Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp giảng dạy thơ mới từ góc độ thi pháp luận văn ths. giáo dục học...

Tài liệu Phương pháp giảng dạy thơ mới từ góc độ thi pháp luận văn ths. giáo dục học

.PDF
95
29046
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ LƢỢM PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY THƠ MỚI TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ LƢỢM PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY THƠ MỚI TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN NGỮ VĂN Mã số: 601410 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Khánh Thành HÀ NỘI - 2010 2 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS. TS Trần Khánh Thành, người thầy đáng kính đã tận tình hướng dẫn , giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Để hoàn thành luận văn này, em còn nhận được sự động viên, quan tâm rất lớn của gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp. Một lần nữa em xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất! Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2010 Tác giả Nguyễn Thị Lƣợm 3 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU GV: Giáo viên KHXHNV: Khoa học xã hội nhân văn HMT: Hàn Mặc Tử HS: Học sinh PPDH: Phƣơng pháp dạy học XD: Xuân Diệu TPVH: Tác phẩm văn học TP: Tác phẩm THPT: Trung học phổ thông SGK: Sách giáo khoa 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 7 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 7 2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 8 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 9 3.1. Mục đích ................................................................................................... 9 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu ....................................................................................... 9 3.3. Phạm vi khảo sát ............................................................................................... 9 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 9 5. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 10 6. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 10 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................ 10 Chƣơng 1: THƠ MỚI VÀ HƢỚNG TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC ... 11 1.1. Thơ mới – cuộc cách mạng trong thơ ca Việt Nam ........................................... 11 1.2. Hƣớng tiếp cận Thơ mới từ góc độ thi pháp .................................................... 20 1.2.1. Thi pháp và thi pháp học ................................................................ 20 1.2.2. Các chỉnh thể văn học và các phạm trù thi pháp học ......................... 21 1.2.3. Tiếp cận Thơ mới từ góc độ thi pháp ............................................... 24 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ MỚI TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI MỚI TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC .................................................................................34 2.1. Vị trí của Thơ mới trong chƣơng trình dạy học văn ở nhà trƣờng phổ thông hiện nay.............................................................................................34 2.2. Tài liệu hƣớng dẫn về giảng dạy Thơ mới cho giáo viên trong các nhà trƣờng phổ thông...................................................................................................................36 2.3. Thực trạng dạy văn của giáo viên ở các nhà trƣờng phổ thông hiện nay..........38 2.4. Định hƣớng đổi mới........................................................................................ 40 2.4.1. Tìm hiểu thi pháp thể loại không tách rời với việc tiếp cận đồng bộ tác phẩm 5 văn chƣơng trong nhà trƣờng ................................................................................. 44 2.4.2. Tìm hiểu thi pháp thể loại là cơ sở để phát hiện nét độc đáo của thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả ............................................................................................ 45 2.4.3. Vận dụng thi pháp thể loại vào dạy học tác phẩm văn chƣơng gắn liền với lý luận dạy học hiện đại ............................................................................................. 47 Chƣơng 3: TỪ HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP ĐỔI MỚI QUÁ TRÌNH DẠY VÀ HỌC THƠ MỚI .................................................................................................... 50 3.1. Đổi mới trình tự phân tích tác phẩm................................................................ 50 3.1.1. Về trình tự chung khi phân tích tác phẩm ..................................................... 50 3.1.2. Các bƣớc phân tích tác phẩm thơ ................................................................. 51 3.2. Quy trình dạy học thơ theo hƣớng tiếp cận thi pháp ........................................ 55 3.3. Yêu cầu kiến thức hỗ trợ ................................................................................ 62 3.4. Thiết kế một số bài giảng về thơ mới bằng Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp học ........................................................................................................... 66 3.4.1. Yêu cầu về thể nghiệm................................................................................. 66 3.4.2. Mục đích thể nghiệm ................................................................................... 66 3.4.3. Nội dung thể nghiệm................................................................................... 66 3.4.4. Nơi thể nghiệm ............................................................................................ 66 3.4.5. Thiết kế thể nghiệm ..................................................................................... 66 3.4.5.1. Bài 1 : Đây thôn Vĩ Dạ .............................................................................. 66 3.4.5.2. Bài 2: Vội vàng ........................................................................................ 76 3.4.6. Tổ chức dạy thực nghiệm ............................................................................. 88 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 92 NGUỒN TƢ LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 95 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thơ mới 1932-1945 là một phong trào rộng lớn trên bƣớc đƣờng hiện đại hoá thơ ca dân tộc. Thơ mới đã mở ra bƣớc phát triển mới của thơ dân tộc về tƣ duy thơ, thi pháp thơ, thể loại và ngôn ngữ thơ theo hƣớng hiện đại hóa. Hoài Thanh - Hoài Chân khi viết Thi nhân Việt Nam đã tổng kết lại một cả trào lƣu của một giai đoạn sống động nhất trong văn học Việt Nam hiện đại - giai đoạn của những định hƣớng, tìm tòi, cách tân. Thơ mới là một cuộc cách cách mạng về thi ca, mở đầu là ngày 10 Mars 1932, ngày ông Phan Khôi viết bài cổ vũ cho lối thơ mà ông mệnh danh là Thơ mới. Phong trào Thơ mới đã kết thúc thắng lợi với bài tựa tập thơ cũ Mùa cổ điển của Chế Lan Viên trong đó có những lời lẽ nhƣ là khúc ca khải hoàn. Thơ mới (1932-1945) có rất nhiều thành tựu, đó là một cuộc cách mạng về thơ ca Việt Nam thể hiện sự đổi mới căn bản về thi pháp, từ thi pháp thơ trung đại đến thi pháp thơ hiện đại. Có nhân vật trữ tình là cái tôi bản ngã của nhà thơ, có một không gian nghệ thuật, một thời gian nghệ thuật ở trong Thơ mới đƣợc miêu tả và biểu hiện đạt đến mức hết sức tinh tế, sống động mà thơ cũ không có đƣợc. Chỉ hơn mƣời năm hình thành và phát triển, phong trào Thơ mới đã có những đóng góp quan trọng, làm thay đổi toàn bộ thi pháp thơ trữ tình tiếng Việt, đƣa lại cho nền thơ ca nƣớc nhà một sức sống mới, mở ra một thời đại trong thi ca. Tuy còn có những hạn chế nhất định, song Thơ mới vẫn nằm trong văn mạch văn học dân tộc, kế thừa và phát triển tinh hoa thơ ca dân tộc. Những đóng góp của phong trào Thơ mới là không thể phủ nhận. Thơ mới ra đời đã tạo nên sự đổi mới về thi pháp thơ, từ quan niệm về con ngƣời đến thời gian, không gian nghệ thuật, từ cảm xúc đến giọng điệu, từ ngôn ngữ đến thể loại. Thơ mới đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy ở phổ thông từ năm 1988 đến nay và chiếm một dung lƣợng khá lớn trong chƣơng trình. Khi giảng dạy về Thơ mới, đôi khi giáo viên không tránh khỏi những lúng túng khi cắt nghĩa về nội dung và tƣ tƣởng nghệ thuật của tác phẩm. Việc nghiên cứu thi pháp Thơ mới là hết 7 sức cần thiết trong việc giảng dạy ở các bậc học phổ thông và đại học bởi lẽ: nó góp phần giải quyết nhu cầu đổi mới nội dung, phƣơng pháp nghiên cứu, phê bình do thời đại, khắc phục lối bình tán chủ quan, xu hƣớng nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn học theo quan niệm xã hội học, lối bình tán thoát ly khỏi tác phẩm. Thi pháp học xác lập đƣợc nhiệm vụ trung tâm đó là xác lập cái nhìn biện chứng giữa nội dung và hình thức nghệ thuật, trong đó cái nhìn bắt đầu từ hình thức, nghiên cứu hình thức văn học trong sự thống nhất với nội dung. Thi pháp học dễ dàng đi sâu nghiên cứu cấu trúc của hình thức văn học, cấu trúc thế giới nghệ thuật nhà thơ. Với ý nghĩa đó, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu về Phương pháp giảng dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp là hết sức cần thiết, có ý nghĩa về lý luận, phƣơng pháp và lịch sử văn học. Nghiên cứu về đề tài này sẽ giúp tôi có thêm kiến thức về thi pháp Thơ mới, phƣơng pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp học cũng nhƣ nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn dƣới góc độ nghiên cứu khoa học. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu về Thơ mới, đặc biệt vấn đề thi pháp thơ đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chú ý đề cập, tiêu biểu là các tác phẩm nhƣ: Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân (1942), Phong trào Thơ mới (1966) của Phan Cự Đệ , Việt Nam thi nhân tiền chiến (1969) của Nguyễn Tấn Long, Thơ mới, những bước thăng trầm (1989) của Lê Đình Kỵ, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca (1993) của nhiều tác giả, Thơ mới, bình minh thơ Việt Nam hiện đại (1994) của Nguyễn Quốc Tuý, Một thời đại trong thơ ca của Hà Minh Đức (1997). Đặc biệt là công trình Những thế giới nghệ thuật thơ (1995) của Trần Đình Sử đã khảo sát khá công phu về đặc điểm của các loại hình thơ xuất hiện trong lịch sử văn học. Đã có nhiều luận văn về Thơ mới và thi pháp Thơ mới, chúng tôi sẽ nghiên cứu những công trình đó để tổng kết những thành tựu về thi pháp Thơ mới, trên cơ sở đó thấy đƣợc quan điểm của những ngƣời đi trƣớc và tìm ra hƣớng đi cho riêng mình. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã làm sáng tỏ nhiều đặc điểm về Thơ mới về cả nội dung và hình thức, cũng có đề cập đến vấn đề thi pháp Thơ mới 8 hay định nghĩa khái quát về phong trào Thơ mới. Nhƣng thi pháp Thơ mới nói chung, phƣơng pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp học nói riêng là một phạm trù rất rộng, không phải của riêng một tác phẩm nào, mà phải đặt nó trong cả một hệ thống, phong trào của một giai đoạn văn học. Đến nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách thật hệ thống và đầy đủ về Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp. Mặt khác đời sống văn học hiện nay có nhiều khía cạnh để khám phá, khai thác cho nên vấn đề Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp vẫn còn nhiều điều để ngỏ, vì vậy chúng tôi có điều kiện đi sâu vào nghiên cứu và hệ thống lại một vấn đề thuộc phạm trù thi pháp trên một quy mô lớn hơn và theo một góc nhìn mới hơn. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Xác định Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp là một khái niệm mới trong việc đổi mới phƣơng pháp dạy học, luận văn sẽ đề xuất nghiên cứu về thực trạng giảng dạy, thành tựu nghiên cứu Thơ mới từ góc độ thi pháp học để từ đó đề xuất phƣơng pháp giảng dạy phù hợp nhất đối với những tác phẩm Thơ mới trong nhà trƣờng phổ thông, tạo điều kiện để đổi mới phƣơng pháp giảng dạy Thơ mới, góp phần đổi mới phƣơng pháp giảng dạy thơ. Từ các giáo án thể nghiệm về Thơ mới, luận văn đề xuất Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp. Nghiên cứu vấn đề này không thể tách rời giữa việc nghiên cứu thi pháp Thơ mới với nghiên cứu về phƣơng pháp giảng dạy Thơ mới gắn với vấn đề thi pháp thể loại và thi pháp trào lƣu. 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu thi pháp của Thơ mới và phƣơng pháp giảng dạy thơ, có đối chiếu, so sánh với một số phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. 3.3. Phạm vi khảo sát Trong phạm vi một luận văn cao học, chúng tôi chỉ có thể khảo sát, phân tích một số tác phẩm Thơ mới tiêu biểu, đặc biệt là những tác phẩm Thơ mới đang đƣợc giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thông, những công trình viết về Thơ mới và phƣơng pháp giảng dạy Thơ mới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 9 Để giải quyết đƣợc nhiệm vụ của đề tài này, luận văn kết hợp vận dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp hệ thống. 5. Đóng góp của luận văn Đây là công trình tập trung nghiên cứu Phương pháp dạy Thơ mới từ góc độ thi pháp một cách hệ thống, toàn diện. Đặc biệt luận văn này sẽ góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, phân tích thơ trữ tình một cách hiệu quả dƣới góc độ thi pháp học, giúp giáo viên cải tiến phƣơng pháp giảng dạy thơ một cách khoa học, hiệu quả. 6. Cấu trúc luận văn Tƣơng ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung luận văn đƣợc triển khai trong 3 chƣơng: Chương 1: Thơ mới và hƣớng tiếp cận từ góc độ thi pháp học Chương 2: Thực trạng giảng dạy Thơ mới trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay và định hƣớng đổi mới thông qua vận dụng phƣơng pháp thi pháp học. Chương 3: Từ hƣớng tiếp cận thi pháp đổi mới quá trình dạy và học Thơ mới. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Sau cùng là phần Tài liệu tham khảo. 10 Chƣơng 1: THƠ MỚI VÀ HƢỚNG TIẾP CẬN THƠ MỚI TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC 1.1 Thơ mới – cuộc cách mạng trong thơ ca Việt Nam Thơ mới là một hiện tƣợng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với những thi nhân: Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lƣu Trọng Lƣ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v...Đồng thời, Thơ mới là một hiện tƣợng thơ ca luôn thu hút sự quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu và độc giả. Cho đến bây giờ việc đánh giá Thơ mới vẫn còn đặt ra rất sôi nổi. Thơ mới là gì? Chính Phan Khôi, ngƣời đề xƣớng ra nó, cũng chƣa biết gọi tên là gì, chỉ giới thiệu sơ lƣợc trên Phụ nữ Tân văn số 122, 1932, nhƣ sau:"...Tôi sắp toan bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chƣa thành thục nên chƣa có thể đặt tên là lối gì đƣợc, song có thể cứ cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: đem ý có thật trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi niêm luật gì hết". Theo ý tác giả thì Thơ mới là thơ tự do. Mƣời năm sau, khi Thơ mới tƣơng đối ổn định, chính lúc đó Hoài Thanh, Hoài Chân tổng kết phong trào lại cho rằng: "Không thể hiểu theo cách định nghĩa của ông Phan Khôi. Thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong Thơ mới. Phong trào Thơ mới trƣớc hết là một cuộc thí nghiệm táo bạo để định lại giá trị những khuôn phép xƣa".[ 51,tr.54] Trong cuộc thí nghiệm ấy "phong trào Thơ mới vứt đi nhiều khuôn phép xƣa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ bền vững... trong các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm nhƣ thơ tự do, thơ mƣời chữ, thơ mƣời hai chữ, hay sắp sửa tiêu trầm nhƣ những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp"[51, tr.55-56]. Các tác giả Thi nhân Việt Nam cũng đƣa ra kết quả của cuộc thí nghiệm đó trên các thể thơ truyền thống đƣợc vận dụng sáng tạo bởi các nhà Thơ mới để minh chứng cho phần nhận định của mình. Đi tìm thực chất của khái niệm về Thơ mới, các tác giả Thi nhân Việt Nam dừng lại ở chữ tôi và cho rằng đó là điều quan trọng- tinh thần của Thơ mới. Theo các ông "tinh thần thời xƣa - hay thơ cũ" nằm trong "chữ ta", "tinh thần thời nay hay Thơ mới nằm trong "chữ tôi" [51,tr.58], tức là ở nguồn cảm hứng của chủ nghĩa 11 cá nhân, chủ nghĩa lãng mạn đã trở thành linh hồn của Thơ mới thời bấy giờ. Các ông cũng thấy tinh thần thơ ấy “buồn xôn xao”[51, tr.60], vì thiếu một lòng tin đầy đủ. Quan niệm về Thơ mới nhƣ vậy là đúng đắn và có chừng mực tiếp cận đƣợc thực chất của vấn đề. Các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Dƣơng Quảng Hàm cũng không đi xa ngoài ý kiến của Hoài Thanh, Hoài Chân. Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, khái niệm Thơ mới đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đối sánh với thơ hiện đại. Thơ mới đã tạo ra cảm xúc thi ca chung cho cả thời đại, và những bài thơ đƣơng thời có giá trị đều đƣợc sáng tác với luồng cảm xúc mới ấy cho dù các đề tài mà các tác giả lựa chọn có thể rất khác nhau. Thơ mới đã tiếp tục sống, tiếp tục phát triển, nở nhiều hoa, kết nhiều trái qua các giai đoạn phát triển của thơ ca dân tộc. Phong trào Thơ mới là một hiện tƣợng lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ, nó đã đƣa thơ ca Việt Nam vào thời kỳ hiện đại, góp phần tạo nguồn và còn ảnh hƣởng đến thi ca hôm nay. Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao Thơ mới, gần nhƣ muốn đánh đồng Thơ mới với thơ Việt Nam hiện đại. Nhiều ý kiến muốn xác định phạm vi thời gian và không gian cụ thể của nó. Phổ biến nhất hiện nay là ý kiến cho rằng khởi điểm của Thơ mới là 1932 và kết thúc 1945. Ý kiến này căn cứ vào những hiện tƣợng văn học ra đời năm 1932, trong đó có Tự lực Văn đoàn và bài thơ Tình già của Phan Khôi, và sự kiện Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945. Cách xác định nhƣ vậy có sự thiếu nhất quán: mốc đầu thì lấy mốc văn học còn mốc cuối thì lấy mốc lịch sử. Tại sao lại thay đổi sự phân định trƣớc đây về giai đoạn văn học 1930 - 1945 trong đó có Thơ mới? Và gần đây có ý kiến cho rằng toàn bộ thơ hiện đại kể cả thơ hôm nay về cơ bản là sự lặp lại và nối tiếp Thơ mới. Một quan niệm nhƣ vậy đề cao quá mức và gán cho Thơ mới những giá trị mà vai trò lịch sử cụ thể của nó không thể có đƣợc. Đồng thời, ý kiến này vô tình hay hữu ý phủ nhận giá trị và vai trò lịch sử của thơ sau 1945, một nền thơ đã có sự đổi mới về thi hứng lẫn thi pháp. Nên quan niệm Thơ mới là một hiện tƣợng văn chƣơng có tính lịch sử, là một cuộc vận động đổi mới về văn chƣơng có phần lý thuyết và thực hành, có ngƣời khởi xƣớng về quan niệm và có nhà thơ sáng tác đi đến khẳng định thành tựu với 12 nhũng tác phẩm có giá trị trong một giai đoạn lịch sử văn học nhất định. Đó là giai đoạn văn học 1930 – 1945, có thể nói, Thơ mới đƣợc đóng khung trong giai đoạn 1930 - 1945. Trƣớc đó đã có mầm mống bắt đầu của Thơ mới. Đó là năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh với bài thơ dịch Con ve và con kiến (La Cigale et la Fourmi) lần đầu tiên xuất hiện trên Trung Bắc Tân Văn. Bài thơ không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu cho độc giả thấy khuôn khổ bài "thơ cũ" bắt đầu rạn nứt, báo hiệu mầm mống Thơ mới sau này. Còn về cảm hứng thì nhƣ Hoài Thanh, Hoài Chân nhận xét về thơ Tản Đà: "Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mƣơi năm trƣớc đã có một giọng phóng túng riêng...đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đƣơng sắp sửa"[51,tr.16]. Bƣớc vào thập niên 30, công cuộc khai thác thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam đã đẩy đến đỉnh cao hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa thực dân, chế độ thuộc địa đã hình thành rõ nét, các tầng lớp tiểu tƣ sản, tƣ sản thành thị đã phát triển đông đảo, cùng với sự phát triển đô thị và sự mở rộng quy mô của bộ máy thực dân. Một thế hệ thanh niên trí thức đƣợc đào tạo từ nhà trƣờng Pháp Việt đã có một cái vốn Pháp ngữ khá dồi dào, họ am hiểu văn hóa phƣơng Tây, đặc biệt là văn chƣơng lãng mạn Pháp. Họ cảm thấy bừng tỉnh về ý thức cá nhân, yêu cầu giải phóng cá nhân và phát triển cá nhân khỏi khuôn khổ ý thức, lễ giáo phong kiến. Nếu văn chƣơng lãng mạn Pháp giúp họ phát hiện cái tôi cá nhân chủ nghĩa với ý nghĩa tuyệt đối thì trong hoàn cảnh Việt Nam những năm đầu 30, văn chƣơng lãng mạn Việt Nam giúp họ thể hiện nó. Cũng đầu những năm 30, cuộc khủng bố trắng của thực dân với quy mô dã man chƣa từng thấy, thêm vào đó, cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra sâu sắc trong thế giới tƣ bản mà Việt Nam là một thuộc địa phải chịu chung một số phận, đã tạo ra sự hoang mang thất vọng trong thanh niên. Họ muốn thoát ly thực tế đen tối, xa lánh chính trị mà họ cảm thấy ồn ào mà vô hiệu bằng cách tìm đến con đƣờng văn chƣơng lãng mạn. Nhƣ vậy, không nên xem Thơ mới chỉ là hiện tƣợng thơ ca đơn thuần riêng lẻ mà phải gắn bó với nguồn gốc xã hội lịch sử cụ thể của nó. Từ năm 1930, nhiều sự kiện lịch sử, chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng với yêu cầu cấp bách có tính chất kịch 13 liệt ảnh hƣởng đến xã hội, tác động đến văn học, tạo sự chuyển biến hiện đại hóa về mặt xã hội cũng nhƣ văn chƣơng. Do vậy, nên chọn mốc 1930 làm khởi điểm phong trào Thơ mới, và kết thúc năm 1945, khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, xóa bỏ ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm trên đất nƣớc ta, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đƣa đất nƣớc sang một kỷ nguyên mới, làm thay đổi toàn bộ xã hội về mọi mặt, trong đó có văn học. Thế là năm 1945 đã mở ra một giai đoạn văn học mới và tất nhiên là phải khép lại giai đoạn đƣợc mở ra từ 1930. Phải lƣu ý rằng trong giai đoạn 1930 - 1945 cũng có những nhà thơ không thuộc Thơ mới, chẳng hạn nhƣ: Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải ... đã sáng tác thơ từ những năm 20, sau năm 1930 cũng tiếp tục làm thơ, vẫn tiếp tục mạch thơ cũ. Còn Tú Mỡ cùng Đỗ Phồn và nhiều nhà thơ trào phúng khác trong giai đoạn này không thể xếp vào phạm trù Thơ mới. Chính Hoài Thanh và Hoài Chân cũng không tuyển thơ của Tú Mỡ trong Thi nhân Việt Nam. Quả thật, thơ Tú Mỡ mang hình thức truyền thống với nội dung đả kích, trào phúng. Riêng Tố Hữu là trƣờng hợp đặc biệt, làm thơ từ những năm 1937 khi phong trào Thơ mới phát triển ở đỉnh cao. Tác giả ý thức rằng khuôn phép thơ cũ gò bó, khó mà nói hết đƣợc nhịp sống mới mẻ của thời đại, nếu nhƣ không có một hình thức khác phóng khoáng hơn - hình thức Thơ mới. Từ ấy đƣợc sáng tác với ý thức nhƣ vậy. Cho nên Xuân Diệu mới cho rằng thơ Tố Hữu trƣớc 1945 thoát thai từ phong trào Thơ mới. Nhƣng thơ Tố Hữu khác Thơ mới ở chỗ: thi hứng hoàn toàn khác và mới, một thi hứng của tình cảm, tƣ tƣởng cách mạng dƣợc biểu hiện dƣới hình thức Thơ mới. Trên quỹ đạo của hình thức Thơ đƣơng thời, Tố Hữu đã phát hiện lại cái tôi nhiệt huyết cảm tính, đem cái tôi cá nhân gắn với cái ta đoàn thể quần chúng, tạo ra những vần thơ bay bổng và sức mạnh. Nhƣ vậy, không phải trong những năm 1930 - 1945 mọi sáng tác thơ đều là Thơ mới, mà có nhiều dòng thơ cùng tồn tại. Thơ mới ra đời và nhanh chóng chiếm đƣợc ƣu thế trên thi đàn, thơ cũ cũng vì thế mà từ từ rút lui vào hậu trƣờng. Bên cạnh đó còn có một dòng thơ sôi sục đấu tranh của các chiến sĩ cộng sản, dòng thơ cách mạng, tiêu biểu là Từ Ấy của Tố Hữu. Và một dòng nữa - dòng thơ trào phúng với Tú Mỡ ... Tất cá các dòng trên sau Cách mạng tháng Tám, hợp lƣu và biến 14 chuyển thành dòng thơ cách mạng và kháng chiến sau năm 1945. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, hầu hết các nhà Thơ mới đều đi theo cách mạng, họ tự nguyện hòa cái tôi của mình vào cái ta cộng đồng, cái ta dân tộc. Họ đã lột xác trở thành các nhà thơ của quần chúng cách mạng. Tiếng thơ của họ không còn quanh quẩn trong vòng cái tôi tự biểu hiện mà thay vào đó là nhằm biểu hiện đời sống cách mạng, kháng chiến sôi động, hào hùng của nhân dân, của dân tộc. Rồi những nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến nhƣ: Chính Hữu, Trần Mai Ninh, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Bảo Định Giang, Xuân Miễn, Nguyễn Viết Lãm, Lƣu Trùng Dƣơng, Lƣơng An vv... không phải là những nhà Thơ mới. Thơ họ khác Thơ mới, khi mà ý thức hệ thay đổi, cảm hứng về nhân dân, về cách mạng đầy ắp, dồn nén. Về thi pháp, cùng nằm trong phạm trù hiện đại nên ta có thể thấy những câu thơ, thể thơ hao hao, na ná nhƣ Thơ mới. Nhƣng thật ra sau Cách mạng thơ đã thay đổi nhiều, khi tâm hồn của quần chúng kháng chiến dâng lên nhƣ nƣớc vỡ bờ, thơ ca - nhịp đập của trái tim - đã đi tìm hình thức mới để biểu hiện. Phải nói rằng, Thơ mới là một hiện tƣợng văn học có giá trị đầu thế kỷ XX. Nó có một phạm vi lịch sử cụ thể, từ 1930 - 1945, trƣớc nó chỉ có mầm mống, đồng thời với nó, có nhiều trào lƣu thơ không phải thuộc Thơ mới và sau 1945 càng không phải là Thơ mới. Trong phạm vi lịch sử đó, Thơ mới có sự đổi mới đồng bộ nghệ thuật thơ: thi hứng hiện đại, thi pháp hiện đại, tạo thành tựu xuất sắc trong thơ Việt Nam hiện đại, để lại dấu ấn sâu sắc rõ rệt trong thơ nhƣng không tránh khỏi hạn chế. Sự đổi mới ấy có gốc rễ rất sâu vào truyền thống. Do vậy, Thơ mới có một bộ mặt riêng, một vị thế riêng, là một bộ phận chứ không phải là Thơ ca hiện đại nói chung, cần đƣợc đánh giá xứng đáng. Thơ mới đã có những cách tân mạnh mẽ về thi hứng cũng nhƣ thi pháp. Trƣớc hết, và quan trọng nhất là đổi mới thi hứng. Thi hứng Thơ mới rất phong phú, phức tạp nhƣng có cốt lõi từ thi hứng thiên về cộng đồng, cái ta, bề rộng của thi hứng trung đại và cận đại chuyển sang thi hứng về cái riêng, cái tôi, bề sâu của thi hứng hiện đại. Thơ từ chỗ nhìn ra bên ngoài, quên chính mình đến tìm hiểu chính mình mà quên bên ngoài. Bởi vậy trong Thơ mới xuất hiện nhiều chữ tôi với tƣ cách là đại từ làm chủ ngữ để khẳng định chủ thể sáng tạo, chủ thể cảm xúc và cũng 15 rất nhiều từ lòng tôi nhằm giải thích trạng thái tâm lý, tình cảm của chủ thể. Trong lịch sử thơ ca Việt nam, chữ tôi chƣa bao giờ xuất hiện nhiều nhƣ thế. Điều ấy cũng dễ hiểu, cá nhân bao đời bị kìm hãm bởi tƣ tƣởng phong kiến cho nên cái tôi của nhà thơ bị chìm đắm, hòa tan trong cộng đồng gia tộc xã hội, quốc gia nay đƣợc cởi trói, đƣợc giải thoát và đƣợc khẳng định. Cá nhân đƣợc giải phóng là nhân tố quyết định sự phát triển con ngƣời và cái tôi đƣợc đề cao, đƣợc tự do, tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sự phát triển cảm xúc. Thơ mới không chỉ biểu hiện cái tôi bề mặt, mà điều quan trọng tạo nên cái mới là đi sâu khám phá cái tôi cảm xúc thành thật. Sự thành thật của các nhà nghệ sĩ trƣớc hết là thành thật với bản thân mình, với chính mình, và từ đó thiết lập mối quan hệ với thế giới bên ngoài, thế giới độc giả. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho rằng sự đổi mới cảm xúc là ở chỗ thành thực. Khát vọng thành thật trong cảm xúc của Thơ mới là khát vọng đƣợc giãi bày mọi bí mật của cõi lòng riêng tƣ, từ nỗi buồn, sự cô đơn đến ghen tuông, hờn dỗi, tình yêu, đau khổ, cả những khát khao phóng túng, phi chuẩn mực. Chính thành thật trong cảm xúc góp phần khẳng định nhân cách nhà nghệ sĩ. Các nhà Thơ mới không chỉ thành thật trong cảm xúc mà còn sẵn sàng sống trọn vẹn, sống tận cùng với cảm xúc của mình, nhƣ một cây kim bé nhỏ bị cuốn hút vào viên đá nam châm, không cần gƣợng giữ theo lối trung dung hay tiết dục của ngƣời xƣa. Chính sống trọn vẹn, sống tận cùng cảm xúc giúp nhà thơ vƣợt lên số phận, vƣợt lên chính mình để có sức sáng tạo lớn, điều kiện để hình thành phong cách nhƣ: “Thế Lữ một hồn thơ đẹp, nhiều lúc nhìn đời theo cảnh sắc thần tiên; Lƣu Trọng Lƣ đắm đuối trong tình và mộng; Huy Thông trữ tình và bi tráng, Nguyễn Nhƣợc Pháp duyên dáng trong nhiều tình ý thơ; Vũ Đình Liên, Thái Can, Lan Sơn gợi nhiều chia sẻ yêu thƣơng với những cảnh đời ngang trái, lụi tàn..” [8, tr.12] Song cũng cần lƣu ý rằng, sống tận cùng, sống mãnh liệt cảm xúc một mặt sẽ khám phá những tinh tế nhất của tình cảm làm phong phú giàu có hồn thơ, mặt khác khi nhà thơ đƣa đẩy cảm xúc vƣợt giới hạn đƣờng biên sẽ trở nên kỳ dị. Khi khám phá cái tôi cảm xúc, Thơ mới đi sâu quan sát tinh vi thế giới tâm linh sâu thẳm, ở đó thi nhân đặc biệt quan sát phần hồn, một biểu hiện cao khiết của sự sống. Khác với 16 nhà thơ trung đại, cảm hứng về hồn thi nhân, Thơ mới khai thác phần hồn của cái tôi chủ thể. Song với cảm xúc đầy cá tính sáng tạo nên phần hồn đƣợc cảm nhận nhƣ một sự thăng hoa uẩn ức riêng. Huy Cận với hồn sầu vạn kỷ, Chế Lan Viên với hồn u tối, Hàn Mặc Tử hồn đau, Xuân Diệu với hồn cô đơn và Vũ Hoàng Chƣơng với hồn say ... Nhƣ vậy mỗi nhà Thơ mới khai thác cái tôi theo quan niệm của mình nên giữa họ dù rất gần nhau nhƣng khác nhau, mỗi ngƣời là một cá tính nên biệt. Cá tính trong thơ cũ mờ nhạt, thơ trích đăng trên báo Nam Phong bài nào cũng giống nhau. Thơ của các nhà chí sĩ mang nội dung tiến bộ, nhƣng giống nhau vì họ không coi trọng cái tôi, dùng thơ văn để thực hiện các mục đích ngoài thơ văn. Đó là thẩm mỹ của thời đại, cũng cần nói thêm rằng: tiêu chuẩn thẩm mỹ của thơ cũ là xƣớng họa, là sáng tạo tập thể. Nhƣng sang Thơ mới, cái riêng xuất hiện lúc đầu còn rụt rè, về sau đƣợc khẳng định trở thành tiêu chuẩn thẩm mỹ. Thơ mới công kích thơ Đƣờng luật là nhƣ vậy. Sự sáng tạo của Thơ mới là bài học trong sáng tạo nghệ thuật nói chung. Điều đáng lƣu ý, bƣớc vào thế kỷ XXI, vấn đề nỗi buồn, nỗi cô đơn trong Thơ mới đánh giá nhƣ thế nào cho thỏa đáng. Phải chăng cái buồn, cái cô đơn ấy là mặt tiêu cực của Thơ mới, là biểu hiện sự ủy mị, bi quan mất tin tƣởng? Rõ ràng trong Thơ mới buồn nhiều, cô đơn đến rợn ngợp, đã trở thành căn bệnh chung của cả một thế hệ thi sĩ, từ Thế Lữ, Huy Thông, Lƣu Trọng Lƣ, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính đến Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chƣơng... nỗi buồn có duyên cớ và nỗi buồn vô duyên cớ, càng vào chặng cuối đƣờng càng buồn, càng bơ vơ. Nhƣng cái buồn ấy không phải là cái buồn bạc nhƣợc, mà là cái buồn của những con ngƣời có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc, chƣa tìm ra lối thoát Tƣơng ứng với sự thay đổi thi hứng là sự thay đổi thi pháp cho phù hợp với thi pháp chuyển từ tổng hợp, súc tích của thơ cũ sang tính phân tích, cởi mở, sự phong phú, đa dạng, nét riêng tƣ của Thơ mới, thi pháp hiện đại. Thi pháp hiện đại khởi đầu bằng thi pháp lãng mạn đi vào cái sâu, cái tôi, cái riêng. Các nhà Thơ mới đi tìm cái riêng do đó phải tìm cách biểu hiện mới. Ban đầu họ tìm hình thức tự do bằng cách đập phá hình thức thơ cũ. Thơ cũ lạm dụng thể thơ Đƣờng luật (thất ngôn 17 bát cú) một thể thơ thống trị suốt thời trung đại cho đến đầu thế kỷ XX không còn khả năng chuyển tải cảm hứng mới mẻ nữa. Thơ mới đả phá thơ Đƣờng luật, cho ra đời thể thơ tự do. Bài thơ Tình già của Phan Khôi, Trên đường đời và Vắng khách thơ của Lƣu Trọng Lƣ là những bài thơ làm theo thể thơ tự do, đƣợc độc giả hƣởng ứng nồng nhiệt. Nhƣng cũng có những bài thơ kém giá trị bởi ở đó thiếu tinh thần sáng tạo của nhà nghệ sĩ. Sau đó, điều đáng quí là họ sử dụng cái cũ một cách mới, vƣợt qua sự rập khuôn tạo ra cái tƣơi tắn mới mẻ từ hình thức cũ. Không dừng lại đó, họ tiếp tục sáng tạo. tìm tòi nhƣng vẫn nằm trong quy luật thơ. Sự thay đổi thi pháp cho phù hợp với thi hứng của phong trào Thơ mới chứng minh một cách hùng hồn cho quy luật thống nhất giữa nội dung và hình thức trong thơ ca. Nó nêu bật vai trò quyết định của nội dung với hình thức, đồng thời cũng cho thấy đây là sự thống nhất có tính chất biện chứng. Hình thức tuy bị nội dung quy định nhƣng đến lƣợt nó có tác dụng trở lại tôn vinh nội dung. Thơ mới có một sự đổi mới toàn diện, chính vì thế mà nó đƣợc khẳng định trong nhiều thập kỷ vừa qua, tuy có lúc thăng trầm. Sự đổi mới thi pháp Thơ mới còn nêu lên bài học: tiếp thu thơ ca nƣớc ngoài để đổi mới phải sáng tạo, mọi cái rập khuôn, mô phỏng, trái tinh thần tiếng Việt đều chết, hay đổi mới phải trên cơ sở truyền thống, truyền thống là nền tảng, xa truyền thống sẽ mất chỗ dựa. Ảnh hƣởng Văn hóa Pháp trƣớc tiên ảnh hƣởng chủ nghĩa lãng mạn Pháp đến Thơ mới là điều không thể chối cãi. Nhƣng ảnh hƣởng đó đƣợc xem nhƣ chất xúc tác ban đầu, có thể tạo nên phong trào chứ không thể tạo nên giá trị đích thực, chân chính của Thơ mới. Chắc chắn rằng giá trị đó do bản thân dân tộc, lịch sử, xã hội, văn hóa và con ngƣời Việt Nam thế kỷ XX tạo ra. Cho nên trong thi hứng Thơ mới là thơ của chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn trong Thơ mới có tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn Tây Phƣơng (đặc biệt chủ nghĩa lãng mạn Pháp), nhƣng nó không hề là bản sao, là con đẻ của chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà là chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam. Ta có thể thấy trong sâu thẳm chủ nghĩa lãng mạn của Thơ mới vẫn là chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần yêu nƣớc, nỗi đau, lời than của tâm hồn Việt Nam trong 18 hoàn cảnh mất nƣớc. Nếu chủ nghĩa lãng mạn Pháp là sự thất vọng trƣớc chủ nghĩa tƣ bản đang phát sinh, phát triển sau cách mạng Pháp thì chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam là nỗi đau xót vì chủ nghĩa thực dân, nỗi thất vọng về các cuộc cách mạng trƣớc nó và dự báo các cuộc cách mạng sau nó. Có thể nói chủ nghĩa lãng mạn Pháp là hậu cách mạng, còn chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam là tiền cách mạng. Trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn là chủ nghĩa cá nhân, là cái tôi. Nhƣng cái tôi trong Thơ mới vừa thoát khỏi cái ta, đồng thời ƣớc vọng trở về cái ta. Nó không thể dứt khoát, đoạn tuyệt với cái ta, không đi vào chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối, nhƣ cái tôi trong văn học phƣơng Tây. Thực tế đã chứng minh, chỉ cần thời gian sau các nhà thơ lãng mạn Việt Nam đều trở về cái ta dân tộc hoặc xa hoặc gần. Trở về cái ta giúp nhà thơ thoát khỏi cô đơn, buồn chán và bế tắc. Một phƣơng diện tạo nên bƣớc ngoặt của Thơ mới đó là đổi mới cơ bản về thể loại ngôn ngữ. Thơ Việt Nam trung đại mang tính quy phạm, các bài thơ gắn liền với những thể thơ cố định nhƣ: thơ tứ tuyệt; thất ngôn bát cú, lục bát; ngũ ngôn; lục ngôn. Đến Thơ mới thì có sự phá vỡ các luật lệ khắt khe về số chữ trong câu, số câu trong bài, cách hiệp vần của các thể thơ, có sự xuất hiện các bài thơ theo thể tự do, không có sự hạn định, phá bỏ sự cốt hóa, xuất hiện đơn vị cấu trúc ngôn ngữ loại thể là bài thơ nói chung. Bài thơ lúc này không phải gắn với bất cứ một thể thơ nào. Nó là bài thơ, không phải là bài thơ tứ tuyệt, bài thơ lục bát...nhƣ thơ Việt Nam trung đại. Sự xuất hiện bài thơ nhƣ là một đơn vị cấu trúc ngôn ngữ loại thể cơ bản nói chung là minh chứng cho thơ Việt Nam bƣớc vào thơ hiện đại của thế giới. Nó góp phần cởi trói, xuân hóa cho thơ về mặt cấu trúc ngôn ngữ, mở đƣờng cho thơ phát triển sang một giai đoạn mới. Bởi vì sự đổi mới về cấu trúc ngôn ngữ cũng là sự đổi mới về tƣ duy thơ. Từ Thơ mới, thơ Việt Nam có bài thơ là đơn vị cấu trúc ngôn ngữ loại thể cơ bản. Số âm tiết trong câu, số câu trong khổ, số khổ trong đoạn, trong bài không bị giới hạn, sự hiệp vần phong phú hơn và không bị hạn định. Trong Thơ mới, nhịp thơ hết sức phong phú, đa dạng, muôn hình, vạn trạng. Nhịp Thơ mới phản ánh nhịp điệu của tâm hồn, của cuộc sống. Nghệ thuật ngắt nhịp đã đƣợc Thơ mới nâng lên ở một trình độ mới. Nhƣ vậy, thơ trung đại và Thơ mới giống nhau vì có vần, điệu, số câu, số 19 chữ, nhƣng thơ vẫn có những điểm khác rất đặc biệt. Thơ cũ là lối thơ Đƣờng Luật có những lệ chặt chẽ về số câu, số chữ cách gieo vần bằng trắc và phép đối, niêm luật thật gò bó, khắc khe, đến nỗi các nho sĩ chuyên làm thơ Đƣờng cũng lắm khi than rằng khó quá vì luật lệ nghiêm khắc có hại cho thi hứng , khiến tình ý khó diễn đạt. Cho nên các nhà thơ muốn phá bỏ các luật lệ nghiêm ngặt ấy để tự do diễn đạt tình ý. Thơ mới là một lối thơ không giới hạn số câu, số chữ, niêm, luật hay đối chỉ cần có vần và điệu mà thôi. Tuy có những cách tân táo bạo nhƣng Thơ mới vẫn nằm trong văn mạch dân tộc, là một bộ phận trong nền văn học nƣớc ta, và hơn nữa đã góp phần không nhỏ vào làm phong phú cho văn chƣơng nƣớc nhà. Thơ mới so với thơ cũ đã có một sự bừng nở về nghệ thuật, một bƣớc phát triển nhảy vọt, thay đổi về chất đã góp phần tạo ra ánh hào quang huy hoàng của Thơ mới – bình minh của thơ Việt Nam hiện đại. 1.2. Hƣớng tiếp cận Thơ mới từ góc độ thi pháp 1.2.1. Thi pháp và thi pháp học. Các công trình về thi pháp học hoặc nghiên cứu văn học theo hƣớng thi pháp học đều khẳng định thuật ngữ thi pháp xuất hiện từ thời cổ đại, trong công trình của Arixtôt "Thi pháp" (Poetika). Thuật ngữ thi pháp (poetics, poetika) có nội hàm ban đầu là cách thức, biện pháp, phƣơng pháp mô phỏng, bắt chƣớc để sáng tạo văn học. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, chủ biên: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi có viết: "Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống các phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật. Xét các chỉnh thể văn học thi pháp có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ thể, thi pháp một trào lưu thi pháp văn học một thời đại, thời kỳ lịch sử. Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp kết cấu, thi 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất