả về mặt đội ngũ giáo viên lẫn chất lượng dạy và học. Cơ sở vật chất rất thiếu thốn, nhiều trường chỉ có một phòng máy vi tính mà tổ chức giảng dạy cho cả ba khối lớp nên hiện thực giảng dạy chỉ chủ yếu nặng về lý thuyết trên lớp mà không đủ điều kiện thực hành. Thực tế này không thu hút sự hứng thú học tập môn Tin học ở học sinh, dần dần làm cho học sinh không thích thú khi đến giờ học môn Tin học. Năm học 2006 – 2007, môn Tin học được triển khai đại trà ở tất cả các trường trung học phổ thông theo chương trình phân ban như là môn học bắt buộc chung cho tất cả ba ban : ban khoa học tự nhiên, ban khoa học xã hội và nhân văn, ban cơ bản. Nhờ đó các cấp đã có sự đầu tư thật sự về nhân sự, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy môn Tin học ở các trường trung học phổ thông trong toàn tỉnh, trong đó có bốn trường trung học phổ thông ở Thành phố Mỹ Tho, là : - Trường trung học phổ thông Chuyên Tiền Giang; - Trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu; - Trường trung học phổ thông Trần Hưng Đạo; - Trường trung học phổ thông ngoài công lập Ấp Bắc. Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển rất nhanh và tác động mạnh mẽ đến hầu hết mọi lĩnh vực trong đời sống hiện đại thì việc chuẩn bị cho nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi ngay từ bậc phổ thông học sinh cần có những kiến thức cơ bản về tin học, kỹ năng khai thác Internet, các kỹ năng sử dụng máy tính và một số thiết bị công nghệ thông tin thông dụng nhất. Bảng 1.1. Bảng thống kê ngân sách chi thường xuyên và chi đầu tư trang thiết bị dạy học môn Tin học dành cho khối trung học phổ thông của tỉnh Tiền Giang Năm học Chi thường xuyên (triệu đồng) Chi cho trang thiết bị Tin học Tỉ lệ (%) (triệu đồng) 2005 – 2006 86 816 967,651 1,12 % 2006 – 2007 102 890 4 586 4,46 % 2007 - 2008 121 410 8 100 6,67 % Qua số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Tiền Giang ở bảng 1.1 cho thấy ngân sách chi thường xuyên bao gồm chi tiền lương, chi cho các hoạt động giáo dục và chi cho cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động giảng dạy môn Tin học của các trường trung học phổ thông trong toàn tỉnh tăng theo hàng năm, trong đó ngân sách đầu tư cho cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ hoạt động giảng dạy môn Tin học còn khá khiêm tốn so với chi thường xuyên. Bảng 1.2. Bảng thống kê số liệu về số lớp và số giáo viên dạy môn Tin học ở các trường trung học phổ thông thuộc Thành phố Mỹ Tho Năm học Số lớp có học môn Tin học Số giáo viên tham Trung bình số tiết gia giảng dạy Tin học của giáo môn Tin học viên 2005 – 2006 116 7 32 tiết/tuần 2006 – 2007 135 8 38 tiết/tuần 2007 - 2008 146 11 40 tiết/tuần Bảng thống kê 1.2 cho thấy số giáo viên giảng dạy môn Tin học của các trường trung học phổ thông tại Thành phố Mỹ Tho có tăng theo hàng năm nhưng chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng của các trường. Căn cứ vào số tiết quy định theo phân phối chương trình của môn Tin học, số tiết phụ trách phòng máy tính so với số giáo viên tham gia giảng dạy môn Tin học thì trung bình số tiết phân công cho mỗi giáo viên là quá tải (theo quy định chuẩn là 17 tiết/tuần); bên cạnh đó còn tồn tại một thực tế là có một số giáo viên ngoài việc tham gia giảng dạy tin học còn tham gia giảng dạy môn học khác (như giáo viên tốt nghiệp Đại học sư phạm chuyên ngành Toán - Tin, …) càng tạo thêm khó khăn cho nhu cầu về đội ngũ giảng dạy tin học. 1.3. Cơ sở lý luận của đề tài 1.3.1. Các khái niệm có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài 1.3.1.1. Các khái niệm liên quan đến tin học * Tin học: Theo định nghĩa của Viện hàn lâm khoa học Pháp, “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu việc xử lý bằng máy tính điện tử các tri thức của loài người dưới dạng các thông tin trong các lãnh vực kỹ thuật, kinh tế và xã hội”. [12, tr.8] Theo GS. Hồ Sĩ Đàm, “Tin học là một ngành khoa học có mục tiêu phát triển và sử dụng máy tính điện tử để nghiên cứu cấu trúc, tính chất của thông tin, phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, biến đổi, truyền thông tin và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội”. [5, tr.6] Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau tùy thuộc phạm vi các lãnh vực được coi là tin học, nhưng nội dung cơ bản là thống nhất : Tin học (informatic) là ngành khoa học có mục tiêu phát triển và sử dụng máy tính điện tử để nghiên cứu cấu trúc, tính chất của thông tin, phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, biến đổi, truyền thông tin và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. * Thông tin: Thông tin (information) là nguồn gốc của nhận thức, hiểu biết. Thông tin có thể phát sinh, mã hóa, lưu trữ, truyền, tìm kiếm, xử lí, biến dạng, ... được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như hình ảnh, màu sắc, tiếng nói, cử chỉ, chữ viết, con số, …… Thông tin là sự loại trừ tính bất định. Thông tin chính là những gì mang lại sự hiểu biết, sự nhận thức về những sự kiện, hiện tượng mà ta quan tâm. Thực ra không có sự khác biệt nhiều giữa khái niệm thông tin được hiểu trong đời sống xã hội và khái niệm thông tin trong tin học. Trước mỗi thực thể (sự vật, sự kiện) tồn tại khách quan, con người luôn muốn biết rõ về nó càng nhiều càng tốt. Sự hiểu biết đó càng ít thì con người càng khó xác định thực thể đó. Những hiểu biết có thể có được về một thực thể nào đó được gọi là thông tin về thực thể đó. [5, tr.7] Thông tin và thông báo là hai khái niệm khác nhau : Một thông tin được truyền đạt bởi một hay nhiều thông báo, nhưng một thông báo đối với mỗi người có thể cung cấp những thông tin khác nhau. [12, tr.8] Thông tin có ảnh hưởng rất lớn đối với kinh tế, xã hội, là căn cứ cho mọi quyết định. Thông tin chính là tài nguyên cần được được tổ chức, bảo vệ và khai thác tốt. * Hệ thống tin học: Hệ thống tin học dùng để nhập, xử lý, xuất, truyền và lưu trữ thông tin. Hệ thống tin học gồm ba thành phần : - Phần cứng (Hardware) gồm máy tính và một số thiết bị liên quan. - Phần mềm (Sofware) gồm các chương trình. Chương trình là một dãy lệnh, mỗi lệnh là một chỉ dẫn cho máy tính biết thao tác cần thực hiện. - Sự quản lý và điều khiển của con người. [5, tr.19] * Máy tính điện tử: Máy tính điện tử là thiết bị dùng để tự động hóa quá trình thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin. Có nhiều loại máy tính khác nhau nhưng chúng đều có chung một sơ đồ cấu trúc như sau : * Công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại – chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. [42] Các giải pháp tin học cùng với những công nghệ truyền thông hiện đại đã tạo ra được mạng máy tính toàn cầu, nhờ đó phát triển nhiều dịch vụ tiện lợi, đa dạng như thương mại điện tử (E – commerce), đào tạo điện tử (E – learning), chính phủ điện tử (E – government), … và tạo khả năng để dễ dàng truy cập kho tài nguyên tri thức của nhân loại. * Internet là mạng máy tính khổng lồ, kết nối hàng triệu máy tính, mạng máy tính trên khắp thế giới và sử dụng bộ giao thức truyền thông TCP/ IP. Internet đảm bảo cho mọi người khả năng thâm nhập đến nhiều nguồn thông tin thường trực, cung cấp các chỉ dẫn bổ ích, dịch vụ mua bán, truyền tập tin, thư tính điện tử và nhiều khả năng khác nữa. [5, tr.141] Internet đảm bảo một phương thức giao tiếp hoàn toàn mới giữa con người với con người thông qua các dịch vụ Internet như Chat, Video chat, điện thoại Internet, … Internet được thiết lập vào năm 1983 và không ngừng phát triển bởi sự truyền tải lượng thông tin khổng lồ một cách thuận tiện, nhanh chóng với chi phí thấp. 1.3.1.2. Các khái niệm có liên quan đến quản lý * Quản lý: Quản lý là một thuộc tính gắn liền với xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của nó. Thuộc tính này bắt đầu từ bản chất hệ thống của xã hội từ lao động tập thể, lao động xã hội của con người. Marx nói “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung chừng nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng chung”. Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý: - Theo William Taylor (1856-1915), người đầu tiên nghiên cứu các quá trình lao động đã nêu “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”. [3, tr.89] - Theo Harold Koontz: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”. [20, tr.25] Từ những dấu hiệu bản chất chung nhất của các định nghĩa đã nêu, ta có thể hiểu “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích đề ra”. Trong một tổ chức thì chủ thể quản lý dùng tác động có định hướng, có chủ đích nhất định đến khách thể quản lý. Đây là tác động lan tỏa rộng rãi, đồng thời cũng là tác động thể hiện sự phân cấp quản lý. Hoạt động quản lý mang tính khoa học, thể hiện qua việc chủ thể quản lý sử dụng những công cụ, phương tiện, phương pháp tác động đến đối tượng quản lý phải phù hợp với quy luật khách quan trong sự kết hợp hài hòa với mong muốn chủ quan của chủ thể quản lý. * Quản lý giảng dạy môn Tin học: Đối với thế hệ thanh thiếu niên hiện nay, những người sẽ làm chủ xã hội trong thế kỷ 21, thế kỷ “xã hội thông tin hóa” thì tin học đóng một vai trò quan trọng trong nền học vấn của thanh niên. Sự hiểu biết về tin học thể hiện trong bốn điểm: - Có khả năng hiểu và sử dụng các nguồn thông tin được cung cấp. - Có khả năng chọn lọc, tổ chức và xử lý thông tin, không bị lạc trong một thế giới tràn ngập thông tin. - Hiểu được tầm quan trọng của các thông tin và có thái độ đúng đắn, có trách nhiệm khi tạo ra thông tin mới, tránh gây nhiễu cho xã hội. - Nắm được những tri thức căn bản về công cụ xử lý thông tin nói chung và sử dụng máy tính điện tử nói riêng trong học tập và sinh hoạt. Như vậy trong việc đào tạo con người mới, vai trò bộ môn Tin học rất quan trọng đối với công tác quản lý bộ môn của nhà trường đặc biệt là trường trung học phổ thông. Thông qua môn Tin học, trước hết là giáo dục cho học sinh phương pháp làm việc có kế hoạch, theo những chương trình định sẵn, là những điểm cơ bản của tư duy thật toán. Đây là phẩm chất không những cần thiết cho học sinh mà cho bất kỳ người nào muốn thành đạt trong nghiên cứu, sản xuất, quản lý. Đồng thời những kỹ năng soạn thảo văn bản, lập bảng biểu, sơ đồ, … giúp cho học sinh tạo ra và tổ chức, biểu diễn các thông tin của mình thông qua các thông tin đã thu nhận được, và như vậy đã biến tri thức của xã hội thành hiểu biết của mình. Việc giảng dạy tin học ở trường phổ thông nhằm cung cấp các kiến thức phổ thông và hình thành các kỹ năng cơ bản của tin học, công nghệ thông tin và truyền thông cho học sinh làm cơ sở ban đầu cho việc đào tạo nguồn nhân lực tương lai, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng tới nền kinh tế tri thức trong bối cảnh xã hội ngày càng chịu tác động mạnh mẽ của thành tựu công nghệ thông tin và truyền thông. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tin học là môn học bắt buộc và không phân hóa theo ban ở cấp trung học phổ thông. Như vậy có thể nêu lên khái niệm về quản lý giảng dạy môn tin học là: “Quản lý giảng dạy môn tin học trong trường trung học phổ thông là sự tác động hợp quy luật, có hướng đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý đó là giáo viên dạy tin học và học sinh, nhằm đạt được mục tiêu dạy học môn Tin học”. 1.3.1.3. Trường trung học phổ thông * Theo Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo quyết định số 07/2007/QĐBGD&ĐT ngày 02 tháng 04 năm 2007 quy định trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học được gọi chung là trường trung học. Trong hệ thống trường trung học thì trường trung học phổ thông là loại trường trung học có một cấp học. * Mục tiêu giáo dục trung học phổ thông: Theo Luật giáo dục 2005, giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm học từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm. Mục tiêu giáo dục trung học phổ thông là nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. [33] 1.3.2. Vị trí của đào tạo trong sự nghiệp đổi mới Với chức năng, nhiệm vụ cơ bản là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, công tác giáo dục và đào tạo giữ vai trò thiết yếu, cực kỳ quan trọng trong việc hình thành nhân cách, tạo nguồn nhân lực làm động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã sản sinh một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, lực lượng lao động lành nghề khá hùng hậu cả về số lượng và chất lượng. Song do nhiều nguyên nhân, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì nhiều yêu cầu mới nảy sinh đòi hỏi phải có những định hướng dài hạn một cách có hệ thống và hiệu quả để đáp ứng những thay đổi này. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 28 tháng 12 năm 2001 nhằm xác định mục tiêu, giải pháp và các bước đi để xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 26 tháng 04 năm 2002 đã khẳng định: "Trải qua 16 năm đổi mới, trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), hệ thống giáo dục đã có những bước phát triển mới. Quy mô giáo dục tăng nhanh. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Đã xuất hiện những đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến, tiêu biểu cho sự nỗ lực của ngành giáo dục trong quá trình đáp ứng yêu cầu của xã hội. Chủ trương xã hội hóa được đẩy mạnh; gia đình và cộng đồng chăm lo nhiều hơn cho sự nghiệp giáo dục, đồng thời cũng đòi hỏi cao hơn về cơ hội học tập và chất lượng giáo dục." Sự phát triển của khoa học – công nghệ dẫn đến kết quả là xuất hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kỹ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới. Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời, lạc hậu, hiện tượng “lão hóa” tri thức diễn ra với tốc độ ngày càng tăng. Trước những thay đổi ấy, nếu con người không tiếp cận đuợc với những tri thức mới, những hiểu biết mới họ sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu với thời cuộc và bị đào thải. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy cảm với cái mới, nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt các thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại. Do lượng thông tin tăng nhanh nên giáo dục và đào tạo phải tiếp cận được những thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ bằng cách chọn lọc nội dung, đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại thì mới có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin tăng nhanh và thời gian học, trình độ, sức lực của nguời học hiện nay, mới có thể giải quyết được vấn đề quá tải trong việc học của người học. Với sự ra đời và phổ cập của nhiều thế hệ máy tính điện tử, tính chất của lao động đang dần dần thay đổi. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, máy vi tính đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng của công việc và quản lý. Trong nhà trường hiện nay, việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, nhất là máy vi tính đã là một xu hướng để nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Giáo dục không chỉ đào tạo ra những người có tri thức mà còn tạo ra những con người sáng tạo, linh hoạt, biết bám sát thực tiễn, am hiểu thực tiễn, có khả năng vận dụng tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề do thực tiễn đề ra. Hiện nay thế giới đang có sự “chuyển giao công nghệ” giữa các nước. Xu thế này vừa là thuận lợi, song cũng là khó khăn cho các nước đi sau. “Chuyển giao công nghệ” đã tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, mang lại cho họ những bài học quí giá về môi trường và bảo vệ sinh thái. Để chấm dứt sự lạc hậu và trì trệ, vai trò và nhiệm vụ của giáo dục là hết sức quan trọng. Giáo dục phải đào tạo ra được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật thông minh, sáng tạo, những con người có khả năng đi tắt, đón đầu các thành tựu của khoa học - công nghệ thế giới. Ở cấp độ đào tạo, cấp độ nhà trường, mục đích giáo dục thể hiện các yêu cầu của các cấp quản lý giáo dục từ Bộ đến Trường, phản ánh mục đích ở cấp độ xã hội, những mục tiêu chung được cụ thể hóa thành mục tiêu giáo dục cho một cấp học, mục tiêu cho một ngành học, một loại hình giáo dục đào tạo được đề cập đến ba mặt : trình độ tri thức; kỹ năng, thái độ và những định hướng giá trị. Điều 2 của Luật Giáo dục 2005 đã nêu ra mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 1.3.3. Vai trò của Công nghệ thông tin trong giáo dục Sự bùng nổ của Công nghệ thông tin nói riêng và Khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội và đem lại nhiều hiệu quả to lớn. Mối quan hệ tương tác giữa các nhu cầu của xã hội ngày càng đa dạng và những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sự phát triển như vũ bão của tin học. Ai không theo dõi thường xuyên các thông tin liên quan đến lãnh vực này sẽ bị lạc hậu. Sự phát triển của công nghệ thông tin làm cho xã hội có thêm nhiều nhận thức mới về cách tổ chức các hoạt động. Bằng các phương tiện giao lưu thông tin hiện đại, các giao dịch “mặt đối mặt” sẽ ít dần nhưng con người vẫn có thể phối hợp các hoạt động với nhau một cách có hiệu quả hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian để dành cho các hoạt động sáng tạo và nghỉ ngơi. Cùng với việc phát triển các phương tiện kỹ thuật hiện đại có hàm lượng tin học ngày càng cao, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Lao động chân tay sẽ bớt dần và con người sẽ tập trung chủ yếu vào vào lao động trí óc để không ngừng nâng cao hiệu quả trong mọi công việc. Các thế hệ robot với nhiều loại dành cho các ngành nghề khác nhau sẽ được dùng phổ biến, chúng có thể thay thế con người trong những môi trường làm việc nguy hiểm. Rất nhiều trang thiết bị dùng cho mục đích sinh hoạt và giải trí như máy giặt, máy điều hòa, thiết bị âm thanh, … hoạt động theo các chương trình điều khiển đã và đang nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người.[5, tr. 5] Trong bối cảnh đó, quá trình đổi mới giáo dục bằng việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là con đường và giải pháp tất yếu để nhanh chóng nâng cao chất lượng giáo dục. Để nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng vận dụng công nghệ thông tin và các thiết bị dạy học hiện đại nhằm phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng đào tạo. Vai trò của công nghệ thông tin đối với giáo dục rất to lớn. Do có những ưu việt, nên công nghệ thông tin được ứng dụng và sử dụng rộng rãi đến mức không thể thiếu trong việc tạo lập, xử lý, trao đổi, lưu trữ, tra cứu và sử dụng thông tin quản lý giáo dục. Công nghệ thông tin còn là một phương tiện hỗ trợ đắc lực, hữu hiệu trong quá trình dạy học ở tất cả các môn học. Với việc học trên mạng, thành tựu của công nghệ thông tin đã đem đến một tài nguyên giáo dục cho tất cả mọi người, làm cho người học có thể phát huy tính tích cực, chủ động truy cập tùy theo điều kiện thời gian đặc thù của mỗi người. 1.3.4. Lý luận về công tác giảng dạy môn Tin học và nội dung công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học ở trường trung học phổ thông 1.3.4.1. Vai trò, mục tiêu, cấu trúc nội dung của môn Tin học trong trường trung học phổ thông * Vai trò: Môn Tin học trở thành môn học bắt buộc trong phân phối giảng dạy bộ môn ở cấp trung học phổ thông. Điều này giúp nhà trường có cơ sở pháp lý để đầu tư về trang thiết bị, phòng máy, biên chế giáo viên dạy tin học, triển khai các hoạt động ngoại khóa liên quan; học sinh học tập nghiêm túc, có trách nhiệm hơn khi học môn Tin học. Việc giảng dạy tin học trong trường trung học phổ thông có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện ba nhiệm vụ chính: - Truyền thụ tri thức tin học phổ thông cho học sinh trên ba mặt : biết, hiểu và kỹ năng sử dụng máy tính. - Ứng dụng công nghệ thông tin như là công cụ trong hoạt động dạy và học các môn khác. - Ứng dụng công nghệ thông tin để tin học hóa công tác quản lý, điều hành các hoạt động khác của nhà trường. [4, tr.3-4] * Mục tiêu: Mục tiêu dạy học môn Tin học ở bậc học phổ thông và cấp Trung học phổ thông bao gồm: - Mục tiêu chung của bậc học phổ thông Môn Tin học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông về ngành khoa học tin học, hình thành và phát triển khả năng tư duy thuật toán, năng lực sử dụng các thành tựu của ngành khoa học này trong học tập và trong các lĩnh vực hoạt động của mình sau này. - Mục tiêu cụ thể của cấp Trung học phổ thông Kiến thức: Trang bị cho học sinh một cách tương đối có hệ thống các khái niệm cơ bản nhất ở mức phổ thông về tin học – một ngành khoa học với những đặc thù riêng – các kiến thức về hệ thống, thuật toán, cấu trúc dữ liệu, lập trình, cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Kỹ năng: Học sinh bước đầu biết sử dụng máy tính, biết soạn thảo văn bản, sử dụng Internet, khai thác được các phần mềm thông dụng, giải được các bài toán đơn giản bằng máy tính, bước đầu sử dụng được một hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ cụ thể. Thái độ: Rèn luyện học sinh phong cách suy nghĩ và làm việc khoa học như sự ham hiểu biết, tìm tòi sáng tạo, chuẩn mực, chính xác trong suy nghĩ và hành động, say mê môn học, cẩn thận trong công việc, hợp tác tốt với bạn bè. [6, tr.4-5] * Cấu trúc nội dung chương trình: Lớp 10: Nhập môn Tin học gồm các kiến thức về các khái niệm cơ bản của tin học; một số kỹ năng ban đầu về sử dụng máy tính. Lớp 11: Lập trình gồm các kiến thức về các khái niệm về lập trình, thuật toán, cấu trúc dữ liệu, ngôn ngữ lập trình; kỹ năng ban đầu lập trình một số bài toán đơn giản thông qua một ngôn ngữ lập trình cụ thể. Lớp 12: Hệ cơ sở dữ liệu gồm các kiến thức về các khái niệm ban đầu về cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu; bước dầu có kỹ năng khai thác một hệ quản trị cơ sở dữ liệu cụ thể. [6, tr.5] 1.3.4.2. Nội dung công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học ở trường trung học phổ thông Nội dung công tác quản lý hoạt động giảng dạy môn Tin học ở nhà trường trung học phổ thông là quản lý mục tiêu, quản lý nội dung chương trình, quản lý quá trình dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh, quản lý cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình dạy và học ở môn Tin học. Môn Tin học trở thành môn học bắt buộc trong phân phối giảng dạy * Quản lý mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông: Văn bản chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông đã trình bày mục tiêu cấp học theo Luật Giáo dục 2005 quy định :”Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. [33]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất