Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, việc
đầu tư cho giáo dục là một đầu tư thông minh và lâu dài nhất. Giáo dục có
phát triển hay không sẽ quyết định tới tương lai vận mệnh của một đất nước,
của cả một dân tộc. Vì thế giáo dục ngày càng được quan tâm nhiều hơn đặc
biệt là chúng ta đang sống ở thế kỉ XXI là thế kỉ của sự bùng nổ thông tin,
của cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật, thế kỉ mà nền kinh tế tri thức đóng
vai trò chủ đạo, tri thức là nguyên khí là sức mạnh của cả quốc gia. Quốc gia
nào đang đứng trên đỉnh cao của tri thức thì quốc gia đó phát triển. Chính vì
vậy các quốc gia đều chú trọng tới giáo dục.
Nước ta đang trong giai đoạn tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Vì vậy đẩy mạnh sự phát triển giáo dục, đào tạo cả về
qui mô và chất lượng là đòi hỏi khách quan được đảng ta khẳng định trong
đại hội VII “Cùng với khoa học công nghệ giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài”.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và chất lượng đào tạo phổ
thông nói riêng cần phải đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy
nghành giáo dục của chúng ta đang tiến hành đổi mới này và chúng ta đang
tiến hành đổi mới phương pháp.
Đổi mới phương pháp dạy học cần phải được đổi mới ở tất cả các khâu
của quá trình dạy học, trong đó khâu có ý nghĩa quyết định đối với chất
lượng dạy và học là khâu nghiên cứu tài liệu mới. Tuy nhiên kiến thức có trở
nên vững chắc và sâu sắc hay không còn phụ thuộc vào một phần của khâu
củng cố kiến thức Chính vì vậy, khâu ôn tập củng cố trở nên quan trọng, nó
giúp chúng ta có thể khắc sâu kiến thức, nhớ đầy đủ và chính xác hơn.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
1
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Như vậy, rõ ràng việc ôn tập kiến thức ở từng bài, từng chương, từng
phần hay cuối học kì có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần
là việc nhắc lại một cách tóm tắt những điều đã được giảng mà còn giúp
chúng ta logic kiến thức lại với nhau, qua đó sẽ phát triển được khả năng tư
duy, sáng tạo và các kĩ năng, kĩ xảo.
Có nhiều phương pháp rất hiệu quả để dạy khâu ôn tập, củng cố như:
nhắc lại nội dung cơ bản của bài, ra câu hỏi tự luận cho học sinh trả lời, điền
vào phiếu học tập, ra câu hỏi trắc nghiệm….Các phương pháp như nhắc lại
nội dung cơ bản, ra câu hỏi tự luận, điền vào phiếu học tập… điều mất rất
nhiều thời gian và không củng cố được lượng kiến thức một cách khách quan.
Để khắc phục tình trạng trên, các nhà giáo dục quan tâm nhiều tới
phương pháp kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ). TNKQ
có nhiều dạng như: Đúng-Sai, điền khuyết, trả lời ngắn, câu hỏi nhiều lưa
chọn.Trong đó câu nhiều lựa chọn là phổ biến hơn cả.
Tuy nhiên thực tế hiện nay thì việc ôn tập lại kiến thức vẫn chưa được
chú trọng, đôi khi còn bỏ qua hoặc làm một cách qua loa, hời hợt do chưa
hiểu được hết tầm quan trọng và ý nghĩa của nó trong toàn bộ quá trình dạy
học.
Vì vậy xuất phát từ cơ sở lí luận, yêu cầu thực tiễn của giáo dục với
mong muốn nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy khâu củng cố chúng tôi
mạnh dạn đưa ra đề tài “Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm dùng trong khâu
củng cố phần VI- Tiến hóa, VII- Sinh thái học, Sinh học 12- Ban cơ bản”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng câu hỏi trắc nghiệm dùng trong khâu
củng cố hoàn thiện tri trức ở THPT.
- Giúp học sinh nắm vững, củng cố và khắc sâu kiến thức.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
2
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Có phương pháp giảng dạy khâu củng cố đạt kết quả cao nhất và đánh
giá học sinh một cách khách quan.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng trong khâu
củng cố nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phần VI,VII-SGK sinh học 12ban cơ bản.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các vấn đề có liên quan tới đề tài nghiên cứu.
- Xây dựng và tuyển chọn câu hỏi trắc nghiệm tương ứng cho việc củng
cố hoàn thiện tri thức.
- Soạn giáo án để vận dụng.
- Tìm hiểu thực trạng việc ôn tập củng cố kiến thức trong việc giảng
dạy Sinh học trong trường THPT hiện nay.
- Thăm dò ý kiến của các giảng viên, giáo viên bộ môn Sinh học để có
chỉnh lí lựa chọn phù hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Nội dung phần VI- Tiến hóa, phần VII- Sinh thái học, Sinh học 12Ban cơ bản. câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong dạy học khâu củng cố kiến
thức
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung trong chương trình Sinh học 12, chương VITiến hóa, chương VII- Sinh thái học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu về củng cố hoàn thiện kiến thức để xây dựng
cơ sở lí thuyết của đề tài.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
3
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Nghiên cứu một số tài liệu hướng dẫn về phương pháp giảng dạy khâu
củng cố.
- Phân tích nội dung của từng bài để có phương pháp giảng dạy phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
6. Cơ sở và thời gian nghiên cứu
6.1. Cơ sở
- Lớp 12 trường THPT Xuân Hòa- Thị xã Phúc Yên- Tỉnh Vĩnh Phúc
6.2. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012.
7. Giả thuyết khoa học
- Nếu xây dựng và thiết kế câu hỏi trắc nghiệm dùng trong khâu củng
cố khắc sâu kiến thức một cách chính xác và hợp lí sẽ góp phần nâng chất
lượng dạy và học phần VI- Tiến hóa, phần VII- Sinh thái học.
8. Ý nghĩa và mở rộng của đề tài
8.1. Ý nghĩa
8.1.1. Ý nghĩa lí luận
- Thực hiện hoàn thiện các khâu của quá trình lên lớp
8.1.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Hoàn thiện củng cố lượng kiến thức cho học sinh
- Đảm bảo thời gian giảng dạy
- Học sinh có thể chọn cho mình một phương án trả lời phù hợp
8.2. Mở rộng của đề tài
- Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm soạn thảo ra ngoài việc sử dụng trong
khâu củng cố thì có thể dùng trong các khâu kiểm tra, đánh giá hoặc dạy bài
mới.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
4
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.Tổng quan các vấn đề liên quan tới đề tài nghiên cứu
1.1. Lược sử nghiên cứu của câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.1.1. Trên thế giới
Nguồn gốc của khoa học trắc nghiệm gắn liền với mối quan tâm về
khoa học vật lý, tâm lý cuối thế kỷ XIX. Năm 1904 Aljed Binet nhà tâm lý
học người pháp cùng với cộng sự của mình đã phát minh ra bài trắc nghiệm
về trí tuệ thông minh được xuất bản năm 1905.
Ở Mỹ, phương pháp này dùng để phát hiện năng khiếu xu hướng của
học sinh. Đầu thế kỉ XX, E.Thondiker là người đầu tiên dùng phương pháp
trắc nghiệm như một phương pháp "khách quan nhanh chóng" để đo trình độ
kiến thức của học sinh.
Vào những năm 20 ở các nước Phương Tây các đề kiểm tra trắc
nghiệm đã ra đời đến khoảng những năm 60 đề trắc nghiệm đã được sử dụng
rộng rãi trong các kì tuyển sinh.
Từ năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, rất nhiều nước như Hàn Quốc,
Trung Quốc, Thái Lan... đã kết hợp sử dụng đề thi trắc nghiệm khách quan
trong các kì thi đại học, cao đẳng, olympic quốc tế sinh học. Trong những
năm gần đây đã ứng dụng câu hỏi trắc nghiệm trong phần lớn các đề thi lí
thuyết và thực hành.
1.1.2. Ở Việt Nam
Trong thập niên 70 đã có những công trình vận dụng test vào kiểm tra
kiến thức học sinh. Những năm 1980 – 1990 G.S Trần Kiên cũng đề cập đến
vấn đề câu hỏi test dưới dạng đơn vị kiến thức để lập ra các câu hỏi test cho
chương trình “động vật có xương sống”.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
5
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường
đại học, Bộ GD - ĐT, và các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo trao
đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của sinh
viên trong nước và trên thế giới, các khoá huấn luyện và cung cấp các kiến
thức cơ bản về các phương pháp TNKQ.
Theo xu hướng đổi mới của việc kiểm tra đánh giá, Bộ GD - ĐT đã
giới thiệu phương pháp TNKQ trong các trường đại học và bắt đầu công trình
nghiên cứu các thử nghiệm. Ngoài ra, ở một số trường phổ thông cũng đã bắt
đầu nghiên cứu việc sử dụng phương pháp TNKQ trong quá trình kiểm tra,
đánh giá nhận thức của HS.
Đến năm 1994, Bộ GD-ĐT đã chủ trương thí điểm thi đại học bằng
phương pháp trắc nghiệm lần đầu tiên ở nước ta tại trường Đại học Đà Lạt và
đến nay đã dược sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.
Như vậy, TNKQ đã rất phổ biến ở các nước phát triển trong nhiều lĩnh
vực, nhiều môn học với kết quả tốt và được đánh giá cao. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, việc sử dụng phương pháp TNKQ còn rất mới mẻ và hạn chế, nhất là
trong các trường phổ thông. Để HS phổ thông có thể làm quen dần với
phương pháp TNKQ
1.2. Phân loại câu hỏi trắc nghiệm
1.2.1. Khái niệm về trắc nghiệm
Trắc nghiệm trong giáo dục là phương pháp để đo lường một số đặc
điểm và năng lực trí tuệ của HS hoặc để kiểm tra một số kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo hoặc thái độ, hành vi nhằm mục đích xác định.
1.2.2. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại câu hỏi trắc nghiệm, mỗi dạng
thích ứng với một dạng kiến thức nhất định. Phương pháp trắc nghiệm có thể
được mô tả dưới dạng sau:
SVTH: Nguyễn Thị Thu
6
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Các loại trắc nghiệm
Quan
sát
Viết
Vấn
đáp
Trắc nghiệm khách quan
(Objective Tests)
Nhiều
lựa
chọn
Ghé
p đôi
Điền
khuyết
Trắc nghiệm tự luận
(Essay Tests)
Đúng
sai
Trả
lời
ngắn
Tiểu
luận
Giải đáp
vấn đề
Trên sơ đồ ta thấy trắc nghiệm trong giáo dục rất đa dạng và phong
phú. Trong đó trắc nghiệm khách quan là dạng mỗi câu hỏi có kèm theo
những câu trả lời sẵn trong phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu tới dạng này
1.2.2.1. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (MCQ)
Là loại trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời cho mỗi câu hỏi để thí
sinh lựa chọn, thường được kí hiệu là "MCQ". Một câu hỏi loại này gồm một
phần phát biểu chính, được gọi là phần dẫn, hay câu hỏi, và bốn, năm, hay
nhiều phương án trả lời sẵn để thí sinh chọn ra câu trả lời đúng nhất, hay hợp
lý nhất. Ngoài một câu trả lời đúng, các câu trả lời khác trong các phương án
trả lời phải có vẻ hợp lý đối với thí sinh.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
7
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
a. Ưu điểm của loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn
- Độ tin cậy cao hơn
- Học sinh phải xét đoán và phân biệt kĩ càng khi trả lời câu hỏi.
- Tính chất giá trị tốt hơn
- Có thể phân tích được tính chất của mỗi câu hỏi
- Tính chất khách quan khi chấm
b. Khuyết điểm của loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn
- Khó soạn câu hỏi
- Thí sinh nào có óc sáng tạo có thể tìm ra những câu trả lời hay hơn
phương án đúng đã cho, nên họ có thể không thoả mãn hay cản thấy khó chịu.
- Các câu trắc nghiệm MCQ có thể không đo được khả năng phán đoán
tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề học thuật một cách hiệu nghiệm bằng
câu hỏi tự luận soạn kĩ.
- Các khuyết điểm khác là tốn nhiều giấy để in loại câu hỏi này so với
loại câu hỏi khác, và học sinh cần nhiều thời giờ để đọc câu hỏi, phạm vi câu
hỏi rộng, học sinh học nhiều, không tập trung vào những vấn đề cốt lõi nội
dung.
1.2.2.2. Trắc nghiệm loại "Đúng sai"
Một câu trắc nghiệm loại "Đúng sai" thường gồm một câu phát biểu để
thí sinh phán đoán xem nội dung đúng hay sai.
Loại câu hỏi này phù hợp nhất cho việc khảo sát trí nhớ những sự kiện,
hay nhận biết các sự kiện.
a. Ưu điểm của loại trắc nghiệm đúng sai
- Đây là loại trắc nghiệm đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về
những sự kiện.
- Loại câu hỏi đúng sai giúp cho việc trắc nghiệm bao gồm một lĩnh
vực rộng lớn trong khoảng thời gian thi tương đối ít ỏi. Ví dụ: với một bài trắc
SVTH: Nguyễn Thị Thu
8
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
nghiệm đúng sai soạn kĩ gồm 100 hay 200 câu hỏi, một giáo viên có thể khảo
sát kiến thức học sinh về những sự kiện nhất định đã có trong khoảng 1giờ.
- Việc soạn loại câu hỏi đúng sai cũng cần nhiều công phu, nhưng phần
đông các giáo viên có thể soạn được nhiều câu trong khoảng một thời gian
ngắn. Có thể một giáo viên có thể viết ít nhất 10 câu hỏi loại đúng sai trong
một khoảng thời gian cần thiết đủ để chỉ viết được một câu hỏi có bốn hoặc
năm câu trả lời cho sẵn để chọn.
- Tính chất khách quan khi chấm điểm.
- Thí sinh chọn một trong các câu trả lời có sẵn.
b. Khuyết điểm của loại trắc nghiệm "đúng sai"
- Có thể khuyến khích sự đoán mò. Mặc dù giáo viên có thể áp dụng
công thức hiệu chỉnh, học sinh vẫn có khuynh hướng đoán may rủi để có 50%
hi vọng trả lời đúng.
- Khó dùng để xác định yếu điểm của học sinh, do yếu tố đoán mò
quá cao.
- Trong các môn thuộc khoa học xã hội, nhân văn nghệ thuật, có thể có
nhiều quan điểm khác nhau nên các câu hỏi thuộc loại đúng sai có thể tối
nghĩa khó hiểu. Do đó người soạn câu hỏi phải xác định rõ ràng tác giả, xuất
xứ của ý kiến, tư tưởng lời nói nêu trong mỗi câu.
- Loại trắc nghiệm đúng sai có độ tin cậy thấp. Để có độ tin cậy xấp xỉ
với các loại trắc nghiệm khách quan khác, một bài loại đúng sai phải dài trên
100 câu.
- Những giáo viên dùng loại câu hỏi này thường có khuynh hướng trích
nguyên văn các câu trong sách, do đó học sinh sẽ tập thói quen học thuộc lòng
hơn là tìm hiểu, suy nghĩ.
- Khác với loại trắc nghiệm có nhiều câu trả lời cho sẵn để chọn, trong
loại đúng sai học sinh phải quyết định giữa hai điều để chọn quá hạn hẹp.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
9
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
Điều này có thể làm cho học sinh giỏi thất vọng hay khó chịu khi học thấy
phải có điều kiện rõ ràng mới quyết định xem câu phát biểu đúng hay sai,
hoặc có thể có những trường hợp ngoại lệ chứ không phải hoàn toàn đúng hay
hoản toàn sai.
- Với các học sinh còn bé, những câu phát biểu sai có thể khiến họ học
những điều sai lầm một cách vô thức.
1.2.2.3. Trắc nghiệm loại ghép đôi
Trong loại này, thí sinh tìm cách ghép mỗi từ hay câu trả lời trong một
cột với một từ hay câu xếp trong cột khác. Số câu hoặc từ trong cột thứ nhất
có thể ít hơn, bằng, hay nhiều hơn các câu hay từ trong cột thứ hai.
a. Ưu điểm của loại trắc nghiệm ghép đôi
- Trắc nghiệm ghép đôi rất thích hợp với các câu hỏi bắt đầu bằng
những chữ "ai", "ở đâu", "khi nào", "cái gì".
- Các câu hỏi ghép đôi viết dễ và dễ dùng, đặc biệt rất thích hợp khi cần
thẩm định các mục tiêu ở mức tâm linh thấp, tuy nhiên chúng ta nên cố gắng
viết những câu hỏi ở mức trí năng cao hơn.
- Theo kinh nghiệm của một số các nhà giáo dục học sinh ở lứa tuổi
phổ thông cơ sở rất thích loại trắc nghiệm ghép đôi.
- Khi các câu hỏi loại ghép đôi được soạn kĩ đòi hỏi học sinh phải
chuẩn bị tốt trước khi thi, vì yếu tố đoán mò giảm đi nhiều, nhất là khi phải
ghép những cột có ít nhất tám đến mười phần tử với nhau. Thêm vào đó, nếu
số phần tử ở cột câu hỏi và cột trả lời khác nhau, yếu tố may rủi càng giảm
đi nhiều.
- Người ta có thể dùng loại trắc nghiệm ghép đôi để đo các mức trí
năng khác nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
10
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
b. Khuyết điểm của loại trắc nghiệm ghép đôi
- Thường vì muốn soạn thảo câu hỏi để đo các mức kiến thức cao đòi
hỏi nhiều công phu nên một số giáo viên chỉ dùng loại câu hỏi ghép đôi để
trắc lượng các kiến thức về ngày, tháng, tên, định nghĩa, biến cố, công thức,
dụng cụ hoặc để lập các hệ thức, phân loại. Trắc nghiệm loại ghép đôi cũng
không thích hợp cho việc thẩm định các khả năng như sắp đặt và áp dụng kiến
thức, nguyên lí.
- Nếu danh sách trong mỗi cột quá dài (gồm 25 phần tử) học sinh sẽ
mất nhiều thời gian để đọc cả cột mỗi lần muốn ghép một đôi.
1.2.2.4. Trắc nghiệm loại điền khuyết hay có câu trả lời ngắn
Loại trắc nghiệm điền khuyết hay trắc nghiệm có câu trả lời ngắn thực
ra chỉ là một, chỉ khác nhau về dạng thức vấn đề dược đặt ra. Nếu được trình
bày dưới dạng câu hỏi, chúng ta gọi là loại có câu trả lời ngắn, nếu được trình
bày dưới dạng một câu phát biểu chưa đầy đủ, chúng ta gọi là loại điền
khuyết. Nói chung là loại trắc nghiệm có câu trả lời tự do.
Khoảng trống để điền câu trả lời nên được đặt vào cuối câu để có ý
nghĩa câu hỏi không bị gián đoạn vì những chỗ trống và gây cảm giác lộn xộn
cho thí sinh.
a. Ưu điểm của trắc nghiệm loại điền khuyết hay có câu trả lời ngắn
- Thí sinh có được cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường, phát
huy óc sáng tạo
- Phương pháp chấm điểm nhanh hơn và đáng tin cậy hơn với loại luận
đề, mặc dầu việc cho điểm có phần rắc rối hơn so với các loại trắc nghiệm
khách quan khác.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
11
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Thí sinh mất cơ hội đoán mò câu trả lời như trường hợp các loại trắc
nghiệm khách quan khác. Thí sinh phải nhớ ra hoặc nghĩ ra câu trả lời, thay vì
chỉ chọn lựa câu trả lời đúng trong số các câu hỏi cho sẵn.
- Loại trắc nghiệm điền khuyết hay có câu trả lời ngắn dễ soạn hơn so
với loại trắc nghiệm luận đề.
- Có thể lấy mẫu các điều đã học một cách tiêu biểu hơn so với loại trắc
nghiệm luận đề. Loại trắc nghiệm điền khuyết thích hợp hơn loại luận đề khi
dùng kiểm tra những điều đòi hỏi trí nhớ.
- Các câu hỏi loại điền khuyết hay có câu trả lời ngắn rất thích hợp cho
những vấn đề như tính toán, cân bằng phưong trình hoá học, nhận biết các
vùng trên bản đồ hoặc giải đồ, đánh giá mức hiểu biết các nguyên lí, giải thích
dữ kiện, diễn đạt ý kiến hoặc thái độ.
- Giúp học sinh luyện trí nhớ khi học. Nếu việc học chỉ căn cứ hoàn
toàn trên trí nhớ hoặc đòi hỏi nhớ mà không hiểu mới đáng phê bình. Ngược
lại, nhớ những điều căn bản để suy luận hay áp dụng vào các trường hợp khác
là một điều cần thiết được khích lệ.
b. Khuyết điểm của trắc nghiệm loại điền khuyết hay có câu trả lời ngắn
- Giáo viên thường có khuynh hướng trích nguyên văn các câu từ sách
giáo khoa.
- Giáo viên có thể hiểu sai, đánh giá thấp giá trị các câu trả lời sáng tạo
khác ý giáo viên nhưng vẫn hợp lí, nhất là khi học sinh đọc thêm sách và tài
liệu ngoài sách giáo, như trong các môn nhân văn, khoa học xã hội chẳng hạn.
- Nhiều câu hỏi loại điền khuyết ngắn và gọn có khuynh hướng đề cập
các vấn đề quan trọng hoặc không liên quan nhau. Phạm vi khảo sát thường
chỉ giới hạn vào chi tiết, các sự kiện vụn vặt.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
12
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Các yếu tố như chữ viết, đánh vần sai, có thể ảnh hưởng đến việc
đánh giá câu trả lời.
- Việc chấm bài mất nhiều thời giờ hơn so với loại trắc nghiệm đúng
sai, hoặc trắc nghiệm có nhiều câu trả lời cho sẵn để chọn.
- Khi có nhiều chỗ trống trong một câu hỏi , học sinh có thể rối trí. Kết
quả là điểm số thường có độ tương quan với mức thông minh hơn là với thành
quả học tập của học sinh. Do đó độ giá trị của bài thi giảm vì thực ra giáo viên
đang đo lường mức độ thông minh nhiều hơn thành quả học tập.
- Thiếu yếu tố khách quan lúc chấm điểm. Mặc dầu phương pháp chấm
điểm loại trắc nghiệm điền khuyết có tính chất khách quan cao hơn loại luận
đề, giáo viên vẫn gặp nhiều phiền phức hơn khi chấm các câu trắc nghiệm
điền khuyết vì giới hạn câu trả lời đúng rộng rãi hơn. Giáo viên có thể phải
cho điền một phần hay toàn phần cho một câu trả lời khác với trong đáp án để
chấm bài. Do đó các nhân viên phụ việc không thể chấm giúp, cũng như
không thể dùng phương pháp chấm bằng máy.
1.3. Tác dụng của câu hỏi trắc nghiệm khách quan
1.3.1. Ưu điểm
- Trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều hình thức cụ thể, đi sâu
vào nhiều khía cạnh khác nhau của một kiến thức, phạm vi kiến thức của một
bài khá rộng nên có thể chống khuynh hướng “học tủ”.
- Tốn ít thời gian thực hiện nhất là khâu chấm bài.
- Đảm bảo tính khách quan cho điểm.
- Thuận lợi cho việc tổ chức làm bài và chấm bài trên máy vi tính, dễ
sử dụng phương pháp thống kê để phân tích, tổng kết và kiểm tra.
- Gây được sự hứng thú và tích cực của học sinh.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
13
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
1.3.2. Nhược điểm
- Đúng, sai có thể gây ra những biểu tượng sai lầm bất lợi cho đầu óc
trẻ, nên hạn chế việc đưa ra những câu dẫn chứa sai lầm.
- Nhiều lựa chọn có thể gặp trường hợp học sinh lựa chọn đúng 1 cách
ngẫu nhiên, chưa nhận định rõ ràng.
- Có người cho rằng trắc nghiệm chỉ rèn trí nhớ máy móc mà không
kiểm tra được tư duy
1.4. Một số nguyên tắc khi viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Để nâng cao hiệu quả củng cố của các câu hỏi trắc nghiệm người ta đã
đưa ra một số các tiêu chuẩn nhất định đối với từng phần của câu hỏi trắc
nghiệm khách quan như sau.
1.4.1. Đối với loại câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
- Nội dung rõ ràng, chỉ nên đưa vào một nội dung
- Tránh dùng dạng phủ định, nếu dùng phải in đậm chữ "không".
- Nên viết diễn giải một phần của câu, chỉ dùng dạng câu hỏi khi nào
nhấn mạnh.
- Chỉ có bốn đáp án trong đó có một đáp án đúng
- Phương án phải đều có vẻ hợp lí và có sức hấp dẫn học sinh
- Các phần câu lựa chọn hoặc các câu lựa chọn phải đựơc viết cùng
theo một lối hành văn, cùng một cấu trúc ngữ pháp nghĩa là thay đổi hình
thức, chỉ khác nội dung.
- Hạn chế dùng phương án "các câu trên đều đúng" hoặc "Câu trên
đều sai"
- Không để học sinh đoán ra câu trả lời dựa vào hình thức của các phần
lựa chọn.
- Sắp xếp các phần lựa chọn theo thứ tự ngôn ngữ, tránh thể hiện một
ưu điểm nào đối với vị trí của phương án đúng
SVTH: Nguyễn Thị Thu
14
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Đặc điểm phần dẫn và phần lựa chọn khi ghép lại phải thành một cấu
trúc đúng ngữ pháp và chính tả.
1.4.2. Đối với loại câu hỏi trắc nghiệm "Đúng - Sai"
- Nên dùng từ ngữ chính xác và thích hợp để câu hỏi đơn giản và
rõ ràng.
- Các câu hỏi loại "Đúng - Sai" chỉ nên mang một ý tưởng chính yếu
hơn là có hai hay nhiều ý tưởng trong mỗi câu.
- Tránh dùng những từ "luôn luôn", "tất cả", "không bao giờ", "không
thể tránh được".. vì các câu mang các từ này thường có nhiều triển vọng "sai".
Ngược lại, những chữ như "thường thường", "đôi khi", "ít khi" lại thường đi
với những câu để trả lời "đúng".
- Câu hỏi phải đúng văn phạm để học sinh không cho câu ấy "sai" chỉ
vì cách diễn đạt không chính xác.
- Tránh dùng các câu ở thể phủ định, nhất là thể phủ định kép.
- Không nên trích nguyên văn câu hỏi từ sách giáo khoa.
- Tránh để học sinh đoán câu trả lời đúng nhờ chiều dài của câu hỏi.
Các câu đúng thường dài hơn các câu sai vì vậy cần phải thêm các điều kiện,
giới hạn cần thiết.
- Tránh khuynh hướng dùng số câu đúng nhiều hơn số cấu sai hay
ngược lại trong bài thi. Số câu đúng và số câu sai nên gần bằng nhau.
- Tránh làm cho một câu trở nên sai vì một chi tiết vụn vặt hoặc vì một
ý tưởng nhằm cài bẫy học sinh.
1.4.3. Đối với loại câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi
- Trong mỗi bài trắc nghiệm loại ghép đôi, phải có ít nhất 6 phần tử và
nhiều nhất 12 phần tử trong mỗi cột. Nếu danh sách trong mỗi cột quá dài,
SVTH: Nguyễn Thị Thu
15
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
chúng ta nên bỏ bớt các câu trả lời không hợp lí, hoặc phân chia danh sách dài
thành những danh sách ngắn gồm bảy hay tám phần tử ở mỗi cột.
- Phải xác định rõ tiêu chuẩn để ghép một phần tử của cột trả lời vào
phần tử tương ứng của một cột câu hỏi. Phải nói rõ mỗi phần tử trong cột trả
lời chỉ được dùng một lần hay được dùng nhiều lần.
- Số phần tử để lựa chọn trong cột trả lời nên nhiều hơn số phần tử
trong cột câu hỏi, hoặc mỗi phần tử trong cột trả lời có thể được dùng nhiều
lần. Điều này sẽ giảm bớt yếu tố may rủi.
- Các câu hỏi nên có tính chất đồng nhất hoặc liên hệ nhau
- Sắp xếp các phần tử trong danh sách theo một thứ tự hợp lí nào đó.
- Tất cả các phần tử cùng danh sách nên nằm trong cùng một trang để
học sinh đỡ nhầm lẫn hay gặp khó khăn khi phải lật qua lật lại một trang
nhiều lần.
- Các câu hỏi loại ghép đôi cũng có thể được sắp đặt dưới dạng tương
tự loại MCQ.
1.4.4. Đối với loại câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết hay có câu trả lời
ngắn
- Lời dẫn phải rõ ràng. Thí sinh phải biết các chỗ trống phải điền hoặc
câu trả lời phải thêm vào dựa trên căn cứ nào.
- Tránh lấy nguyên văn các câu từ sách ra để giảm bớt học sinh học
thuộc lòng.
- Chỉ nên chừa chỗ trống các chữ quan trọng. Ngoại trừ các bài trắc
nghiệm về văn phạm, không nên chừa chỗ trống các chỗ có giới từ, liên từ,
mạo từ. Chỉ nên để học sinh điền vào các điều có ý nghĩa quan trọng.
- Trong khi chấm điểm, mỗi chỗ điền nên được một điểm, trừ khi câu
trả lời đòi hỏi phải điền nhiều chữ.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
16
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Các khoảng trống nên có chiều dài bằng nhau cho thí sinh không đoán
được các chữ phải trả lời.
- Với trắc nghiệm cần câu trả lời ngắn, nên đặt câu hỏi thế nào để thí
sinh chỉ cần dùng một từ hay một câu để trả lời.
2. Cơ sở lí luận
2.1. Khái niệm củng cố kiến thức
Sau mỗi tiết học, kiến thức, kĩ năng mới được hình thành cho học sinh
chưa được vững chắc nếu không được củng cố ngay. Việc củng cố hoàn thiện
kiến thức cho học sinh phát hiện bổ sung những kiến thức chưa đúng của họ.
Qua đó phát hiện những thiếu sót trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh.
Từ đó giáo viên hoàn chỉnh thêm nội dung của bài cho phù hợp.
Vậy củng cố kiến thức là ôn tập, củng cố và vận dụng kiến thức vào
những tình huống mới làm cho kiến thức được mở rộng đào sâu thêm, đồng
thời phát triển các kĩ năng, kĩ xảo của học sinh.
2.2. Vai trò của khâu củng cố hoàn thiện kiến thức
Khâu củng cố hoàn thiện kiến thức có vai trò đối với cả giáo viên và
hoc sinh.
a. Đối với học sinh
- Về kiến thức: qua củng cố hoàn thiện kiến thức, học sinh thấy mình
đã tiếp thu những điều đã học ở mức độ nào, những phần nào cần phải bổ
sung thêm trong bài học.
- Về năng lực: củng cố hoàn thiện kiến thức học sinh tiến hành các hoạt
động trí tuệ: ghi nhớ, tái hiện, so sánh, phân tích, chính xác hóa, hệ thống hóa.
Qua đó học sinh sẽ phát triển tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã
học để giải thích tình huống thực tế.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
17
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
- Về giáo dục: củng cố hoàn thiện kiến thức thường xuyên, nghiêm túc
sẽ giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm trong học tập, có ý chí vươn lên đạt
kết quả cao, củng cố lòng tin vào năng lực của mình, khắc phục tính chủ quan
tự mãn.
b. Đối với giáo viên
- Tạo điều kiện cho giáo viên nắm được một cách cụ thể và khá chính
xác năng lực và trình độ của mỗi học sinh. Từ đó tìm ra biện pháp riêng, thích
hợp.
- Giúp giáo viên xem xét hiệu quả cải tiến của những nội dung, phương
pháp hình thức dạy học.
`
Như vậy, khâu củng cố hoàn thiện kiến thức có vai trò quan trọng trong
quá trình dạy học. Nó góp phần làm cho kiến thức ở khâu nghiên cứu tài liệu
mới trở nên vững chắc và sâu sắc hơn.
Việc củng cố hoàn thiện kiến thức có hệ thống và thường xuyên cung
cấp kịp thời những thông tin "liên hệ ngược" giúp người học tự điều chỉnh
hoạt động học tập và giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy học.
3. Cơ sở thực tiễn
Củng cố hoàn thiện kiến thức có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
dạy học. Tuy nhiên qua quan sát các giờ dạy Sinh học của nhiều giáo viên ở
trường THPT, qua trò chuyện, trao đổi, qua tìm hiểu giáo án của một số giáo
viên THPT về thực trạng của khâu củng cố hoàn thiện kiến thức. Kết quả cho
thấy đã có một số giáo viên sử dụng câu hỏi TNKQ, câu hỏi vận dụng giải
thích hiện tượng trong thực tiễn, trò chơi ô chữ...nhưng con số này chưa
nhiều. Còn phần lớn giáo viên THPT với tâm lí luôn lo sợ thiếu thời gian
trong bài giảng nên họ chỉ chú ý đến khâu nghiên cứu tài liệu mới còn khâu
SVTH: Nguyễn Thị Thu
18
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
củng cố chỉ được tiến hành vội vàng, hời hợt như: nói tóm tắt lại phần trọng
tâm của bài, hay cho học sinh trả lời một số câu hỏi cuối bài....
Như vậy, hiện nay khâu củng cố hoàn thiện kiến thức trong dạy học
Sinh học còn chưa được chú ý đúng mức. Điều đó đã làm hạn chế chất lượng
dạy học bộ môn.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
19
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG II. HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Phân tích cấu trúc, nội dung phần VI - Tiến hóa, phần VII - Sinh thái
học, sinh học 12 - Ban cơ bản
1.1. Cấu trúc nội dung phần VI- Tiến hóa
1.1.1. Vị trí
Phần tiến hóa là nội dung tiếp theo của các nội dung về thực vật học, động
vật học, sinh lí học và cơ chế tiến hóa.
1.1.2. Cấu trúc
Phần tiến hóa gồm 2 chương
Chương I: Bằng chứng tiến hóa
Chương này giới thiệu các bằng chứng và cơ chế tiến hóa gồm giải
phẫu so sánh, phôi sinh học, địa lí sinh vật học, tế bào học và sinh học phân
tử, các học thuyết tiến hóa của Lamac, thuyết tiến hóa của Đacuyn và học
thuyết tiến hóa tổng hợp..., gồm 8 bài
+ Bài 24. Các bằng chứng tiến hóa.
+ Bài 25. Học thuyết Lamac và học thuyết Đacuyn .
+ Bài 26. Học thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại.
+ Bài 27. Quá trình hình thành quần thể thích nghi.
+ Bài 28. Loài.
+ Bài 29. Quá trình hình thành loài.
+ Bài 30. Quá trình hình thành loài (tiếp theo).
+ Bài 31. Tiến hóa lớn.
Chương II: Sự phát sinh và phát triển của sự sống trên Trái Đất
Chương này giới thiệu khái quát về quá trình hình thành sự sống trên
Trái Đất qua các giai đoạn tiến hóa hóa học, tiến hóa tiền sinh học và tiến hóa
sinh học song hành cùng với sự biến đổi của trái Đất qua các đại địa chất.
SVTH: Nguyễn Thị Thu
20
Lớp K34 B - Sư phạm Sinh
- Xem thêm -