Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quá trình xác lập chủ quyền của việt nam tại quần đảo hoàng sa và trường sa ...

Tài liệu Quá trình xác lập chủ quyền của việt nam tại quần đảo hoàng sa và trường sa

.PDF
335
15
136

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN NHÃ QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2002 MỤC LỤC MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3 LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. 7 CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN ................................................................. 8 PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 9 1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 9 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .................................................................................... 9 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN ĐỀ TÀI. ............................... 15 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG ................. 16 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. ............................................................................................ 17 6. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN. ..................................................................................... 17 CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA . ...................................................................................... 19 1.1 .TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA. ....... 19 1.2. QUẦN ĐẢO HOÀNG SA ............................................................................................... 22 1.2.1. Nhóm Lười Liềm: ..................................................................................................... 23 1.2.2. Nhóm An Vĩnh (1.2) (Amphitrite Groupe, (1.3) ...................................................... 26 1.2.3. Nhóm Linh Côn ........................................................................................................ 26 1.3. QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA. (HÌNH 1.18)...................................................................... 27 1.3.1. Cụm Song Tử gồm 2 đảo, 2 đá, 2 bãi : ..................................................................... 28 1.3.2. Cụm đảo Thị Tứ ........................................................................................................ 29 1.3.3. Cụm đá Loai Ta ........................................................................................................ 29 1.3.4. Cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia .................................................................................. 30 1.3.5. Cụm đảo Sinh Tồn .................................................................................................... 31 3 1.3.6. Cụm đảo Trường Sa. ................................................................................................. 32 1.3.7. Cụm đảo An Bang..................................................................................................... 33 1.3.8. Cụm đảo Bình Nguyên. ............................................................................................ 34 1.4. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, THẢO MỘC CỦA QUAN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA. ........................................................................................................................................... 35 1.5. TẦM QUAN TRỌNG VỀ CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ VÀ TÀI NGUYÊN CỦA HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA DẪN ĐẾN SỰ XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM CỦA CÁC NƯỚC NGOÀI. .................................................................................................... 38 CHƯƠNG 2: SỰ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI QUAN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA...................................................................................................... 41 2.1. CÁC NGUỒN TƯ LIỆU MINH CHỨNG SỰ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA. .................................................................. 41 2.1.1. Những tư liệu của Việt Nam minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ................................................................................................................. 41 2.1.2. Những tư liệu của Trung Quốc và Phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ..................................................................................... 54 2.2. SỰ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYÊN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG XÁC LẬP CHỦ QUYỀN CỦA CÁC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM. ................................................................. 65 2.2.1. Sự khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của vua chúa, triều đình Việt Nam. ............................................................................................................................................ 65 2.2.2. Việc quản lý hành chánh của các chính quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. .......................................................................................................................... 66 2.2.3. Sự thành lập và hoạt động của đội Hoàng Sa từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. ....... 67 2.2.3.1. Địa bàn ra đời của đội Hoàng Sa là ở vùng cửa biển Sa Kỳ (hình 2.51) và Cù Lao Ré. ........................................................................................................................... 67 2.2.3.2.Thời gian hoạt động của đội Hoàng Sa. ............................................................ 69 4 2.2.3.3. Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa. ............................................................................. 73 2.2.3.4. Tổ chức và nội dung hoạt động của đội Hoàng Sa ........................................... 74 2.2.4. Đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa trong khu vực phía nam của Biển Đông tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận. ........................................ 80 2.2.5. Các hoạt động của thủy quân triều đình Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ........................................................................................................................................ 82 2.2.5.1. Các hoạt động đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ về Hoàng Sa và Trường Sa ......... 82 2.2.5.2. Các hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền để xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỷ XIX. ............................................ 86 2.2.5.3. Xây dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ....... 90 CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ KHI BỊ CÁC NƯỚC NGOÀI XÂM PHẠM .............................................................................. 91 3.1. TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYÊN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1909 ĐẾN NAY. .......................................... 91 3.1.1. Thời kỳ từ năm 1909 đến 1945................................................................................. 91 3.1.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954. ...................................................................... 101 3.1.3. Thời kỳ Việt Nam chia cắt (1954 - 1975), phản kháng các nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ............................................ 104 3.1.4. Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ................................................................................... 109 3.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA SỰ XÁC LẬP VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA ...................................................................... 115 3.2.1. Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo. ............. 115 3.2.2. Tính pháp lý quốc tế của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. .................................................................................................................... 119 5 3.3. PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỂM BIỆN MINH CHO SỰ XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM CỦA CÁC NƯỚC NGOÀI TẠI QUAN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA. ............................................................................................................................................... 127 3.3.1. Phản bác các luận điểm của Trung Quốc biện minh cho sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ............................................................... 127 3.3.2. Phản bác các luận điểm của các nước Philippines, Malaysia, Brunei biện minh cho sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Trường Sa. ........................................... 146 PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 153 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU ........................................................................ 159 I - TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT ................................................................................................. 159 II- TÀI LIỆU TIẾNG ANH - PHÁP ................................................................................... 172 III - TÀI LIỆU CHỮ HÁN .................................................................................................. 178 PHẦN CHÚ THÍCH..................................................................................................... 180 CHƯƠNG 1 .......................................................................................................................... 180 CHƯƠNG 2 .......................................................................................................................... 181 Chương 3 .............................................................................................................................. 188 PHẦN HÌNH ẢNH ....................................................................................................... 189 6 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NGUYỄN NHÃ 7 CÁC KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN ÁN Ý NGHĨA CỦA KÝ HIỆU KÝ HIỆU -[10,185] Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác giả sử dụng trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 10 ở trang 185 của tài liệu ấy theo thứ tự của danh mục tài liệu tham khảo từ trang 184 đến 211 trong luận án này. -[10,183 - 189] Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác giả sử dụng trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 10 từ trang 183 đến 189 của tài liệu ấy theo thứ tự của danh mục tài liệu tham khảo từ trang 184 đến 211, trong luận án này. [1] Ký hiệu này có nghĩa là số liệu, sự kiện, ý tưởng được tác giả sử dung trong luận án là xuất phát từ tài liệu tham khảo số 1 theo thứ tự của danh mục tài liệu tham khảo từ trang 184 đến 211, trong luận án này (1) Ký hiệu này là phần chú thích riêng của tác giả để tại Phần Chú Thích từ trang 214 đến trang 226 (Hình 1.1) Xem hình 1.1 ở Phần Hình Ảnh từ trang 227 đến 279 trong luận án này. 8 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay. Quần đảo này có tầm quan trọng đặc biệt về mặt chiến lược (nằm trên thủy đạo và đường bay quốc tế) cũng như có tiềm năng quan trọng về kinh tế (dầu khí, các sản vật khác) và hiện đang bị xâm phạm bởi nhiều nước như Trung Quốc (bao gồm Đài Loan), Philippines, MaLaysia, Brunei khiến trở thành điểm nóng chính trị của khu vực. Nghiên cứu đề tài này không những là do nhu cầu của giới nghiên cứu khoa học mà còn đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đối với quốc dân cũng như các nhà lãnh đạo, nhất là cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài ra, bản thân người nghiên cứu vốn quan tâm đến vấn đề này từ hơn 25 năm nay, muốn có cơ hội để hệ thống hoa, tổng hợp tất cả các tài liệu và tìm hiểu đầy đủ, thấu đáo việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Công trình nghiên cứu nhằm mục đích : 1. Cung cấp tư liệu một cách tổng hợp, hệ thống và cặn kẽ về quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ đó rút ra những luận điểm vững chắc minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 2 Cũng từ đó, giúp cho việc phản bác những luận điểm biện minh cho sự xâm phạm của các nước ngoài đối với chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hầu thấy được thực chất của tình trạng xâm phạm chủ quyền để xây dựng các đối sách lâu dài bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 3. Góp phần xây dựng nhận thức rõ ràng về trách nhiệm tranh đấu giành lại chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của nhà nước và nhân dân Việt Nam. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ • Trước năm 1975. 9 Trước năm 1909, chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bị Trung Quốc và các nước khác xâm phạm. Năm 1907 là năm xảy ra việc người Nhật chiếm đảo Pratas. Trung Quốc đã phản đối sự chiếm đảo Pratas này của người Nhật cho rằng đảo vô chủ. Để ngăn chặn sự bành trướng của Nhật xuống phía Nam và tránh xảy ra sự kiện "Pratas thứ 2", Trung Quốc đã đặt tên một loạt các đảo ở Biển Nam Hải trong đó có Tây Sa và Nam Sa mà Trung Quốc cho là đảo vô chủ. Lúc này, Nam Sa chưa xuống dưới vị trí của Trường Sa của Việt Nam mà chỉ ở vị trí Trung Sa. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã thấy xuất hiện những thư tịch cổ Việt Nam đề cập chung chung đến Hoàng Sa. Xưa nhất, ít ra vào cuối thế kỷ XVII như tập bản đồ "Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư"hay Toản Tập An Nam Lộ của Đỗ Bá Công Đạo [23], [191], có vẽ và ghi chú về "bãi Cát Vàng" tức Hoàng Sa, tiếp đó là Phủ Biên Tạp Lục [28], [192] của Lê Quí Đôn, mô tả chi tiết về các hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sang đến thời nhà Nguyễn, từ triều Gia Long, cả một hệ thống biên niên sử và địa dư chí của Quốc Sử Quán, sách hội điển, châu bản của Nội Các triều đình nhà Nguyễn đã ghi chép những hoạt động của đội Hoàng Sa một cách rất kỹ và rõ ràng thể hiện sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Trong đó có bộ chính sử Đại Nam Thực Lục Tiền Biên [96]. [195], Chính Biên [97], [98], [99] , [100], [loi] ,[102], [199], [200], [203], [204], [205], [206] cũng như Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu [104], [210] và bộ địa chí như Đại Nam Nhất Thống Chí [103], [209], Hoàng Việt Địa Dư Chí [135], [194]. Đặc biệt Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Minh Mạng) [93], [201], Châu Bản Triều Nguyễn (triều Minh Mạng & Thiệu Trị) [5], [6], [7], [8], [9], [196], [197], [198] đã đề cập đến việc dựng bia chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bằng chứng hùng hồn Hoàng Sa được vua và triều đình Việt Nam quan tâm và bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa ở bậc quyền lực tối cao (điều này khác hẳn với Trung Quốc cũng như các nước khác không hề có chứng tích xác lập và bảo vệ chủ quyền trong suốt các triều đại phong kiến). Ngoài nhà nước Việt Nam, các nhà nghiên cứu nước ta cũng đã quan tâm, ghi chép các hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải như Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục, Phan Huy Chú trong Dư Địa Chí (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí), Nguyễn Thông trong sách Việt Sử Cương Giám Khảo Lược (quyển 4, năm 1877)..., [207] 10 Cũng trong thời gian chưa có sự xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa, nhiều tác giả trong đó có cả người Trung Quốc và các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng đã đề cập đến Hoàng Sa hoặc đến việc xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa của các nhà cầm quyền Việt Nam như Giám Mục Taberd [185], [186] Gutzlaff [157], quan trọng là những người Pháp từng hoạt động giúp Nguyễn Anh tức Vua Gia Long như Dayot, Chaigneau đã xác định Vua Gia Long đã tái xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Ngoài công việc vẽ bản đồ hàng hải trong đó tại Biển Đông có dải đảo Hoàng Sa (Paracels) chạy dài suốt dọc ngoài khơi biển Champa hay Cochinchine, những bút ký, thư từ của người Tây Phương (Bồ, Hoa Lan, Pháp, Anh) về hải trình, các vụ đắm tàu đều được ngư dân và quân lính Đàng Trong đem về đất liền giải quyết. Sau năm 1909, tổng đốc Quảng Đông bắt đầu có ý định xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, cho rằng Hoàng Sa chưa thuộc về nước nào (sic!). Lúc này, Việt Nam đang còn bị ách đô hộ của đế quốc Pháp, bắt đầu mới có nhiều người thực sự quan tâm nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, song mới chỉ là những bài báo. Rộ lên nhát là cuối thập niên 20 đầu thập niên 30. Tiêu biểu là Lapicque viết trong Revue Indochinoise số 38, 1929 [166] sưu tầm một số tài liệu xác định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa và trưng bằng cớ chính quyền địa phương Trung Hoa nhân vụ những người Trung Quốc cướp trên tàu bị đắm Le Bellona năm 1895 và tàu Imazi Mâm năm 1896 đã từ chối chủ quyền, không trách nhiệm về việc cướp nói trên ở quần đảo Hoàng Sa vì cho rằng "Paracel" không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Sau đó hàng loạt những bài báo của Henri Cuchrousset đăng trên báo Eveil Eeonomique de rindochine từ năm 1929 đến 1931 [146 -152] đưa ra những bằng chứng chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, trách cứ chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền ở đảo Hoàng Sa, đến nỗi đã bị dự thẩm Barbet ra lệnh khám xét ban đêm để buộc nhà báo phải nộp cho toa các hồ sơ liên quan đến Hoàng Sa. Chính vì vậy đã có tác động, chính quyền Pháp, vào những năm sau đó đã tái xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) với những hành động cụ thể như khảo sát, cắm cọc, thiết lập hải đăng, đài khí tượng và trại lính (vào những năm đầu thập niên 30). Trong những năm này có nhiều công trình nghiên cứu địa lý Hoàng Sa. 11 Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai và chiến tranh kháng chiến chống Pháp, ít ai quan tâm nghiên cứu đến Hoàng Sa. Sau năm 1954, theo hiệp định Genève, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về chính quyền Sàigòn kiểm soát. Năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Việt Nam, Philippines lên tiếng đòi chủ quyền của mình ở quần đảo Trường Sa. Năm 1956, Cộng Hoa Nhân Dân Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó Đài Loan chiếm đảo Im Aba, vấn đề tranh chấp chủ quyền được đặt ra gay gắt, từ đó nhiều bài nghiên cứu đã được đăng báo. Nổi bật hơn cả là hai công trình nghiên cứu về chủ quyền của Hoàng Sa tương đối có hệ thống và dầy công sưu tầm. Đó là công trình ra đời vào năm 1971, L’affaire des iles Paracels et spratly devant le droit International. 298 trang đánh máy, luận án tiến sĩ đệ tam cấp của ông Lê Thành Khê, tại Institut International d'Etudes et de Recherches Diplomatiques [161]. Công trình này đi sâu về mặt công pháp quốc tế, chủ yếu theo luật pháp quốc tế của thế giới tư bản chủ nghĩa và những án lệ của toa án quốc tế La Haye. Tác giả trên chưa có điều kiện đi sâu vào những chứng liệu về lịch sử. Tiếp đó, năm 1972 xuất hiện công tành luận văn tốt nghiệp Ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (Sàigòn ) của Đinh Văn Cư với đề tài : "Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", dày 137 trang đánh máy [24]. Công trình trên dành hơn 1/4 nội dung nói về hoàn cảnh địa lý và trình bày diễn tiến sự tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia tại Hoàng Sa. Tới năm 1974, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, nhiều công trình đã được thực hiện trong năm này, trong đó có tập tư liệu bằng tiếng Pháp của Võ Long Tê với nhan đề " Les Archipels de Hoang Sa et de Truông Sa selon les Anciens Ouvrages Vietnamiens d'Histoire et de Geographie", in năm 1974 dày 201 trang [187]. Đây là bản dịch tiếng Pháp các đoạn trích những thư tịch cổ Việt Nam về Hoàng Sa. Tiếp đó "Hoàng Sa, lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoa", dày 96 trang của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi (chính quyền Sàigòn) [10] và sách Trắng của Bộ Ngoại Giao chính quyền Sàigòn vào năm 1975 [170]. Cũng vào năm 1975 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu vấn đề chủ quyền của Hoàng Sa là Tập San Sử Địa số 29 (1975), đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, 352 trang gồm nhiều tư liệu, hình ảnh, bản đồ ,đã được đánh giá cao. 12 • Sau năm 1975. Một số cơ quan như Ban Biên Giới Chính Phủ, Viện Nghiên Cứu về Trung Quốc, các trường đại học bắt đầu quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa, đặc biệt sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2 năm 1979. Tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố tài liệu "chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại công bố cuốn sách trắng "quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam". Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại công bố tài liệu: "Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế". Mẫn Khánh Dương Kỵ và Trần Xuân cầu viết bài "Từ Bãi Cát Vàng đến Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam" trong Sử Học số 2 (nhà xuất bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp) [79] đã đưa ra một vài thông tin mới, cách tiếp cận mời qua thực địa tại cù lao Ré. Cuốn "Hoàng Sa, quần đảo Việt Nam" 90 trang của Văn Trọng [134] là đúc kết cô đọng và chú trọng về phẩn tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thêm một số hình ảnh, như bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa chụp năm 1938, trên quần đảo Trường Sa chụp năm 1961. Gần đây có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia về Hoàng Sa, Trường Sa đang được tiến hành. Trong đó có đề tài như "Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học về Lịch sử Chủ Quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", mã số BĐHĐ 01 - 01 do PTS Nguyễn Quang Ngọc (ĐHTH Hà Nội) chủ trì đã báo cáo tổng kết ngày 30/4/1995 và Hội Thảo Quốc Gia "Luận cứ Khoa Học Lịch Sử, Địa Lý và Pháp Lý chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" tại Hà Nội ngày 18/1/1996 cùng một số kết quả được tiếp tục công bố trong những năm sau đó. Riêng bản Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học trên, bước đầu đã có những đóng góp đáng kể về bản đồ cổ Việt Nam do Trần Bá Chí phụ trách tìm ra được 22 sách cổ có bản đồ vẽ Hoàng Sa và Trường Sa. về thư tịch cổ Việt Nam do Phạm Kim Hùng, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Hữu Thành phụ trách, ngoài kiểm tra, đối chiếu với nguyên bản 25 cuốn sách chữ Hán đã được dịch, còn phát hiện thêm một số thông tin mới ở Đại Nam Thực Lục và còn tìm thêm 15 cuốn sách như Địa Dư Toát Yếu, Nam Việt Địa Dư Chí, Cao Chu Thần Di Cảo, Chu 13 Nguyên Tập . Vựng Khảo, Mân Hành Thi Thảo, Việt Hành Ngân Thảo, Đông Hành Thi Thuyết, Quảng Thuận Đạo Sử Tập, Trung Kỳ Dư Địa Lược Sao, Hải Trình Chí Lược ... Tuy các sách ữên không trực tiếp đề cập đến vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa , song các sách đó đã đề cập đến Hoàng Sa , cũng đã phản ảnh sự hiểu biết và quan tâm của người Việt xưa đối với Hoàng Sa. về tư liệu Châu Bản do Võ Văn Sạch, Vũ Vãi: Quân phụ trách đã phát hiện được một số tư liệu rất Qúi về bằng chứng rõ ràng quá trình thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa trong hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị. về tư liệu Phương Tây do PTS Nguyễn Thừa Hỷ phụ trách đã cố những phát hiện đáng kể trong đó có vụ Dayot giúp xây dựng hải quân và vẽ lại bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh hay một thương nhân Bồ Đào Nha dâng bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh. Ngoài ra cuộc khảo sát thực địa ở Cù Lao Ré do PTS Nguyễn Quang Ngọc, PTS Vũ Vãn Quân thực hiện đã phát hiện các nguồn tư liệu ở dòng họ, làng xã có liên quan đến hoạt động của các đội Hoàng Sa qua các thời kỳ Chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn dưới triều Nguyễn. Trong Hội Thảo Quốc gia 18/1/1996 trên, gồm 15 bản báo cáo đóng góp đáng kể về việc nghiên cứu lịch sử tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc cũng như tư liệu về phía Trung Quốc, từ tìm hiểu hệ thống bản đồ của Trung Quốc của Nguyễn Quang Ngọc để chứng minh cho đến 1909 bản đồ Trung Quốc chưa bao giờ vẽ đến Hoàng Sa đến quan điểm của Trung Quốc về Hoàng Sa - Trường Sa của Hoàng Ngọc Bảo, quan điểm của Đài Loan về Hoàng Sa - Trường Sa của Nguyễn Huy Quy hay tìm hiểu về bộ sưu tập tư liệu Hoàng Sa của Hàn Chân Hoa (Trung Quốc) chủ biên do Phạm Kim Hùng phụ trách. Ngoài ra vấn đề pháp luật quốc tế về thủ đắc lãnh thổ của Nguyễn Đăng Dũng hoặc án lệ đảo Clipperton của Đinh Ngọc Linh hoặc xây dựng hệ quản trị tư liệu Hoàng Sa -Trường Sa bằng máy tính của Nguyễn Quốc Toản. Một số công trình khác cũng được công bố như vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa trong quan hệ Việt Trung trong cuốn "Sự Thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt Trung" do nhà xuất bản Đà Nấng in năm 1996 hay có tác giả tổng hợp lại những tài liệu đã công bố in thành sách như ông Nguyễn Q. Thắng. Một số luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ có liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông như luận án cua PTS Trần Công Trục ở Việt Nam, của TS Nguyễn Hồng Thao ở Pháp (1996), của PTS Đỗ Hòa Bình ở Liên Xô cũng đã được bảo vệ, song chủ yếu về vấn đề pháp lý của Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông. 14 Ngoài ra còn có một số bài báo của nhiều tác giả đăng trên báo Nhân Dân, Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự, Tạp Chí Hán Nôm, Tạp Chí Xưa và Nay... Như thế, các nhà nghiên cứu Việt Nam thật sự đã quan tâm và càng ngày càng đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Hoàng Sa và Trường Sa. Các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng ngày càng quan tâm hơn về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Pierre Bernard LaFont viết phần "Les Archipels Paracels et Spratley trong cuốn Confit de frontières en mer de Chine Méridionale, xuất bản năm 1989 [165]. Đặc biệt cuốn "La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratley" của bà M.c. Gendreau [155], chủ tịch Hội Luật Gia Châu Âu là một công trình khoa học có quan điểm khách quan cho rằng Việt Nam là nước có đủ danh nghĩa thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên mạng internet tháng 12-1999 cũng có hơn 900 tài liệu nói đến Paracels và spratley (hiện nay có 970 tài liệu). 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN ĐỀ TÀI. Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đi sâu nghiên cứu những tư liệu minh chứng và những hoạt động cùng những lời khẳng định của nhà nước Việt Nam về việc xác lập, chiếm hữu, bảo vệ chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong quá trình lịch sử khi chưa có sự xâm phạm của nước ngoài và trong thời kỳ bị xâm phạm chủ quyền. Qua đó trình bày những luận điểm, luận cứ, luận chứng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa . Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quá trình xác láp chủ quyền Viêt Nam về mặt lích sử trong thời kỳ chưa cổ xâm phàm của các nước ngoài và khi đề cập đến sự xâm phạm của các nước ngoài trong bối cảnh sự xâm phàm chủ quyền Viêt Nam của Trung Quốc là chủ yếu và đưa ra những luân điểm phản bác đối với những biên minh xâm phàm chủ quyền Viêt Nam của Trung Quốc vì chỉ cổ nước này mới thực sư quan tâm đến các luân điểm về lịch sử. Từ đó đưa ra những đối sách lâu dài về viêc bảo vê chủ quyền của Viêt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 15 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC NGUỒN TÀI LIỆU SỬ DỤNG Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp nghiên cứu lịch sử theo quan điểm duy vật lịch sử. Người nghiên cứu vận dụng phương pháp luận lịch sử và phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể cùng phương pháp lôgích. Công tác sưu tầm sử liệu được đặt lên hàng đầu, làm thế nào sưu tầm đầy đủ, phát hiện những tư liệu mới, tiếp cận đến các tài liệu gốc, tài liệu bậc một. Tác giả trước hết dựa vào các sách về thư tịch, những tài liệu tham khảo của các công trình nghiên cứu đã có trước, các tổng mục sách báo, sách dẫn. Tác giả còn đọc trực tiếp từng trang những tài liệu có khả năng đề cập đến Hoàng Sa vàTrường Sa. Về các nguồn tài liệu được sử dụng, luận án quan tâm đến các nguồn tư liệu sốc, sử liệu bậc một, từ nguồn sử liệu chữ Hán của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. Luận án phối kiểm các bản dịch khác nhau, kiểm tra các nguyên bản, xử lý thích đáng đối với các dị bản (phần iớn đã được kèm theo ở phần phụ lục). Tài liệu bằng chữ Hán của Việt Nam rất phong phú, trong đó có phần đã được tác giả sưu tầm và có nhiều chuyên viên chữ Hán phiên âm và dịch thuật vào năm 1975, khi tác giả chủ biên Tập San Sử Địa số 29 đặc khảo về Hoàng Sa, cũng như khi viết bài « Những sử liệu chữ Hán minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua nhiều thế kỷ » dưới bút hiệu Hãn Nguyên. Sau năm 1975, được bổ sung từ nguồn tư liệu châu bản rất có giá trị trong thời Minh Mạng và Thiệu Trị của Viện Hán Nôm Hà Nội, cũng như nguồn tư liệu chữ Hán do công sưu tầm của chuyên gia hán học đặc biệt về tài liệu của Trung Quốc như Phạm Kim Hùng hoặc của nhà sử học Tôn Thất Dương Kỵ Nguyễn Quang Ngọc và Vũ Văn Quân đi nghiên cứu điền dã tại Sa Kỳ - Cù Lao Ré (huyện đảo Lý Sơn) hoặc các tài liệu của Ban Biên Giới Chính Phủ, Bộ Ngoại Giao. Các nguồn tư liệu phương Tây đã được phổ biến trên sách báo cũng được tác giả sưu tầm, phối kiểm từ nguyên bản, chứ không chỉ qua các bài dịch hay đã được ghi chép lại trong các công trình nghiên cứu trung gian (có kèm ví dụ bản « photocopy » nguyên bản tư liệu ở phần phụ lục). Công tác khảo chứng, xử lý, đánh giá tư liệu cũng được đặc biệt quan tâm. Người nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp liên ngành như nghiên cứu địa lý, khảo cổ học, dân tộc học và luật học. Cuối cùng là tổng hợp lịch sử. 16 5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. Luận án gồm 3 phần : - Phần mở đầu gồm 6 mục. - Phần kết quả nghiên cứu gồm 3 chương. - Phần kết luận. sau cùng là danh mục công trình của tác giả, tài liệu tham khảo, chú thích, hình ảnh và phụ lục (xem mục lục). 6. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN. Luận án là công trình tổng hợp, có hệ thống, có tính đúc kết một cách mới mẻ những công trình nghiên cứu, những tư liệu đã được phát hiện từ trước đến nay, vừa đầy đủ nhất, với một số tư liệu mới và những luận cứ, luận chứng xác đáng góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Với những kinh nghiệm tập hợp trên Qúi mô lớn những tư liệu trong và ngoài nước hồi biên tập Tập San Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, người nghiên cứu đã nỗ lực, có những khám phá mới về mát tư liêu chứa cổ ai để cáp tới như tài liêu của chính người Trung Quốc. Thích Đại Sán trong Hái Ngoại Kỹ Sư [116] đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Van Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hoặc phát hiện thêm đoạn văn thứ 2 rất dài viết về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa ở thời Vua Minh Mạng trong cuốn sách rất quan trọng có tính cách luật lệ của triều Nguyễn. Đó là Khâm Đỉnh Đai Nam Hôi Điển Sự Lê. cùng tài liệu vẽ sơ đồ các thuyền buồm đóng theo truyền thống ở Cù Lao Ré được sử dụng đi biển, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa còn lưu giữ trong dân gian tại thôn Đông, xã Lý Hải, Huyện Đảo Lý Sơn tức Cù Lao Ré khi xưa, do ông Nguyễn Hạp vẽ [38]. Luận án cũng đã trình bày việc Việt Nam quản hạt từ đầu thế kỷ XVII quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Quảng Ngãi khi là phủ, trấn, tỉnh trong thời kỳ chưa bị các nước ngoài xâm phạm. Sau đó thuộc quản hạt của tỉnh Thừa Thiên rồi hiện thuộc Đà Nang đối với Hoàng Sa và Bà Rịa Vũng Tàu, rồi Phú Khánh , Khánh Hoa đối với Trường Sa. Cũng trong thời kỳ chưa có sự xâm phạm của nước ngoài, vua, triều đình Việt Nam (thời Minh Mạng) đã tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc cương vực hiểm yếu của Việt Nam. Luận án cũng đi 17 sâu, trình bày một cách hệ thống những hoạt động mang tính nhà nước, xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của đội Hoàng Sa (địa bàn ra đời, thời gian hoạt động, nhiệm vụ, tổ chức và nội dung hoạt động khoảng 17 trang), cũng như đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa trong khu vực phía Nam của Biển Đông tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận (Côn Đảo, Hà Tiên). Luận án cũng đi sâu vào các hoạt động mang tính nhà nước rất cao là thủy quân suốt thời Nhà Nguyễn bắt đầu năm 1816, trở thành lệ hàng năm thời Minh Mạng thứ 17 (1836), với những hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền xây dựng chùa miếu, trồng cây tại Hoàng Sa và Trường Sa. Từ năm 1909, Hoàng Sa bắt đầu bị Trung Quốc và sau đó bị các nước khác xâm phạm chủ quyền, luận án trình bày các chính quyền ở Việt Nam có nhiệm vụ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của mình và luôn luôn củng cố, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả còn phân tích về giá trị pháp lý của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Tác giả đưa ra luận điểm, luận cứ và luận chứng về sự chiếm hữu thật sự, hòa bình và thực thi chủ quyền mót cách liên túc, tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả phản bác lại những luận điểm sai trái biện minh cho sự xâm phạm của nước ngoài như của Trung Quốc về sự phát hiện sớm nhất, kinh doanh sớm nhất, quản hạt sớm nhất hoặc luận điểm vô chủ và địa lý kế cận của các nước khác ở Đông Nam Á. Tác giả cũng gián tiếp phản bác lại những phản bác của Trung Quốc về tư liệu Việt Nam hay các luận điểm của chính quyền Việt Nam. 18 CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA . 1.1 .TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA. Trước đây trong một thời gian dài, người Việt và người Phương Tây đều tưởng ở giữa Biển Đông chỉ có một quần đảo dài, đều gọi một tên chung, rất nhất quán. Người Việt gọi là Bãi Cát Vàng ( gọi là Đại Trường Sa ( ) hay cồn Vàng hoặc Hoàng Sa ( ) hay Vạn Lý Trường Sa( ). Hoặc có khi ). Bãi Cát (Kát) Vàng hay cồn Vàng là gốc từ chữ Nôm, Hoàng Sa gốc từ chữ Hán, đều đồng nghĩa ( Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại = Lớn; Vạn Lý = Vạn Dặm; Bãi là chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông , biển; cồn là gò đống nổi lên ở giữa sông hay biển). Danh xưng từ chữ nôm"Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian, được dân gian đặt tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán "Hoàng Sa" được giới nho sĩ dịch và viết ra về sau. Người Bồ Đào Nha, Hòa Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel (tiếng Bồ Đào Nha, Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; xem Eduardo Pinheiro, Dictionário Da Língua Portuguesa, Porto, Tipografia Sequeira, L.DA, 1948, tr.1042) vào đầu thế kỷ XVI; khi ấy người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là Trường Sa; trên bản. đồ thường ghi "ì de Pracell"như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590).,bản đồVan Langren (1595)... Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ hàng hải. Mãi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou Locmaria xác định rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay, người Phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phiá Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 tròm; thế kỷ XX người Pháp mới gọi là spratly(l.l) chỉ chung cho quần đảo Trường Sa . Còn đối với người Việt, từ đầu thế kỷ XVIII đã kiểm soát vùng Biển Đông tới tận Hà Tiên, như Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục đã cho biết Đội Bắc Hải trực thuộc Đội Hoàng 19 Sa đã phụ trách riêng các đảo phía Nam của Bắc Hải và tới tận Côn Lon, Hà Tiên. Tuy sang thế kỷ XIX, đã thấy địa danh Vạn Lý Trường Sa ở phía Nam ghi cùng với Hoàng Sa ở phía Bắc trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, song vẫn chưa phân biệt thật rõ rệt mà vẫn chỉ chung một quần thể. Ngay thời Ngô Đình Diệm năm 1956 cũng thể hiện khái niệm "hai quần đảo là một" khi trong văn bản ghi Hoàng Sa chỉ cả hai quần đảo Paracel và Spratley. Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh xưng quần đảo tên Việt và ten Phương Tây, khi Giám Mục Taberd ghi rất rõ ràng ở bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ với hàng chữ: Paracel seu Cát Vàng . (Tiếng Latinh seu = hoặc là). Cũng chính Giám mục Taberd đã viết Paracels được người Việt gọi là Cát Vàng trong cuốn Univers, Histoire et Description de Tous Les Peuples, de Leurs Religions, Moeurs et Coutumes (1833). Điều này không hề có ở Trung Quốc cũng như bất cứ nước nào khác. Chỉ ở Việt Nam mới chắc chắn Cát Vàng hay Hoàng Sa chính là Paracel do Phương Tây đặt tên.Chính điều này là bằng chứng rất rõ ràng người Phương Tây ít ra từ đầu thế kỷ XIX đã xác nhận Paracel chính là Cát ( Kát) Vàng tức Hoàng Sa của Việt Nam. Thật khác với người Phương Táy hay Trung Quốc, tên gọi được đặt hai quần đảo này chỉ thuần túy do nhu cầu hàng hải,tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt do việc xác lập chủ quyền ở hai quần đảo này, bởi đồng thời "Hoàng Sa "dùng để chỉ tên một tổ chức do nhà nước thành lập khai thác, kiểm soát, làm chủ các hải đảo mang tên" Hoàng Sa". Như thế bản thân tên gọi "Hoàng Sa "là bằng chứng cho sự xác lập cũng như thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa nằm trong Biển Đông. Đã từ lâu, người Việt đã nói đến Biển Đông trong ca dao tục ngữ: "Thuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn" hay "Dã tràng xe cát Biển Đông". Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng thời kỳ lịch sử người Trung Hoa đã tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ ( Giao Chỉ Dương). Ngoài ra, ven tỉnh Quảng Đông, người Trung Hoa còn gọi là Việt Hải,Việt Dương. Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa (Ciampa), hay biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta thường gọi biên kê cận An Độ là An Độ Dương. Song chang bao giờ An Độ Dương là của Ân Độ cũng như Biển Trung Hoa là của Trung Hoa cả. Đúng ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam, 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất