1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua KT Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, trong
đó có sự đóng góp to lớn của ngành NN. Đứng trước những yêu cầu của hội nhập KT
quốc tế, NN Việt Nam nói chung và ở từng địa phương trong cả nước nói riêng, đang
có những bước phát triển đi vào chiều sâu theo xu thế chung của thế giới. Một trong
những bước chuyển đó là hướng đến PT một nền NN hàng hóa và bền vững.
Thạch Thành là một huyện miền núi nghèo của tỉnh Thanh Hóa. Ngành NN của
huyện vẫn còn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu KT. Trong những năm gần đây, giá trị
SXNN ngày càng tăng, góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và
tạo nên diện mạo mới cho khu vực NT trong huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
quả đạt được, thì NN địa phương còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Đó là
kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương, hiệu quả KT từ NN
tăng lên nhưng chưa ổn định, SX chưa gắn nhiều với thị trường, dẫn tới tình trạng
cung - cầu bất hợp lí, MT ở một số vùng bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng, đe dọa tới
SX, đời sống và sinh thái,... Do đó, việc xây dựng một nền NN phát triển theo hướng
bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển KT-XH của địa phương.
Vì thế tôi đã chọn đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở huyện Thạch
Thành, Thanh Hóa: Hiện trạng và giải pháp” để thực hiện luận văn thạc sĩ, với
mong mỏi được góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển KT - XH của quê hương.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về PTNNBV, vận dụng vào phân
tích, đánh giá tiềm năng và hiện trạng NN ở huyện Thạch Thành, từ đó đề xuất định
hướng và các giải pháp nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để PTNN địa phương theo
hướng bền vững trong những năm tới.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
2
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về PTNNBV để vận dụng vào nghiên cứu
NN ở cấp huyện.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến PTNNBV ở huyện Thạch Thành.
- Phân tích hiện trạng PTNN huyện Thạch Thành dưới góc độ NNBV.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lí các nguồn
lực để PTNN huyện Thạch Thành theo hướng bền vững đến năm 2025.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các nhân tố tự nhiên và KT-XH ảnh hưởng tới sự
PTBVNN ở huyện Thạch Thành. Phân tích thực trạng PTNN địa phương để thấy được
những thành tựu và hạn chế cần khắc phục để PT bền vững NN trên địa bàn huyện đến
năm 2025.
Tuy chỉ tập trung giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực NN (theo nghĩa hẹp),
song nội dung nghiên cứu được đặt trong bối cảnh chung của quá trình phát triển nền
KT-XH địa phương.
3.2. Về không gian
Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu bao gồm toàn bộ địa bàn huyện Thạch Thành,
trong một số trường hợp tập trung nghiên cứu sâu vào các xã có tỉ trọng đóng góp lớn
cho NN của huyện và những xã có nhiều tiềm năng PTNN.
3.3. Về thời gian
- Đề tài tập trung nghiên cứu về các điều kiện và hiện trạng PTNN của huyện
Thạch Thành trong giai đoạn 2005-2014. Đây là thời gian mà ngành NN của huyện đạt
những thành tựu và tích cực tác động tới đời sống KT-XH của địa phương.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm PTNN huyện theo hướng
bền vững đến năm 2025.
3
4. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay ở Việt Nam, PTNNBV vẫn còn là vấn đề mang tích thời sự. Trong
những năm qua ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển bền vững
trong nông nghiệp được công bố. Có thể kể đến một số công trình sau:
- Nông nghiệp Việt nam trong phát triển bền vững của Nguyễn Từ (2005), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam - Con
đường và bước đi của GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (năm 2006), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
- Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam của tác giả Nguyễn Xuân
Thảo (năm 2004), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Phát triển bền vững ở Việt Nam - Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng
của GS.TSKH Nguyễn Quang Thái và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi (năm 2007), Nhà xuất
bản Lao động - xã hội;
- Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp nông thôn của Đặng Kim Sơn và
Hoàng Thu Hà (năm 2002), Nhà xuất bản Thống kê;
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau của tác giả
Đặng Kim Sơn (năm 2008), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;…
Những nghiên cứu về PTNNBV ở tỉnh Thanh Hóa chưa nhiều, song có thể kể
đến một số công trình sau:
- Bài: “Mô hình liên kết kinh tế góp phần phát triển bền vững vùng mía đường
Lam Sơn, Báo điện tử ĐCSVN, ngày 01/02/2011.
- Đề án "Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa theo hướng nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”,
Sở NN và PTNN Thanh Hóa (tháng 6/2014).
- Chiến lược phát triển nông nghiệp Thanh Hoa thời kì 2011-2020, Sở NN và
PTNN Thanh Hóa.
- Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025 và
đỊnh hướng đến năm 2030, Sở NN và PTNN Thanh Hóa.
4
Đối với huyện Thạch Thành, trong lĩnh vực nghiên cứu về NN, chỉ có một số đề
tài, đề án do UBND huyện, phòng NN và PTNT huyện tìm hiểu và nghiên cứu:
- Chiến lược phát triển nông nghiệp huyện Thạch Thành thời kì 2010-2020;
- Quy hoạch phát triển nông nghiệp huyện Thạch Thành giai đoạn 2010-2020,
tầm nhìn đến năm 2025;
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp
huyện Thạch Thành trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2015-2020;
- Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ gắn với cơ cấu giống cây trồng trong sản xuất
cây lương thực ở các xã vùng thường xuyên bị ngập do mưa lũ thời kỳ 2011-2015.
Như vậy, vấn đề nghiên cứu sâu dưới góc độ địa lí KT để đề xuất định hướng
và các giải pháp PTNN huyện Thạch Thành theo hướng bền vững cho đến nay vẫn
chưa được đề cập đến cụ thể trong một nghiên cứu nào. Vì thế tác giả đã lựa chọn đề
tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở huyện Thạch Thành, Thanh Hóa: Hiện
trạng và giải pháp” để có những đóng góp thiệt thực hơn với địa phương.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm hệ thống
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc xem xét quá trình phát triển KTNN hiện
nay trên lãnh thổ phải dựa trên quan điểm hệ thống, xem xét chúng một cách toàn diện,
đặt chúng trong mối quan hệ đa chiều, trong các hoàn cảnh cụ thể, trong trạng thái vận
động và PT của NN. Các địa bàn phân bố NN được xem là các hệ thống con, các hệ
thống có mối quan hệ qua lại và tương tác lẫn nhau. Khi nghiên cứu đánh giá quá trình
PTNN theo hướng bền vững phải đặt chúng trong mối quan hệ với MT xung quanh. Vì
vậy, mặc dù luận văn nghiên cứu về sự PTNNBV của huyện Thạch Thành (Thanh
Hóa), nhưng trên quan điểm hệ thống, nó lại được đặt trong hệ thống lớn với các
ngành KT khác và với các huyện/thị của tỉnh Thanh Hóa và ở mức độ nhất định có
quan hệ với các địa phương khác của vùng Bắc Trung Bộ và của cả nước.
5.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi sự vật và hiện tượng địa lí đều tồn tại và PT trong một không gian lãnh thổ nhất
định. Các hoạt động của ngành NN nhằm khai thác tổng hợp các điều kiện KT-XH của lãnh
5
thổ để SX ra các loại nông sản.
Huyện Thạch Thành được coi như một thể tổng hợp tương đối hoàn chỉnh,
trong đó các yếu tố tự nhiên, KT-XH có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng chi
phối lẫn nhau. Các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn đều có những lợi thế riêng để
PTNN nhưng có quan hệ qua lại với nhau. Do vậy, trong quá trình tìm hiểu phân tích
thực trạng PTNNBV, việc vận dụng quan điểm tổng hợp lãnh thổ để thấy được sự
phân hóa về mặt lãnh thổ SX cũng như các thế mạnh riêng của mỗi đơn vị hành
chính cấp xã trong PT. Từ đó đưa ra những định hướng PT hợp lý, nhằm khai thác
tốt nhất những tiềm năng của địa phương huyện để phát triển KT-XH.
5.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lí đều có quá trình phát sinh và PT. Sự phát triển của
NN có sự thay đổi qua các thời kỳ và luôn biến động không ngừng theo sự PT của lực
lượng sản xuất và quan hệ SX. Tác giả vận dụng quan điểm lịch sử vào nghiên cứu để
thấy được những biến đổi của các yếu tố NN theo hướng bền vững qua từng giai đoạn
PTKT của huyện, từ đó đánh giá chính xác thực trạng và triển vọng PT của ngành
cũng như sự phân hóa lãnh thổ SX theo quan điểm bền vững; thấy được quá trình hình
thành và PT của ngành NN trong quá khứ, hiện tại cũng như đề xuất những giải pháp
mới nhằm mục đích PTNNBV và khai thác lãnh thổ có hiệu quả hơn trong tương lai.
5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
PTBV hiện đang là quan điểm bao trùm quá trình phát triển KT-XH, đặc biệt
trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa.
Hoạt động SXNN phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài mục đích KT, vấn đề
đặt ra khi PTNN là cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, phải
tuân theo quy luật PT của tự nhiên và đảm bảo chất lượng MT. Có như vậy, hệ thống
sinh thái mới được cân bằng, MT không bị ô nhiễm, đảm bảo cho sự PTBV, lâu dài
của NN, NT nói riêng và nền KT-XH nói chung.
Vận dụng quan điểm này vào luận văn để đề xuất định hướng và giải pháp
PTNN của huyện Thạch Thành mang lại hiệu quả cao, hài hòa và bền vững cả về KT,
XH và bảo vệ MT.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lí tư liệu
Đây là phương pháp quan trọng, xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài, được
sử dụng nhằm hệ thống lại các tri thức, tìm ra các nội dung mới về lí luận để vận dụng
chúng vào nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập, chọn lọc, phân tích và xử lý các
tài liệu về lĩnh vực NN của huyện và của tỉnh sao cho các thông tin được chọn lọc là
đáng tin cậy và đảm bảo được sự đồng bộ. Một số kết quả phân tích, tổng hợp đã được
tác giả sử dụng làm nguồn thông tin đầu vào để xử lý, phân tích trong mối quan hệ đa
chiều và bổ sung vào cơ sở dữ liệu Excel và Mapinfo.
5.2.2. Phương pháp phân tích, thống kê
Phương pháp này nhằm phân tích các số liệu điều tra, tính toán, phân tích các
thông số trên cơ sở các số liệu đã thu thập được từ Sở NN và PTNT Thanh Hóa, Sở
Tài Nguyên và MT Thanh Hóa, Phòng NN và PTNT, Phòng Tài Nguyên và MT,
Phòng LĐ và TBXH, Phòng Dân số và KHHGĐ,... của huyện Thạch Thành để xây
dựng các bảng số liệu, các loại biểu đồ, đồ thị,... Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập
được tác giả đã so sánh và rút ra những nhận định và kết luận đáp ứng mục đích nghiên cứu
và từ đó đề xuất một số biện pháp giải quyết.
5.2.4. Phương pháp bản đồ - GIS
Bản đồ là “ngôn ngữ” tổng hợp, ngắn gọn, súc tích, là phương thức thể hiện
trực quan các yếu tố tự nhiên, KT, XH của các vùng lãnh thổ. Sử dụng bản đồ là
phương pháp nghiên cứu đặc thù của địa lí học. Nghiên cứu về sự PTNNBV cũng cần
được khởi đầu bằng bản đồ hiện trạng và kết thúc bằng bản đồ.
Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên những số liệu thu thập được và thông qua
xử lí, tác giả đã xây dựng một số bản đồ hiện trạng, quy hoạch, định hướng PTNN
huyện Thạch Thành đến năm 2025. Từ đó có cái nhìn trực quan và bao quát hơn, giúp
thể hiển các thông tin về tổ chức lãnh thổ NN của huyện.
5.2.5. Phương pháp dự báo
Dựa vào các tài liệu thu thập được từ các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay,
đặc biệt là quy hoạch PTNN huyện Thạch Thành, các nguồn thông tin, tư liệu, đã công
7
bố, báo cáo tổng kết của các ban ngành có liên quan,... sự phân tích đánh giá thực
trạng PT chung của KT-XH, sự chuyển dịch cơ cấu KTNN, NT trên địa bàn huyện, tác
giả đưa ra những dự báo về sự PT của NN, NT Thạch Thành trong tương lai theo
hướng bền vững về cả KT, XH và MT. Các dự báo này là cơ sở để đề xuất các giải
pháp PTNN phù hợp.
5.2.6. Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp truyền thống của khoa học Địa lý, thông qua đó sẽ kiểm tra
được độ tin cậy của lượng thông tin thu được. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
tiến hành khảo sát thực địa nhiều lần tại 8 xã, thị trấn: Thành Kim, Thành Minh, Thành
Tiến, Vân Du, Thành Mỹ, Thành Long, Thạch Bình, Thạch Long, Thạch Quảng. Nội
dung hoạt động thực địa bao gồm: quan sát, điều tra, ghi chép, mô tả, chụp ảnh, ghi
hình, gặp gỡ trao đổi với một số cán bộ quản lí thuộc các ban ngành về các vấn đề liên
quan. Qua đó, tác giả đã thu thập và xử lí được nhiều thông tin về quan điểm, chủ
trương, chính sách liên quan đến PTNNBV của huyện hiện nay và những năm sắp tới.
5.2.7. Phương pháp chuyên gia
Nội dung nghiên cứu có liên quan đến nhiều chuyên ngành thuộc lĩnh vực NN
như thổ nhưỡng, trồng trọt, chăn nuôi,... Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tiếp
thu ý kiến và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của một số cán bộ Phòng NN và PTNT
huyện Thạch Thành, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở NN và PTNT tỉnh Thanh
Hóa. Nhờ đó đã giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần bổ sung và làm sáng tỏ một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn
PTNNBV.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến PTNNBV ở huyện Thạch Thành.
- Nhận diện được thực trạng PTNN ở huyện Thạch Thành, chỉ rõ những thành
tựu và hạn chế cần khắc phục để thúc đẩy NN địa phương phát triển theo hướng bền
vững trong tương lai.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm PTNN Thạch Thành theo
quan điểm PTBV về cả ba mặt: KT, XH và MT.
8
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được trình bày
trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về PTNNBV.
- Chương 2: Hiện trạng PTNN ở huyện Thạch Thành, Thanh Hóa.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp PTNNBV ở huyện Thạch Thành, Thanh
Hóa.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm và quan niệm
1.1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế
* Phát triển:
Theo quan điểm của Triết hoc, PT là khái niệm chỉ sự thay đổi về quy mô và
chất lượng của một sự vật, hiện tượng trong thời gian và không gian nhất định. Sự thay
đổi này bao hàm cả tăng lên hay giảm đi về quy mô và sự thay đổi về chất lượng của
sự vật, hiện tượng.
PT trong SX là quá trình tạo ra của cải vật chất và dịch vụ. Trong đó, con người
luôn đấu tranh với thiên nhiên làm thay đổi những vật chất sẵn có nhằm tạo ra LT,
thực phẩm, quần áo, nhà ở và những của cải khác phục vụ cuộc sống.
PT bên cạnh tăng thu nhập bình quân đầu người, còn bao gồm các khía cạnh
khác như nâng cao phúc lợi nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống, bao gồm tiêu dùng
vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ MT. PTKT gắn với PT ngành NN là một khía
cạnh của phát triển SX vật chất.
Có thể hiểu khái quát về PT như sau:
- PT là sự gia tăng về số lượng và thay đổi về chất lượng theo hướng tích cực;
- PT được hiểu theo nghĩa PT theo chiều rộng và PT theo chiều sâu;
- PT chính là tăng trưởng về quy mô và hoàn thiện về cơ cấu.
* Phát triển kinh tế:
Theo Ngô Doãn Vịnh, PTKT là sự thay đổi về mọi mặt của nền KT trong một
thời kì nhất định. Nói đến PTKT là nói cả đến sự tăng, giảm về quy mô sản lượng, chất
lượng của sự thay đổi của nền KT và cả đến sự tiến bộ của XH. PTKT bao giờ cũng là
sự mong muốn của con người về sự tiến hóa của nền KT từ trình độ PT thấp lên trình
độ PT cao hơn và kết quả, lợi ích do nó mang lại ngày một lớn hơn. [62]
Theo Phạm Ngọc Linh và Nguyễn Thị Kim Dung, PTKT được hiểu là quá trình
tăng tiến về mọi mặt của nền KT. PTKT được xem như là quá trình biến đổi cả về
10
lượng và chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề
KT và XH của mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, nội dung của PTKT được khái
quát theo ba tiêu thức [18]:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền KT và mức gia tăng thu nhập
bình quân trên một đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng
của nền KT, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực
hiện những mục tiêu khác của PT.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu KT. Đây là tiêu thức phản
ánh sự biến đổi về chất KT của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn PTKT hay
so sánh trình độ PTKT giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu
về dạng cơ cấu ngành KT mà quốc gia đạt được.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề XH. Mục tiêu cuối cùng
của sự PTKT trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch CCKT mà
là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng
tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục,… Hoàn thiện các
tiêu chí trên là sự thay đổi về chất XH của quá trình PT.
Từ những sự phân tích trên, có thể rút ra: PTKT là sự thay đổi về quy mô cả
chất và lượng của nền KT và cả sự tiến bộ của XH.
1.1.1.2. Phát triển bền vững
Thuật ngữ PTBV (Sustainable Development) lần đầu tiên được sử dụng trong
bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN (International Union for Conservation of
Nature- Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế) đề xuất năm 1980. Mục tiêu tổng thể
của Chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và
thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền
vững của sự PT về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về Môi
trường và Phát triển lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV
là: “Sự PT đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của
các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của chính họ”.
11
Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio năm 1992 và được bổ
sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg (cộng hòa Nam Phi) năm 2002:“PTBV là
quá trình PT có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự PT gồm:
PTKT, phát triển XH và bảo vệ MT nhằm đáp ứng nhu cầu và đời sống con người
hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.[13]
Như vậy, PTBV là sự PT trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ thực hiện ba
nhóm mục tiêu lớn: KT, XH, MT. Trong đó sự PTKT là nguồn gốc, là động lực; sự
phát triển XH là mục tiêu và sự PT môi trường là điều kiện của PTBV. Theo đó,
PTBV gồm ba nội dung cơ bản đó là:
Bền vững về KT: Đòi hỏi phải kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng KT
với phát triển văn hóa - xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng KT với việc sử dụng các
điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ, đặc biệt chú trọng
PT công nghệ sạch.
Bền vững về XH: Là phải xây dựng một XH trong đó nền KT tăng trưởng
nhanh và ổn định phải đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ XH, trong đó giáo dục
– đào tạo, y tế và phúc lợi XH phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối
tượng trong XH.
Bền vững về tài nguyên và MT: Là các dạng tài nguyên thiên nhiên tái tạo được
phải sử dụng trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về số lượng và
chất lượng các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý
nhất. MT tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên…) nhìn chung không
bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải
từ CN và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh MT được bảo đảm, con người
được sống trong MT sạch.
Ngoài ba mặt chủ yếu này, có nhiều người còn đề cập tới những khía cạnh khác
của PTBV như chính trị, văn hóa, dân tộc... và đòi hỏi phải tính toán và cân đối chúng
trong hoạch định các chiến lược và chính sách PTKT - XH cho từng quốc gia, từng địa
phương cụ thể.
12
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về PTBV đã được kết tinh và phản ánh
đầy đủ nhất trong Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam: “Mục tiêu tổng quát của
PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình
đẳng của công dân và sự đồng thuận của XH, sự hài hòa của con người và tự nhiên;
PT phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là PTKT, phát triển XH và
bảo vệ MT”[45]. Hiện nay, định hướng chiến lược PTBV của Việt Nam xác định 19
lĩnh vực ưu tiên: 5 lĩnh vực thuộc KT; 5 lĩnh vực XH; 9 lĩnh vực tài nguyên MT.
Trong các lĩnh vực KT cần ưu tiên có lĩnh vực PTNN và NT bền vững.
Tóm lại có nhiều quan điểm khác nhau về PTBV, nhưng chung quy lại PTBV
được coi là sự kết hợp giữa sự PT và MT, là sự cân bằng giữa KT, XH và MT. Nó
lồng ghép các quá trình SX với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về MT. Nó đảm bảo
thoả mãn những nhu cầu cho hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng
những nhu cầu trong tương lai. Về KT đó là sự tăng trưởng, hiệu quả và ổn định; về
XH là việc giảm đói nghèo, xây dựng thể chế, bảo tồn di sản và văn hoá dân tộc; còn
về mặt MT đó là đa dạng sinh học và thích nghi, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và
ngăn chặn ô nhiễm.
1.1.1.3. Nông nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt: “NN là ngành SX chủ yếu của XH, có nhiệm vụ cung
cấp sản phẩm ngành TT và chăn nuôi”.[64]
Theo Từ điển kinh tế học: “NN là quá trình SX lương thực, thực phẩm, thức ăn
gia súc, tơ sợi và sản phẩm mong muốn khác bởi TT những cây trồng chính và chăn
nuôi đàn gia súc.[24]
Theo Bách Khoa toàn thư (1991): “NN là ngành SX vật chất cơ bản của XH, sử
dụng đất để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra LT, thực phẩm và một số nguyên liệu cho CN.
NN là một ngành lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: TT, chăn nuôi, sơ chế nông sản;
theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả LN và TS.[2]
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy khái niệm về NN đang được nhìn nhận
phù hợp với xu hướng PT. NN hiện đại đã vượt ra khỏi nền NN truyền thống, SXNN
chủ yếu tạo ra LT cho con người hay làm thức ăn cho gia súc. Các sản phẩm NN ngày
13
nay, ngoài LT, thực phẩm truyền thống phục vụ cho con người còn các loại khác như:
sợi dệt (bông, len, lụa), LN và TS,... SX theo hướng SX hàng hóa, quan tâm đến việc
đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm NN ở trên, NN có thể được hiểu một cách
khái quát “NN là ngành SX vật chất cơ bản của XH, được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm các ngành nông, lâm và ngư nghiệp, và theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt, chăn
nuôi và DVNN”. Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn này, tác giả chỉ tìm hiểu
về NN theo nghĩa hẹp, nghĩa là NN bao gồm TT, chăn nuôi và DVNN.
1.1.1.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
* Cơ cấu kinh tế:
- Khái niệm:
Cơ cấu (hay kết cấu) là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để
phản ánh cấu trúc bên trong của một hệ thống. Cơ cấu là tập hợp những quan hệ cơ
bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống trong một thời gian nhất
định. [10], [41], [60].
Cơ cấu của nền KT hay hệ thống KT (CCKT) là tổng thể hợp thành bởi nhiều
phần tử thành phần của nền KT, biểu thị nội dung, cách thức cấu trúc của các phần tử
mà giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng
(được đo bằng tỷ lệ phần trăm của các yếu tố trong toàn bộ nền KT) và chất lượng
(được đo bằng mức độ chặt hay lỏng của mối liên kết giữa các yếu tố hợp thành hệ
thống KT), trong những không gian và điều kiện lịch sử KT - XH cụ thể, chúng vận
động hướng vào những mục tiêu nhất định.[10], [19], [41], [60].
- Khía cạnh biểu hiện:
Dưới góc độ nghiên cứu về quá trình phân công LĐ và tổ chức SX xã hội, cơ
cấu của nền KT thường được biểu hiện dưới các khía cạnh sau:
+ CCKT ngành: là tổng hợp các ngành KT và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành
thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền KT. Thực tế người ta
thường chia nền KT thành các nhóm ngành: nhóm ngành N-L-TS (hay khu vực I);
nhóm ngành CN–XD (khu vực II) và nhóm ngành DV (khu vực III). Thay đổi mạnh
mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang PT.
14
+ CCKT lãnh thổ: là tổng hợp các lãnh thổ KT và mối quan hệ tỷ lệ giữa các
lãnh thổ thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền KT, được hình
thành dựa trên sự bố trí không gian sản xuất KT trên các vùng lãnh thổ và có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ với cơ cấu KT ngành trong một thể thống nhất.
+ CCKT thành phần (xét theo góc độ quan hệ sở hữu), được hình thành dựa
trên chế độ sở hữu về tư liệu SX, vì thế có thể phân chia các thành phần KT dựa trên
các hình thức sở hữu thành các nhóm: KT nhà nước; KT tập thể; KT tư nhân,… phản
ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỷ trọng của các thành phần KT cấu thành nền KT.
Ngoài ra, CCKT còn có thể phân loại theo một số cách khác, song đây là cách
tiếp cận được chấp nhận rộng rãi và phổ biến nhất. [10], [41], [60].
* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
- Kinh tế nông nghiệp:
NN là ngành KT sản xuất vật chất cơ bản của XH loài người. Theo nghĩa rộng,
KTNN bao gồm:
+ SXNN (NN theo nghĩa hẹp): là ngành KT sử dụng đất đai làm tư liệu SX chủ
yếu để trồng trọt, chăn nuôi; khai thác cây trồng và vật nuôi làm đối tượng sản xuất để
tạo ra LT, thực phẩm và một số nguyên liệu cho CN. NN bao gồm các ngành: trồng
trọt, chăn nuôi và DVNN.
+ SX lâm nghiệp (lâm nghiệp): là ngành KT được hình thành và hoạt động trên
cơ sở vai trò chức năng và tác dụng của rừng, đất lâm nghiệp đối với đời sống KT-XH
hội trên cơ sở những phương thức SX và tổ chức KT nhất định. Lâm nghiệp bao gồm
các ngành: trồng, chăm sóc bảo vệ rừng; khai thác rừng và dịch vụ lâm nghiệp.
+ SX thủy sản (thủy sản): là ngành KT hình thành trên cở sở các hoạt động khai
thác và nuôi trồng thuỷ, hải sản. Các ngành của thủy sản bao gồm: khai thác; nuôi
trồng và dịch vụ thủy sản.
Khi sử dụng khái niệm NN trong mối quan hệ với các ngành CN, DV của nền
KT quốc dân, người ta thường sử dụng khái niệm NN theo nghĩa rộng. Khi sử dụng
khái niệm NN trong mối quan hệ với các ngành LN, TS là sử dụng khái niệm NN theo
nghĩa hẹp.
15
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
CCKTNN là tổng thể các mối quan hệ KT trong SXNN (theo nghĩa rộng) cả về
lượng và chất của các ngành N – L - TS. Các mối quan hệ tương tác này không ngừng
hoàn thiện và PT trong sự ổn định tương đối, trong các mối quan hệ khăng khít, tác
động và tùy thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố, được xác định bằng các quan hệ tỷ lệ về số
lượng và chất lượng. [23], [37], [48].
Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
+ Mang tính khách quan và được hình thành do sự phát triển của lực lượng SX
và phân công lao động XH;
+ Mang tính lịch sử: CCKTNN không cố định, bất biến mà luôn biến đổi để
phù hợp với những điều kiện KT - XH, với sự PT của KH - KT trong từng thời kỳ;
+ CCKTNN là một hệ thống mở có mối quan hệ tác động qua lại với các hệ
thống khác và mối quan hệ này ngày càng được mở rộng trong quá trình phân công và
hợp tác LĐ.
Cũng như cơ cấu của nền KT, những khía cạnh biểu hiện chủ yếu của
CCKTNN là: cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo lãnh thổ và cơ cấu theo thành phần: [23],
[37], [48]
Các khía cạnh biểu hiện của cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
+ CCKTNN theo ngành: phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các bộ phận cấu
thành KTNN. Trong đó, NN bao gồm: TT, chăn nuôi và DVNN; thủy sản gồm: nuôi
trồng, đánh bắt và dịch vụ hậu cần; LN bao gồm trồng rừng, khai thác rừng và dịch vụ
LN.
+ CCKTNN theo lãnh thổ: Cơ cấu NN theo lãnh thổ được hình thành dựa vào
sự bố trí không gian SXNN trên các vùng lãnh thổ, gắn bó chặt chẽ với CCKTNN
theo ngành trong một thể thống nhất. Chính sự khác biệt về các yếu tố điều kiện tự
nhiên, điều kiện KT - XH đã tạo nên các hình thức tổ chức SXNN theo lãnh thổ, từ đó
hình thành CCKTNN theo lãnh thổ. Những hình thức tổ chức SXNN theo lãnh thổ này
có sự khác biệt với nhau song chúng lại cùng tồn tại trong mối quan hệ tác động qua
lại với nhau.
16
Cơ cấu NN theo lãnh thổ phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỷ trọng của
các hình thức tổ chức SXNN theo lãnh thổ như: hộ gia đình, trang trại, HTXNN, nông
trường, vùng chuyên canh, các tiểu vùng sinh thái NN, vùng NN,… đồng thời phản
ánh tiềm năng KT - XH và khả năng khai thác các tiềm năng đó phục vụ cho mục tiêu
PT nhất định.
+ CCKTNN theo thành phần: CCKTNN theo thành phần KT được hình thành
dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu SX, bao gồm: KT nhà nước; KT ngoài nhà nước (tập
thể; KT tư nhân, cá thể,…) và khu vực có vồn đầu tư nước ngoài. CCKTNN theo
thành phần phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỷ trọng của các thành phần KT
cấu thành nên KTNN, xu hướng chung hiện nay đó là chuyển dịch tỉ trọng từ khu vực
KT nhà nước sang khu vực KT ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
- Quan niệm:
CDCCKTNN là sự vận động của các yếu tố cấu thành của KTNN theo các quy
luật khách quan dưới sự tác động của con người vào các nhân tố ảnh hưởng đến chúng
theo những mục tiêu nhất định. Đó là quá trình thay đổi các yếu tố và mối quan hệ
giữa các yếu tố cấu trúc nên KTNN. CDCCKTNN là quá trình chuyển dịch toàn diện
cả cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, và cơ cấu thành phần.[23], [37], [41], [48].
+ CDCCKTNN theo ngành: là sự thay đổi tỷ trọng giữa các nhóm ngành, từng
ngành trong NN. Xu hướng PT của KTNN, hiện nay là hướng tới một nền NN hàng
hóa, bền vững, SX thâm canh, đa dạng theo hướng SX lớn tạo ra nhiều sản phẩm có
giá trị. Vì vậy, CDCCKTNN theo ngành diễn ra theo xu hướng ngày càng gia tăng tỷ
trọng của các sản phẩm có giá trị KT cao (cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi,
thủy sản, các loại cây, con đặc sản,…) và có giá trị xuất khẩu, giảm dần tỷ trọng của
các sản phẩm có giá trị KT thấp.
+ CDCCKTNN theo lãnh thổ: là quá trình thay đổi tỷ trọng, vai trò của các hình
thức tổ chức SXNN theo lãnh thổ, phản ánh việc khai thác các yếu tố, điều kiện cho
phát triển KTNN trên các lãnh thổ nhất định. Trong xu thế PT hiện nay, CDCCKTNN
gắn liền với việc hình thành nên những vùng chuyên môn hóa, có sự ổn định về quy
mô, phương hướng SX, bảo đảm chất lượng và hiệu quả KT - XH,…
17
+ CDCCKTNN theo thành phần KT: là quá trình thay đổi về vai trò, vị trí của
các thành phần KT tham gia SXNN. Phản ánh sự thay đổi trong các mối quan hệ sản
xuất XH và xu thế chính trị của mỗi quốc gia, vùng, miền,… Trong điều kiện hiện nay,
xu hướng chung của quá trình chuyển dịch CCKT theo thành phần là ngày càng gia
tăng tỷ trọng của khu vực KT ngoài nhà nước, giảm dần tỷ trọng của khu vực KT nhà
nước.
- Các xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Trong lịch sử PT của nền KT thế giới, CDCCKTNN diễn ra ở tất cả các quốc
gia. Quá trình này diễn ra khác nhau tùy thuộc vào các điều kiện tự nhiên, KT - XH
của mỗi nước. Hiện nay ở các nước đang PT, xu hướng chủ yếu của quá trình
CDCCKTNN là:
+ Chuyển dịch từ SX độc canh, tự cấp tự túc sang SX hàng hóa, gắn liền với
thị trường nội địa và tham gia xuất khẩu;
+ Chuyển từ NN thuần nông sang nền NN tổng hợp, vừa đa dạng hóa vừa
chuyên môn hóa;
+ Gia tăng chức năng phi thương mại của NN như: đảm bảo an ninh LT, giảm
đói nghèo, duy trì văn hoá cộng đồng cư dân SXNN, đảm bảo MT sinh thái, chống lại
biến đổi khí hậu toàn cầu,… [23], [37], [41], [48].
1.1.1.5. Nông nghiệp bền vững
Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm PTNNBV cũng hình thành. Trong
những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập trung vào SXNN:
bảo vệ MT đất, nước và khởi xướng một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của
NNBV là kiến tạo một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về KT, có khả năng
thoả mãn những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm
MT.
Theo tổ chức Nông lương thế giới (FAO, 1990): PTNNBV là quá trình quản lý
và duy trì sự thay đổi về tổ chức, kỹ thuật ngày càng tăng của con người về nông phẩm
và dịch vụ vừa đáp ứng nhu cầu của mai sau. Sự PT của nền NN (bao gồm cả lâm
nghiệp và nuôi trồng thủy sản) sẽ đảm bảo không tổn hại đến MT, không giảm cấp tài
nguyên, sẽ phù hợp về kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả về KT và được chấp nhận
18
về phương diện XH. Quan niệm này đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi của PTNNBV
trên cả ba phương diện là sự PT hài hòa ba nhóm mục tiêu: KT, XH và MT đồng thời
chỉ rõ cách thức thực hiện để hướng đến PTNNBV.
Theo Ban cố vấn kỹ thuật thuộc nhóm chuyên gia quốc tế về nghiên cứu NN
của Liên Hợp Quốc (TAC/CGIRC): NNBV là nền NN phải bao hàm sự quản lý thành
công tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời cải tiến
chất lượng MT và gìn giữ được tài nguyên thiên nhiên. Quan niệm này thiên về giải
pháp quản lý để PTNNBV, còn trên phương diện xây dựng nền NNBV thì chưa được
đề cập đầy đủ.
Tổ chức về MT sinh thái thế giới (WCED) đưa ra định nghĩa: NNBV là nền NN
thỏa mãn được các nhu cầu của thế hệ hiện nay mà không làm giảm khả năng ấy đối
với các thế hệ mai sau. Định nghĩa trên chỉ đề cập khái quát tới vấn đề PTNNBV nói
chung chưa đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể.
Ở nước ta, vấn đề PTNNBV là một trong những nội dung được đề cập ở quyết
định số 153/2004/QĐ - TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tương chính phủ về “Định hướng
chiến lược PT bền vững ở Việt Nam” chỉ rõ: “PTNNBV là quá trình SX ngày càng
nhiều hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, phải đảm bảo vệ sinh, an toàn thực
phẩm, bảo tồn và PT được các nguồn tài nguyên như đất, nước, không khí, rừng và đa
dạng sinh học”. [45].
PTNNBV là sự PT mà đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của nền KT nhưng
không làm suy thoái MT tự nhiên - con người và đảm bảo được mức sống trên mức
nghèo đói cho người nông dân.[36].
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về PTNNBV, nhưng chung quy lại
PTNNBV được coi là sự PT của nền NN (bao gồm cả lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ
sản) đảm bảo bảo vệ MT, không giảm cấp tài nguyên; bền vững về KT; được chấp
nhận về phương diện XH. Hay nói cách khác, PTNNBV vừa theo hướng đạt năng suất
NN cao hơn, vừa bảo vệ, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo sự cân bằng có lợi về
MT và ổn định về mặt XH. PTNNBV về mặt KT đó là sự gia tăng sản lượng NN,
SXNN phải hiệu quả và ổn định; về mặt XH là việc giảm đói nghèo, tạo việc làm;
còn về mặt MT đó là đa dạng sinh học và thích nghi, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và
19
ngăn chặn ô nhiễm. Như vậy, PTNNBV cũng được xem xét theo ba trụ cột KT, XH và
MT, là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thoả
mãn nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm NN của con người cả cho hiện tại và mai
sau.
1.1.2. Một số vấn đề lí luận về phát triển nông nghiệp bền vững
1.1.2.1. Vai trò của phát triển nông nghiệp bền vững
* Cung cấp ổn định lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội
LT, thực phẩm là nhân tố có tính chất quyết định sự tồn tại PT của con người và
PTKT xã hội của đất nước. XH càng PT, đời sống của con người ngày càng được nâng
cao thì nhu cầu của con người về LT, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng,
chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của các nhân tố: sự gia tăng dân số và
nhu cầu nâng cao mức sống của con người. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
XH, SXNN giữ vai trò to lớn trong việc bảo đảm cung cấp ổn định cho đời sống con
người những sản phẩm tối cần thiết đó là LT, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù
trình độ khoa học - công nghệ PT như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế
được.[11], [40].
* Tạo ra sự ổn định, bảo đảm an toàn cho phát triển của nền kinh tế quốc
dân
NN có vị trí quan trọng trong việc cung cấp các nhân tố đầu vào cho CN và
khu vực thành thị. NN còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quí cho CN, đặc biệt
là CNCB. Trên cơ sở đó, PTBV nền NN giữ được vai trò cung cấp các nhân tố đầu vào
quan trọng cho sự phát triển CN, phát triển thị trường nội địa, tạo ra sự ổn định việc
tiêu dùng hàng hóa NN, hàng hóa CN và hàng hóa tư liệu cho các ngành SX góp phần
trong quá trình PTKT.[22]
* Giúp cho nông hộ và cộng đồng sản xuất nông nghiệp có thu nhập ổn
định
SXNN đạt hiệu quả cao, sản phẩm làm ra nhiều không những đáp ứng tiêu
dùng, thức ăn chăn nuôi, dự trữ LT mà còn xuất khẩu ra thị trường được hiểu là nền
NN được PTBV. Trên cơ sở đó, PTNNBV đóng vai trò quan trọng tạo nguồn thu nhập
ổn định cho các hộ SX và các cộng đồng SXNN. Đối với các nước đang PT và đại bộ
20
phận sống bằng nghề nông, nền KT hộ và KT của các địa phương còn phụ thuộc quá
nhiều vào SXNN và sự phát triển SXNN bền vững cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự
PTBV nền KT-XH của toàn vùng.[22]
* Tạo ra, ổn định công ăn việc làm cho lao động nông nghiệp và góp phần
xóa đói giảm nghèo một cách bền vững
Ngoài ra tạo nguồn thu nhập ổn định, PTNNBV đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo ra cho người nông dân có đầy đủ công ăn việc làm, đời sống vật chất, tinh
thần ngày càng được nâng cao, cuộc sống lành mạnh và không có tệ nạn XH. Đối với
các nước mà nghề nông là nghề chính, phát triển SXNN bền vững không những tạo
việc làm ổn định cho lao động NN và góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn giải quyết
việc làm cho hàng loạt LĐ trong vùng.
* Giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người gắn liền với môi trường và tài
nguyên thiên nhiên. Trên thực tế, điều hết sức đáng lo ngại là chính bản thân con
người đang đe doạ nghiêm trọng tới SXNN (theo nghĩa rộng), đó là tình trạng suy
thoái MT, làm cạn kiệt tài nguyên. Vì thế, phát triển SXNN bền vững đóng vai trò to
lớn trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng và
biển, bảo đảm cân bằng hệ sinh thái, giữ nguồn nước ngầm trong sạch và không gây ô
nhiễm MT.[15]
1.1.2.2. Yêu cầu của phát triển nông nghiệp bền vững
SXNN gắn liền với thiên nhiên, với MT và thường gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là
ở các nước đang PT, KH-KT còn lạc hậu. Nhìn chung, các nước đang PT và kém PT
có trên 60% dân số và 50% lao động XH tập trung ở NT và tham gia SXNN là chủ
yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trình độ LĐ thấp. Người nông dân vừa là những người
SX, vừa là những người tiêu thụ sản phẩm do chính họ làm ra. Bởi vậy, tính phối hợp
liên ngành (cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp
từ khu vực NN và thu nhập quốc dân chưa cao và không ổn định. Hiện nay, trong NN
của các nước đang PT, sản xuất LT chủ yếu là cây lúa nước nhưng còn phân tán, việc
áp dụng các kỹ thuật cơ giới hoá, hiện đại hoá vào SXNN còn hạn chế và nhiều bất
cập. Do đất chật, dân số không ngừng tăng lên, cùng với nhiều khó khăn về vốn, kỹ
- Xem thêm -