ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
HOÀNG ANH THƯ
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 CHO HỌC SINH LỚP 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ PHUƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
MÃ SỐ 60 14 01 11
Nguời huớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Ban
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của:
Lãnh đạo trường Đại học giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội, các
phòng khoa và các thầy cô trường Đại học giáo dục.
Lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp và học sinh trường THPT Lê Quý Đôn,
THPT Nguyễn Trãi (Thái Bình), THPT Phan Đình Phùng (Hà Nội)
Đặc biệt sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Nguyễn Thị Ban
Với tấm lòng trân trọng, tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý
báu của quý thầy cô, các bạn và các em học sinh.
Dù đã rất cố gắng song chắc chắc luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong sự góp ý của các thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội tháng 11 năm 2014
Tác giả
Hoàng Anh Thư
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
CNTT
CB
GV
HS
PT
PPDH
Viết đầy đủ
Công nghệ thông tin
Cơ bản
Giáo viên
Học sinh
Phổ thông
Phương pháp dạy học
STT
THPT
TPVC
VH
Số thứ tự
Trung học phổ thông
Tác phẩm văn chương
Văn học
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ................................................................................................ i
Danh mục viết tắt .........................................................................................ii
Mụclục .........................................................................................................iii
Danh mục các bảng, biểu .............................................................................v
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ
TÀI NGHIÊN CỨU ...........................................................................................9
1.1. Tự học và năng lực tự học ................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm tự học , năng lực, năng lực tự học ................................ 9
1.1.2. Các hình thức tự học .........................................................................14
1.1.3. Chu trình tự học .................................................................................15
1.1.4. Các biểu hiện của năng lực tự học của học sinh ................................ 18
1.1.5. Những năng lực cần thiết của người tự học môn Ngữ văn ..................21
1.1.6. Vai trò và ý nghĩa của tự học ..............................................................22
1.2. Truyện ngắn và năng lực tự học truyện ngắn .........................................23
1.2.1. Thể loại truyện ngắn hiện đại và nét riêng của truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn 1930-1945 ............................................................................23
1.2.2. Năng lực tự học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 .............27
1.3. Đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh THPT................................ 29
1.4. Chương trình truyện ngắn Việt Nam trong SGK lớp 11 và thực
trạng dạy - tự học truyện ngắn ở THPT .......................................................31
1.4.1. Chương trình truyện ngắn lớp 11 ........................................................31
1.4.2. Thực trạng việc bồi dưỡng năng lực tự học truyện ngắn cho
học sinh THPT ......................................................................................33
Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................41
Chương 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG
TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG........42
2.1. Một số nguyên tắc tổ chức dạy học truyện ngắn theo hướng phát
triển năng lực tự học cho HS lớp 11 THPT .................................................42
2.1.1. Bám sát mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông......................42
3
2.1.2. Phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lí của HS THPT......................42
2.1.3. Quán triệt tinh thần đổi mới PPDH môn học (Ngữ văn) và phần
học ( truyện ngắnViệt Nam 1930 - 1945) ...................................................43
2.1.4. Xuất phát từ thực tế rèn năng lực tự học truyện ngắn Việt Nam
cho học sinh THPT hiện nay ........................................................................44
2.2. Hướng dẫn HS lớp 11 tự học trong quá trình dạy học truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930-1945 theo hướng phát triển năng lực tự học
cho HS THPT ..............................................................................................45
2.2.1. Hướng dẫn HS lập kế hoạch tự học ....................................................45
2.2.2. Hướng dẫn học sinh tự học trước giờ học. ..........................................48
2.2.3. Hướng dẫn học sinh tự học trong giờ học ...........................................63
2.2.4. Hướng dẫn học sinh tự học sau giờ học ..............................................69
Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................74
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................................75
3.1. Mục đích thực nghiệm...........................................................................75
3.2. Đối tượng thực nghiệm..........................................................................75
3.3. Nội dung thực nghiệm ...........................................................................76
3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm .....................................................76
3.4.1. Cách tiến hành ...................................................................................76
3.4.2. Cách đánh giá ....................................................................................78
3.5. Kết quả thực nghiệm sư phạm ..............................................................78
3.5.1. Nhận xét chung về kết quả thực nghiệm .............................................78
3.5.2. Kết quả thực nghiệm cụ thể ................................................................79
Tiểu kết Chương 3 .......................................................................................81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................82
1. Kết luận................................................................................................ 82
2. Khuyến nghị .............................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................85
PHỤ LỤC ................................................................................................ 88
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1. Quy trình dạy - tự học …………………………………………….16
Bảng 1.2. Chương trình truyện ngắn Việt Nam lớp 12………………...… ....32
Bảng 1.3. Nhận thức của học sinh THPT về tác dụng của tự học………...….33
Bảng 1.4. Thực trạng sử dụng kĩ năng tự học của học sinh THPT……...…...35
Bảng 1.5. Thực trạng hoạt động dạy – tự học của giáo viên……………..…..38
Bảng 3.1. So sánh kết quả học tập sau khi dạy thực nghiệm……………….. 79
Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả học tập sau khi dạy thực nghiệm………..….…79
Sơ đồ 1.1. Chu trình dạy - tự học …………………………………………………... 15
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại bùng nổ thông tin đã tiếp sức cho tri thức khoa học của nhân
loại phát triển và đổi mới nhanh chóng theo tốc độ lũy tiến. Do đó khoảng
cách giữa sự vô hạn của tri thức nhân loại và sự có hạn của kiến thức cá nhân
ngày càng lớn hơn, thậm chí những kiến thức, kĩ năng hiện có nhanh chóng trở
nên lạc hậu và không đủ thỏa mãn nhu cầu sống của con người. Tự học, tự
nghiên cứu đã trở thành chìa khóa vàng để rút ngắn khoảng cách trên. Với mục
đích đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng hiện đại
hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước cũng sớm đưa vào
Luật Giáo dục yêu cầu: “Cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập theo
hướng tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và
năng lực tự học của học sinh…” (NQ TW2 – Luật Giáo dục). Theo đó, tự học
đã trở thành nhu cầu của thời đại, không những thế “ Tự học, tự đào tạo là một
con đường phát triển suốt đời của mỗi con người trong nền kinh tế xã hội nước ta
hiện nay và cả mai sau " (Đỗ Mười)
Đổi mới phương pháp dạy học với phương châm:“ Học sinh là mặt trời
xung quanh nó quy tụ mọi phương diên giáo dục” (J. Dewey) đã đề cao vai trò
của học sinh như là nhân vật trung tâm. Mục đích của đổi mới giáo dục là “
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, chuyển mạnh nền giáo dục
chủ yếu truyền thụ kiến thức một chiều sang giáo dục tương tác nhằm hình thành
nhân cách và phát triển năng lực người học. Trong số những phẩm chất, năng lực
cần hình thành cho học sinh thì năng lực đầu tiên và quan trọng nhất là năng lực
tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khuyên “Trong cách học, phải lấy tự
học làm cốt ”. Năng lực tự học có sẵn trong mỗi người. Để đánh thức được kho
báu tiềm ẩn đó người học phải có năng lực tự học, tự nghiên cứu, nhà trường phải
thay đổi cách dạy: dạy học sinh cách học trong đó có dạy cách tự học.
Dù đang trên đường đổi mới nhưng dạy học Văn hiện nay vẫn còn nặng về
truyền thụ kiến thức theo hướng đọc chép nên nhiều học sinh tỏ ra không mặn
6
mà, không hứng thú với môn Văn. Để khắc phục hạn chế đó phương pháp dạy
học Văn đã chuyển dần từ giảng văn sang đọc - hiểu văn bản và “dạy cho học
sinh biết cách tự đọc, lấy việc tự đọc nuôi việc tự học, từ đó mà lớn lên, tham gia
chủ động vào các hoạt động xã hội ” (Trần Đình Sử). Nghĩa là chuyển từ truyền
thụ kiến thức sang hình thành kĩ năng, lấy kĩ năng tự đọc làm cơ sở cho kĩ năng
tự học, lấy kĩ năng tự học làm cốt lõi để phát triển năng lực tự học Ngữ văn.
Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945 là một phần quan trọng của
chương trình Ngữ văn 11 với những truyện ngắn chọn lọc nổi tiếng nhất trong
đời văn của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan (Truyện
“Hai đứa trẻ ” , “Chữ người tử tù”, “Chí Phèo”, “ Đời thừa ”, “Tinh Thần thể
dục”). Trong số đó có bốn truyện ngắn là trọng tâm của kì thi THPT quốc gia, tuy
nhiên do thời gian học trên lớp có hạn, người dạy chưa chú trọng dạy kĩ năng tự
học, học trò còn thụ động, chưa dành thời gian cần thiết cho việc tự học nên hiệu
quả của chưa cao.
Xuất phát từ yêu cầu dạy học theo hướng phát triển năng lực và thực
trạng trên chúng tôi chọn đề tài “Phát triển năng lực tự học truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945 cho học sinh lớp 11 – Trung học phổ thông” với
mong muốn giúp học sinh lớp 11 tự học truyện ngắn có hiệu quả cao, từ đó
phát triển năng lực tự học môn Văn nói riêng và các môn học khác nói chung.
Đồng thời giúp giáo viên đáp ứng mục tiêu giáo dục và đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Tự học trong nhà trường
Tự học không phải là vấn đề mới trong lý luận và thực tiễn dạy học,
đã có rất nhiều quan điểm, tư tưởng và công trình nghiên cứu về tự học dưới
các góc độ, khía cạnh khác nhau. Dù ở góc độ nào thì nhìn chung đều nhấn
mạnh tính chủ động, tích cực của người học để chiếm lĩnh tri thức.
Ở nước ngoài, người đặt nền móng cho ý thức về hoạt động tự học
là nhà giáo dục người cộng hòa Séc J.A Comenxki (1592-1670). Cùng với
7
việc “đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán của người học”, Komensky
đã tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng ít hơn, học sinh học nhiều
hơn. Ông khẳng định: “Không có khát vọng học tập, không có khát vọng
suy nghĩ thì sẽ không thể trở thành tài năng” [39].
Vào thế kỷ XVIII – XIX, một số nhà giáo dục lỗi lạc như J.J.
Rousscau (1712-1778), Pestalozi (1746-1827), Disterver (1790-1886), Usinski
(1824-1890), J. Dewey (1859-1952)…đã hướng việc phát huy yếu tố tiềm ẩn
trong cá nhân con người, nhấn mạnh phương thức học tập bằng con đường
tích cực tìm tòi, khám phá, nỗ lực của bản thân để giành lấy tri thức. Những
tư tưởng đó được các nhà giáo dục thế hệ sau này tiếp thu và phát triển thành
các phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính tích cực, tự chủ của HS [39].
Vào thế kỷ XX, các nhà giáo dục tiếp tục kế thừa và phát triển
những thành tựu trước đó, đã tạo ra một giai đoạn phát triển rực rỡ về lý
luận dạy học. Những nhà giáo dục tên tuổi như X.P.Baranov, T.A.Ilina,
A.N.Leonchiev, A.V. Petrovski, A.M.Machiuskin, Makiguchi, J.G.Pestalozi,
F.Disterver…đã nghiên cứu về vấn đề tự học và đưa ra vấn đề tự học như
thế nào; cách độc lập nghiên cứu khoa học; cách suy nghĩ tìm tòi; cách sáng
tạo; … [44]
N.A. Rubakin (1862-1946) trong tác phẩm “Tự học như thế nào” đã
nhấn mạnh vai trò và thái độ tích cực tự học của học sinh trong việc chiếm
lĩnh tri thức. N.A. Rubakin đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong tự
học của HS. Muốn người học học tập có kết quả thì trong dạy học phải giáo
dục con người có động cơ đúng đắn trong tự học. Ông khẳng định: “Việc
giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để HS tích cực, chủ động
trong tự học”. Rubakin kết luận rằng: Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi
rồi tự mình tìm lấy câu trả lời - đó chính là phương pháp tự học. Tuy nhiên,
chỉ có động cơ thôi vẫn chưa đủ mà người học cần phải có kỹ năng tự học thì
mới tự học có hiệu quả [44].
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, I.F.Kharlamop khẳng định rằng:
8
tự học đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tính tích cực nhận
thức và hiệu quả cho hoạt động trí tuệ của SV. Hoạt động tự học diễn ra theo
cách tăng cường nghiên cứu, làm việc với tài liệu học tập, dạy học nêu và
giải quyết vấn đề, cải tiến công tác tự học, đổi mới phương pháp kiểm tra
đánh giá, …[45].
Năm 1994, Raja Roy Singh - nhà giáo dục người Ấn Độ, trong
cuốn sách “Giáo dục thế kỷ XX: Những triển vọng của châu Á Thái Bình
Dương” đã nghiên cứu vai trò của tự học của người học và đề cao vai trò
chuyên gia cố vấn của người thầy trong học tập thường xuyên và học tập
suốt đời, trong việc hình thành và phát huy năng lực tự học của người học
[21]. Năm 1996, Uỷ ban quốc tế về Giáo dục cho Thế kỷ XXI do Jacque
Delor làm Chủ tịch đưa ra một báo cáo khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục đối với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc và nhân loại.
Báo cáo này nhấn mạnh giáo dục là “kho báu tiềm ẩn” và đã đưa ra một tầm
nhìn về giáo dục cho thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột (học để biết, học để
làm, học để khẳng định mình, học để cùng chung sống) cũng đã khẳng
định tầm quan trong của tự học trong xã hội đầy tính cạnh tranh và trong
thời đại bùng nổ của tri thức khoa học, công nghệ như hiện nay.
Ở nước ta, những năm gần đây vấn đề tự học rất được quan tâm. Tác giả
Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của HS THPT”.
Tại Hà Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự
học – tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều giáo sư đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết,
các bài phát biểu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các
cấp, các ngành phải chăm lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Bên cạnh
đó, còn có một số cuốn sách đã được xuất bản như “Tôi tự học” – Nguyễn
Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê, “Luận
bàn và kinh nghiệm tự học” – Nguyễn Cảnh Toàn... Những cuốn sách này
chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình tự học của một
9
số tác giả. Đặc biệt, Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra mắt
bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tạp chí này đã thu hút sự quan tâm chú ý và sự
tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà khoa học, giáo sư, nhà
giáo...
Cuốn “Học và dạy cách học” do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên
là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết một cách có hệ thống
về việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách này thực sự là tài liệu bổ ích
giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở Việt Nam, đặc biệt là quá
trình dạy tự học.
Tác giả Trịnh Quốc Lập trong bài báo khoa học “Phát triển năng lực
tự học trong hoàn cảnh Việt Nam” (2008) đăng trên tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ đã cho rằng năng lực tự học không chỉ là một
phẩm chất dành cho người học thuộc thế giới phương Tây, về bản chất mà
nói, sinh viên châu Á không phải là không có năng lực tự học; hệ thống
giáo dục ở các nước châu Á chưa tạo đủ điều kiện để sinh viên phát triển
năng lực tự học. Kết quả nghiên cứu của tác giả bài viết này đã chứng minh
rằng trong hoàn cảnh Việt Nam năng lực tự học có thể được phát triển
thông qua việc ứng dụng học tập tự điều chỉnh.
Nhìn chung, các nhà giáo dục đã tập trung nghiên cứu sâu vấn đề tự
học dưới nhiều góc độ khác nhau. Các tác giả đã đưa ra nhiều kỹ năng tự
học cho người học. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về “Phát
triển năng lực tự học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 -1954 cho học sinh
lớp 12 – THPT”
2.2. Tự học môn Ngữ văn
Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng nên tự học môn Ngữ
văn cũng có những nét khác biệt. Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong môn
Văn học” do nhóm tác giả Trần Bá Hoành, Nguyễn Trí, Cao Đức Tiến,
Nguyễn Trọng Hoàn biên soạn đã nói đến một trong những đặc trưng của
phương pháp dạy học tích cực đó là tự học. Trong bài: “Dạy văn để HS tự
10
học văn”, GS Phan Trọng Luận đặt ra yêu cầu và mục tiêu của việc dạy Văn
là dạy HS cách tự học Văn. Trong các luận văn, luận án, bài viết của các tác
giả gần đây, vấn đề tự học cũng rất được quan tâm. Hai tác giả Phạm Thị
Xuyến và Vũ Thị Sáu trong hai cuốn luận văn Dạy học văn học sử theo hướng
hình thành và phát triển năng lực tự học ở học sinh lớp 10 và Hình thành thói
quen tự học cho học sinh THPT qua bài học Văn học sử (tác gia) đã quan tâm
đến việc hình thành năng lực, thói quen tự học trong phần văn học sử. Tác giả
Trần Thị Hương Mai trong luận văn Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự
sự trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo hướng tự học có hướng dẫn lại đi
sâu nghiên cứu dạy học các bài đọc thêm theo hướng tự học có hướng dẫn.
Luận văn Rèn kĩ năng tự học truyện dân gian cho học sinh THPT của tác giả
Nguyễn Kim Anh chú trọng đến các kĩ năng tự học phần văn học dân gian cho
học sinh lớp 10. Ngoài ra còn có một số bài viết khác như Cách tự học môn
Ngữ văn hiệu quả (Nguyễn Văn Phiên), Rèn kĩ năng tự học môn Ngữ văn (Đặng
Quang Sơn) trong đó các tác giả mới đề xuất những cách làm mang tính chất
kinh nghiệm chứ chưa đi sâu nghiên cứu kĩ vấn đề…
Như vậy, qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy:
Lí luận chung về tự học đã được các tác giả nghiên cứu khá kĩ tạo ra cơ sở lí
luận vững chắc cho những nghiên cứu tiếp theo về tự học. Tuy nhiên có rất ít
công trình nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh cụ thể của tự học như năng
lực tự học, kĩ năng tự học…Riêng ở bộ môn Ngữ văn, những nghiên cứu sâu
về kĩ năng tự học các phần học cụ thể như Tiếng Việt, Làm văn, Đọc văn
(trong đọc văn có đọc văn bản văn học) cũng chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về phát triển
năng lực tự học, đề xuất những hướng dẫn học sinh cách tự học truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, thiết kế giáo án và dạy thử nghiệm truyện
11
ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao, nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh,
góp phần đổi mới PPDH Ngữ văn ở trường THPT để từ đó nâng cao chất
lượng dạy học Ngữ văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về tự học và phát triển năng lực tự học.
- Nghiên cứu chương trình truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945
cho HS lớp 11 và khảo sát thực tế dạy học truyện ngắn theo hướng phát triển
năng lực tự học ở THPT.
- Đề xuất những hướng dẫn học sinh tự học nhằm phát triển năng lực tự
học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra hiệu quả của các biện pháp đã đề
xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng tự học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 của học sinh
lớp 11 THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phần truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trong chương trình
Ngữ văn 11 và năng lực tự học truyện ngắn của học sinh lớp 11 THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Tìm hiểu các tài liệu, sách báo, văn kiện của Đảng và Nhà nước, nội
dung kiến thức của quá trình học tập cao học, các tài liệu khoa học có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra: khảo sát bằng phiếu điều tra, phỏng vấn đối với
GV và HS.
- Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê, phân loại kết quả khảo sát.
12
- Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động tự học của HS trong và
ngoài giờ lên lớp.
- Phương pháp thực nghiệm: ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Tổ chức dạy học truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945
theo hướng phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 11 – Trung học phổ
thông
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tự học và năng lực tự học
1.1.1. Khái niệm tự học , năng lực, năng lực tự học
1.1.1.1. Khái niệm tự học
Tự học là một khái niệm được nhiều người quan tâm. Hồ Chủ Tịch đã
định hướng: “Tự học là một cách hành động”, tức là: Học tập một cách hoàn
toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự
mình chủ động vạch ra kế hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực
hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự
mình kiểm tra đánh giá việc học của mình [9].
Theo từ điển Giáo dục học - NXB từ điển Bách khoa 2001: “Tự học là
quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng
thực hành…”
Trong Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, tác giả Thái Duy
Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so
sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm
lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã
hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học” [30].
Tác giả Trần Bá Hoành cho rằng: “Tự học là người học tích cực chủ
động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể
hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử
lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học
thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. [29]
Còn theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học (self learning) là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp,...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm
14
chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì
nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý chí muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình. [22]
Trên thế giới khái niệm tự học cũng được tập trung nghiên cứu từ cuối
thế kỉ XX. Tác giả Candy (1987) đã xác định có ít nhất 30 khái niệm khác
nhau được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm tự học. Ví dụ, ông liệt kê ra
tự học, học tập độc lập, người học tự kiểm soát, hướng dẫn bản thân, học tập
phi truyền thống, học tập mở, tham gia học tập, tự học, tự giáo dục, học tập tự
tổ chức, tự học theo kế hoạch, tự chịu trách nhiệm về việc học, tự học và tự
dạy… Trong quá trình nghiên cứu về tự học, một số tác giả đi đến thống nhất:
có hai phương diện liên quan đến tự học đó là tính cách của người học và
phương pháp học tập. Đặc điểm tính cách hay "tính tự định hướng của người
học" thuộc về bản chất của người học và là những đặc trưng cá nhân cho phép
họ thể hiện "mong muốn chịu trách nhiệm với việc học". Đây là đặc điểm bên
trong. Phương pháp học tập là một đặc điểm bên ngoài nói đến "một quá trình
mà trong đó người học có vai trò chính trong việc lập kế hoạch, thực hiện và
đánh giá các trải nghiệm" (Brockett 11 & Hiemstra). Với Brockett &
Hiemstra, hai phương diện này có mối quan hệ biện chứng và cùng nhau dẫn
đến "tự học".
Từ các quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: tự học là một quá trình học
tập độc lập, chủ động, tích cực của người học trong việc chiếm lĩnh tri thức
khoa học, cũng như những kiến thức trong cuộc sống hằng ngày. Nó có thể
được cá nhân người học tiến hành ở trên lớp hay ngoài lớp học.
1.1.1.2. Khái niệm năng lực
Năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng La tinh “competentia”.
Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu nhiều nghĩa khác nhau.
15
Theo TS. Nguyễn Văn Tuấn (ĐHSP kĩ thuật TP Hồ Chí Minh) trong
chuyên đề “Tài liệu học tập về phương pháp dạy học theo hướng tích hợp ”
thì : Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu
tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách
nhiệm. Cấu trúc của năng lực bao gồm: Năng lực chuyên môn (Professional
competency), năng lực phương pháp (Methodical competency), năng lực xã
hội (Social competency), năng lực cá thể (Induvidual competency) và được thể
hiện cụ thể như sau:
PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống trong bài “Đổi mới đánh giá kết quả học tập
môn Ngữ Văn theo yêu cầu phát triển năng lực ” đã chỉ ra rằng: Tuy cách phát
biểu về năng lực có thể khác nhau nhưng đều thống nhất trong cách hiểu về
bản chất của khái niệm này: Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố:
kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, ý chí , kinh nghiệm và nhiều nguồn lực
tinh thần khác để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc
sống.
16
1.1.1.3. Năng lực tự học
Theo Nguyễn Kì, trong bất cứ con người Việt Nam nào trừ những người
bị khuyết tật, tâm thần - đều tiềm ẩn một tiềm lực, một tài nguyên quốc gia vô
cùng quí giá đó là năng lực tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực
tiễn, tự đổi mới, tự sáng tạo trong công việc hàng ngày gọi chung là NLTH
sáng tạo [11].
“Năng lực tự học là tổng thể các năng lực cá thể, năng lực chuyên môn,
năng lực phương pháp và năng lực xã hội của người học tác động đến nội
dung học trong những tình huống cụ thể nhằm đạt mục tiêu (bằng khả năng trí
tuệ và vật chất, thái độ, động cơ, ý chí v.v... của người học) chiếm lĩnh tri thức
kĩ năng”.
1.1.1.4. Phân biệt năng lực tự học với kĩ năng tự học
Kĩ năng tự học
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hà trong luận án “Biện pháp hoàn thiện kĩ
năng tự học môn Giáo dục học cho sinh viên Đại học Sư phạm theo quan điểm
sư phạm tương tác” đã cho rằng: kĩ năng tự học là khả năng thực hiện có kết
quả hoạt động tự học đúng như những hiểu biết về hoạt động tự học và về kĩ
năng tự học mà người học đã được lĩnh hội trong hoạt động dạy học.[16
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng: Kĩ năng tự học là khả năng thực
hiện có kết quả một hay một nhóm hành động tự học bằng cách vận dụng
những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những
điều kiện cho phép.
Có thể nhận thấy, kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để người
học thực hiện sự nghiên cứu khám phá, biến động cơ tự học thành kết quả cụ
thể, giúp người học biết ứng dụng sáng tạo để vận dụng kiến thức đã có vào
giải quyết mâu thuẫn của quá trình nhận thức. Kĩ năng tự học bao gồm cả vốn
thông tin và tri thức sẵn có, phương pháp và các thao tác vận dụng chúng để
người học tự mình giải quyết các nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh tri thức mới.
Để tự học có kết quả, người học phải có một số kĩ năng tự học như kĩ năng thu
17
thập thông tin, kĩ năng xử lí thông tin, kĩ năng vận dụng thông tin, kĩ năng tự
kiểm tra, đánh giá,... Mỗi kĩ năng trên đòi hỏi người học phải có sự hiểu biết
và mức độ thành thạo nhất định trong thao tác. Cho nên trong quá trình tổ
chức hoạt động học tập cho HS, người dạy cần phải coi trọng hình thành kĩ
năng tự học, coi kĩ năng tự học vừa là phương tiện, điều kiện vừa là nội dung
và mục đích của tự học, tự đào tạo.
Phân biệt năng lực với kĩ năng
Khái niệm kĩ năng nhiều khi bị dùng lẫn với khái niệm năng lực. Vậy
đâu là điểm phân biệt giữa kĩ năng với năng lực ? “Năng lực là những
khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình
huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận
dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong
những tình huống linh hoạt”(Weinert, 2001). Trong tài liệu Chương trình giáo
dục phổ thông và phát triển chương trình giáo dục phổ thông, tác giả Nguyễn
Thúy Hồng cũng thống nhất cho rằng: Năng lực là một thuộc tính tâm lí phức
hợp, tổng hòa của các thành tố; kiến thức, kĩ năng, thái độ, các giá trị và kinh
nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động của cá nhân được thể hiện thông qua
giải quyết có trách nhiệm và hiệu quả các nhiệm vụ, vấn đề trong những bối
cảnh và tình huống khác nhau. Như vậy năng lực là sức mạnh tổng hợp của
kiến thức, kĩ năng và thái độ trong đó thái độ sẽ đưa ra những cam kết thực
hiện và quyết định kết quả công việc, kĩ năng cần có để cam kết công việc
sẽ được thực hiện, kiến thức sẽ quyết định đến quá trình thực hiện và kết
quả công việc đạt được trong một tình huống cụ thể.
Những nghiên cứu trên cho thấy: năng lực và kĩ năng có mối liên hệ
mật thiết với nhau, mang tính chất cấu thành và kĩ năng là một yếu tố cơ bản,
quan trọng cấu thành nên năng lực. Muốn phát triển năng lực cần dựa trên cơ
sở phát triển các thành phần như kiến thức, kĩ năng, thái độ…, huy động tổng
hợp các thành phần trong những tình huống đa dạng. Để có thể tự học, người
học phải nắm được những tri thức về hành động, phải vận dụng những tri thức
18
đó để tiến hành các hành động nhằm thu được những kết quả phù hợp với mục
đích. Nói cách khác, người học phải có kĩ năng tự học phù hợp với môn học.
Những kĩ năng tự học này, cùng với các thành phần khác sẽ góp phần hình
thành và phát triển năng lực tự học ở người
1.1.2. Các hình thức tự học
Xét về phạm vi diễn ra quá trình tự học, có thể chia hình thức tự học
làm hai loại:
- Tự học trong các cơ sở giáo dục: là hình thức tự học của người học
diễn ra trong các cơ sở giáo dục có sự hướng dẫn, tổ chức của thầy theo kế
hoạch giáo dục đã định sẵn.
- Tự học trong cuộc sống: là hình thức tự học được tiến hành ở bên ngoài
các cơ sở giáo dục, diễn ra bất cứ lúc nào, với bất cứ ai có nhu cầu học tập.
Xét về mức độ và cách thức tự học có hai hình thức tự học sau:
- Tự học hoàn toàn: là hình thức tự nghiên cứu của các nhà khoa học,
được tiến hành dựa trên nền tảng vốn tri thức sâu rộng cùng niềm khát khao,
say mê khám phá tri thức mới. Ở hình thức tự học này, người học tự lực tìm
hiểu, cọ xát với thực tiễn để tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
- Tự học có hướng dẫn: là hình thức tự học phổ biến của HS được tiến
hành linh hoạt theo từng cấp học, từng loại hình trường học, từng đối tượng;
trong đó, HS tự nghiên cứu, tự lĩnh hội và vận dụng kiến thức, kĩ năng thông
qua các hoạt động tự học do GV tổ chức, hướng dẫn, điều khiển.
Xét về mối quan hệ của người tự học trong tự học, có:
- Tự học không tương tác: là hình thức học tập mà người học làm việc
độc lập, chủ động có hoặc không có sự hướng dẫn của người thầy.
- Tự học trong tương tác: là hình thức tự học mà người học kết hợp với
những người khác (có thể với bạn, với thầy) trong học tập để nghiên cứu, lĩnh
hội và vận dụng kiến thức, kĩ năng; có hoặc không có sự hướng dẫn của người
thầy.
19
- Xem thêm -