Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên nhân việt nam mất nước vào tay thực dân pháp (1802 1884)...

Tài liệu Nguyên nhân việt nam mất nước vào tay thực dân pháp (1802 1884)

.PDF
199
831
120

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐAI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------------------- NGUYỄN KIM TƯỜNG VY NGUYÊN NHÂN VIỆT NAM MẤT NƯỚC VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP (1802 - 1884) Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số 60 2254 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS .TS. NGUYỀN PHAN QUANG Thành phố Hồ Chí Minh - 2006 MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4 T 2 7 1 T 2 7 1 1. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................4 T 2 7 1 T 2 7 1 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu ..................................................................6 T 2 7 1 T 2 7 1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................13 T 2 7 1 T 2 7 1 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................14 T 2 7 1 T 2 7 1 5. Đóng góp mới của luận văn .........................................................................................15 T 2 7 1 T 2 7 1 6. Cấu trúc luận văn .........................................................................................................16 T 2 7 1 T 2 7 1 CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX TIẾM ẨN NHỮNG NGUY CƠ MẤT NƯỚC ........................................................ 18 T 2 7 1 T 2 7 1 1.1. Xu hướng bành trướng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và mưu đồ xâm chiếm Việt Nam của Pháp. ..........................................................................................................18 T 2 7 1 T 2 7 1 1.2. Thực trạng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX và yêu cầu khách quan của lịch sử. ............................................................................................................................................20 T 2 7 1 T 2 7 1 1.3. Chính sách của nhà Nguyễn từ 1802 - 1858 ............................................................23 T 2 7 1 T 2 7 1 1.3.1. Chính trị - xã hội ...................................................................................................23 T 2 7 1 T 2 7 1 1.3.2. Kinh tế:..................................................................................................................28 T 2 7 1 T 2 7 1 1.3.3. Quân sự: ................................................................................................................36 T 2 7 1 T 2 7 1 1.3.4. Ngoại giao: ............................................................................................................39 T 2 7 1 T 2 7 1 CHƯƠNG 2: THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM (1858 - 1884) & ĐỐI SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ................................................................................ 44 T 2 7 1 T 2 7 1 2.1. Quan hệ Việt Nam và Pháp trước 1858 và mưu đồ xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. ...........................................................................................................................44 T 2 7 1 T 2 7 1 2.1.1. Quan hệ Việt Nam và Pháp từ cuối thế kỷ XVIII đến 1802 .................................44 T 2 7 1 T 2 7 1 2.1.2. Quan hệ Việt Nam và Pháp trong 40 năm đầu của thế kỷ XIX : ..........................45 T 2 7 1 T 2 7 1 2.1.3. Quan hệ Việt Nam và Pháp từ năm 1841 đến 1857 .............................................47 T 2 7 1 T 2 7 1 2.2. Pháp xâm lược Việt Nam (từ năm 1858 đến hòa ước 1862). .................................51 T 2 7 1 T 2 7 1 2.2.1. Tiến trình xâm lược từ Đà Nẵng đến Gia Định ....................................................52 T 2 7 1 T 2 7 1 2.2.2. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). ................................................................................56 T 2 7 1 T 2 7 1 2.3. Từ Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) đến Hiệp ước Giáp Tuất (1874). ........................60 T 2 7 1 T 2 7 1 2.3.1. Thực dân Pháp mở rộng xâm chiếm Việt Nam (từ 1862 đến 1873). ...................60 T 2 7 1 T 2 7 1 2.3.2.Hiệp ước Giáp Tuất (1874). ...................................................................................63 T 2 7 1 T 2 7 1 2.4. Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp. ...........................................................66 T 2 7 1 T 2 7 1 2.4.1. Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1883) ...................................................................66 T 2 7 1 T 2 7 1 2.4.2. Pháp tấn công cửa biển Thuận An. Các Hiệp ước Harmand (1883) và T 2 7 1 Patenôtre(1884) ...............................................................................................................69 T 2 7 1 CHƯƠNG 3 : NGUYÊN NHÂN VIỆT NAM MẤT NƯỚC VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP (1858 - 1884) ......................................................................................... 73 T 2 7 1 T 2 7 1 3.1. Điểm lại một số nhận định. ......................................................................................73 T 2 7 1 T 2 7 1 3.2. Sai lầm trong quốc sách “trị nước” .........................................................................79 T 2 7 1 T 2 7 1 3.3. Sai lầm trong đường lối giữ nước .............................................................................88 T 2 7 1 T 2 7 1 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 93 T 2 7 1 T 2 7 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98 T 2 7 1 T 2 7 1 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 109 T 2 7 1 T 2 7 1 MỞ ĐẦU 1. Mục đích nghiên cứu Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam có một truyền thống dựng nước và giữ nước thật vẻ vang. Ngay từ buổi đầu dựng nước, trong suốt hơn một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ, người dân Việt đã thể hiện một ý chí quật cường mãnh liệt để thoát khỏi mưu đồ đồng hóa của các đế chế người Trung Hoa. Sau chiến thắng Bạch Đằng (938) của Ngô Quyền, quốc gia dân tộc Việt hồi sinh và tiếp tục phát triển. Những thế hệ con cháu đã không hổ thẹn với tiền nhân, tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang trong công cuộc giữ gìn, xây dựng và phát triển đất nước. Người Việt Nam có quyền tự hào về lịch sử oai hùng của mình với những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong quá khứ cũng như Điện Biên Phủ, Đại thắng mùa xuân 1975 ở thời hiện đại. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam cho đến thời Cận đại, trong quan hệ bang giao, tiếp xúc, chúng ta chỉ biết đến một Trung Hoa hùng mạnh ỏ phương Bắc hay các lân quốc phương Nam như Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm hoặc Lào ỏ phía Tây. Những cuộc va chạm. tiếp xúc này đều mang tính chất địa phương, khu vực giữa người Á Châu với nhau trong những điều kiên lịch sử xã hội có nhiều điểm tương đồng. Qua bao thăng trầm của lịch sử, nhất là những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm cực kỳ gay go, gian khổ, quốc gia Việt Nam xưa vẫn đứng vững và phái triển theo con đường riêng của mình. để lại bao dấu ấn oai hùng trong khu vực. Bước sang thế kỷ XIX, sau gần hai thế kỷ loạn lạc chiến tranh, Gia Long lên ngôi vua lập ra triều Nguyễn. Trong quá trình khôi phục ngai vàng, vua nhà Nguyễn đã nhờ đến sự trợ giúp của một thế lực hoàn toàn xa lạ với người Việt, đó chính là nước Pháp. Sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Pháp đã có từ thế kỷ XVII nhưng vì sao đến nửa sau thế kỷ XIX lại đi đến kết quả cuối cùng là Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp ? Vì sao một quốc gia có truyền thống anh hùng, quật cường chống ngoại xâm với một dân tộc thông minh can đảm như Việt Nam lại phải chịu cảnh nước mất nhà tan phải đau xót chấp nhận ách thống trị của thực dân Pháp trong suốt gần một thế kỷ ? Câu hỏi này được đặt ra bởi nỗi đau canh cánh trong lòng người dân Việt. Đã có nhiều nhà sử học trong và ngoài nước với nhiều cách tiếp cận vấn đề khác nhau cố công nghiên cứu để đi tìm lời giải đáp. Tuy nhiên, việc lý giải nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX cho đến nay vẫn là vấn đề thời sự và còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Chỉ biết rằng, thời kỳ lịch sử đau thương gian khổ nhưng tràn đầy khí phách anh hùng này của dân tộc Việt bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng đâu là nguyên nhân chính thì hình như vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp thật thỏa đáng. Thêm nữa. việc tìm hiểu vai trò của một vương triều như triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, đòi hỏi các nhà sử học phải tiếp tục dày công nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài tôi mong muốn có cái nhìn tiệm cận lịch sử hơn về vấn đề "Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (18021884). Không phải riêng nhà Nguyễn mà tất cả các vương triều trong lịch sử Việt Nam đều phải chú trọng hai vấn đề dựng nước và giữ nước khi lên cầm quyền trị nước. Tuy nhiên, khác với tất cả các triều đại trước đó trong lịch sử Việt Nam vương triều Nguyễn được thành lập đầu thế kỷ XIX trong một bối cảnh xã hội hết sức phức tạp, rối ren và đầy biến động. Sau một thời gian loạn lạc kéo dài hàng trăm năm, bước sang thế kỷ XIX xu thế phát triển của xã hội Việt Nam đang có những chuyển biến mới. Yêu cầu lịch sử đặt ra cho nhà Nguyễn không chỉ là khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa mà còn là giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ quốc gia thống nhất, từng bước củng cố tiềm lực quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại và đối phó với nguy cơ ngoại xâm. Yêu cầu này càng trở nên cấp thiết cho các vua đầu của triều Nguyễn như Gia Long (1802 - 1819), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 1847), Tự Đức (1848 - 1883). Trước các yêu cầu trên của lịch sử, Nhà nước Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ XIX đã có những chính sách gì trong cả nội trị lẫn ngoại giao để đáp ứng? Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam bấy giờ, liệu có thể nào tránh được cuộc xâm lược của thực dân Pháp? Và cuối cùng, Việt Nam có hay không hy vọng giữ được chủ quyền dân tộc, nếu có đối sách thích hợp? Là một giáo viên phổ thông, tôi rất quan tâm đến vấn đề tìm hiểu nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX cũng như vai trò của vương triều Nguyễn với tư cách là thế lực cầm quyền trị nước trong sự kiện lịch sử này. Những năm gần đây, trong không khí đổi mới và hội nhập, không ít nhà nghiên cứu đặt lại vấn đề hoặc thay đổi trong cách nhận định, đánh giá về triều Nguyễn trong nhiều lĩnh vực. Một giáo viên trung học, nếu không nắm vững kiến thức về vấn đề mình đang giảng dạy, sẽ gặp không ít khó khăn trong việc truyền đạt kiến thức, vì học sinh ở cấp học này đã lớn, các em rất nhạy cảm và khá sắc bén trong nhận thức lại cỏ điều kiện tiếp xúc với nguồn thông tin khổng lồ qua mạng Internet, nên thường đặt nhiều câu hỏi không dễ trả lời nhất là những vấn đề liên quan đến vương triều Nguyễn. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề trên không chỉ là nhu cầu cần thiết đối với người viết mà còn phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy ở bậc phổ thông. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các tư liệu gốc của hai phía Việt - Pháp cũng như kế thừa các thành quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi hy vọng có thể góp phần làm sáng tỏ các vấn đề đã nêu. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam có vị trí đặc biệt vì nó tồn tai suốt từ cuối thời trung đại sang hết thời cận đại - mội thời kỳ đầy sóng gió trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn là sản phẩm của hàng trăm năm lịch sử đầy thăng trầm, mở đầu là vai trò của các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, phát triển cương vực vào phía Nam từ thế kỷ XVI, sau đó là quá trình khôi phục ngai vàng gian nan vất vả, lập nên vương triều Nguyễn, rồi cuối cùng là đánh mất tất cả những gì gầy dựng bao năm trời sau khi để mất nước vào tay Pháp cuối thê kỷ XIX. Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (1802— 1884)”, tôi có thuận lợi trong việc tiếp cận nhiều nguồn tài liệu phong phú. Nguồn tư liệu gốc mà chúng tôi dựa vào để nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài chủ yếu là các bộ sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như Đại Nam thực lục chính biên hay các bản châu phê của các vua Nguyễn, đặc biệt là Châu bản thời Tự Đức (1848 - 1883).... , Đại Nam thực lục chính biên là bộ sử lớn về triều đại nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phần ghi chép về thời kỳ nhà Nguyễn khôi phục vương triều đến giai đoạn mất nước (1802 - 1884) thuộc các tập từ tập II đến tập XXXVII, được chia làm 4 kỷ theo 4 triều vua: đệ nhất kỷ (Gia Long), đệ nhị kỷ (Minh Mệnh), đệ tam kỷ (Thiệu Trị), đệ tứ kỷ (Tự Đức). Do giới hạn đề tài trong khoảng thời gian từ 1802 – 1884, nên trong quá trình tìm hiểu quốc sách trị nước của các vua triều Nguyễn, người viếi phải quan tâm đến các vấn đề kinh tế, chính trị. xã hội, ngoại giao... của các triều đại từ Gia Long đến Tự Đức. Với lối viết sử biên niên, ghi chép đầy đủ các sự kiện, chiếu chỉ, sắc dụ, bộ sách này đã cung cấp tương đối đầy đủ về các vấn đề mà người viết quan tâm. Nguồn lư liệu quan trọng để biên soạn Đại Nam thực lục chính biên chính là các châu bản của triều Nguyền do Nội các lưu giữ, gồm bản chính của các loại giấy tờ, công văn, chỉ, dụ, tập tấu của các bộ gửi đi địa phương và từ các địa phương gửi về triền đình..., đã được vua "ngự lãm" và "ngự phê" bằng bút son nên đảm bảo tính đương thời và chân xác của sử liệu. Vua Minh Mạng đã cho xây nhà Đông các (1826) để lưu giữ các văn thư trên. Đến triều Tự Đức, châu bản phần lớn được giao cho Quốc sử quán giữ gìn để biên soạn các bộ sử như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ... Tiếc rằng do điều kiện chiến tranh, loạn lạc... , các châu bản thời Gia Long đến Thiệu Trị đã bị thất lạc, hư hỏng rất nhiều, chỉ còn khoảng một phần năm so với trước, chủ yếu là các châu bản thời Tự Đức (chiếm 352 tập trong tổng số 611 tập). Năm 1978, thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập một nhóm biên soạn gồm Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh và Tạ Quang Phát, tiến hành tuyển chọn và biên soạn nội dung mội số châu bản có giá trị viết bằng chữ Nôm và chữ Hán dưới triều Tự Đức nhằm phục vụ kịp thời cho các chuyên đề nghiên cứu liên quan. Tập châu bản tuyển chọn này được Trung tâm nghiên cứu Quốc học Huế xuất bản năm 2003, giúp người nghiên cứu có điều kiện tiếp xúc với nguồn tư liệu gốc, có tính chuẩn xác cao về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao... của Việt Nam có liên quan đến thời kỳ mất nước. Bên cạnh đó, từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, xuất hiện nhiều công trình chuyên khảo đề cập đến vấn đề thực trạng xã hội và nguyên nhân Việt Nam mất nước vào nửa sau thế kỷ XIX. tiêu biểu là: Nhà sử học Trần Văn Giàu đã dày công nghiên cứu về thực trạng xã hội Việt Nam thời Nguyễn, qua đó đề cập đến nguyên nhân mất nước với các tác phẩm: Chống xâm lăng: Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1898 (1956), nhà xuất bản Xây Dựng, Hà Nội; Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858: Sơ khảo, nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội. 1958; Lịch sử cận đại Việt Nam (1959), tập I, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội; Lịch sử Việt Nam từ 1858 – 1898: Sự phát triển của tự tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, Tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại cửa nó trước các nhiệm vụ lịch sử (1973), nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội... . Các tác phẩm trên cung cấp cho người nghiên cứu nguồn tài liệu phong phú cũng như nhiều ý kiến xung quanh các vấn đề liên quan đến nhà Nguyễn, từ các chính sách cai trị nước đến " một phần của loại nguyên nhân bên trong làm cho đất nước chúng ta bị sứt mẻ một cách nghiêm trọng" vào nửa sau thế kỷ XIX. Đặc biệt, trong Tạp chí Xưa và Nay (2003), từ số 148 đến 151, giáo sư Trần Văn Giàu đã viết một loạt bài tiêu đề: “Luận về những nguyên nhân Viêt Nam mất nước vào tay Pháp”. Trong bài viết, giáo sư đưa ra 10 kiến giải về những nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước về tay Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Đây là những ý kiến quý háu để người viết tham khảo khi thực hiện đề tài. Năm 1967, Nhà xuất bản Trình Bầy phát hành tác phẩm “Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ” nhằm tìm hiểu truyền thống dân tộc đồng thời soi sáng cho hậu thế về nguyên nhân của thảm họa mất nước trong lịch sử Việt Nam Cận đại. Trong tác phẩm, các tác giả như Nguyễn Khắc Ngữ lý giải những lý do khiến Pháp can thiệp vào Việt Nam, Trần Trọng Phủ nghiền ngẫm về một giai đoạn mất nước của Việt Nam, Lý Chánh Trung lại bày tỏ những suy nghĩ về hai chữ “mất nước”... Dù ý kiến của các tác giả vẫn cần thêm những kiến giải khoa học nhưng cũng để lại cho người đi sau nhiều suy nghĩ về cách tiếp cận và lý giải vấn đề. Năm 1970, tác giả Trần Nguyên Khôi trình luận án tốt nghiệp Cao học lịch sử tại Sài Gòn với đề tài Thực trạng xã hội Việt Nam dưới triều Tự Đức (1847 - 1883). Trong luận án, khi tìm hiểu về giai đoạn mất nước trong lịch sử Việt Nam, Trần Nguyên Khôi đề cập đến nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội. ngoại giao... dưới thời Tự Đức. Tác giả cho rằng, dưới triều Tự Đức vua quan và các sĩ phu đã không chịu làm cuộc cách mạng để đổi mới đất nước theo lối mới nên đất nước phải chịu cảnh lạc hậu, yếu hèn, phải chấp nhận thất bại trước sức mạnh của kỹ nghệ phương Tây. Hay nói cách khác sự trì trệ của chế đô phong kiến Việt Nam thời Nguyễn, nhất là dưới triều Tự Đức, đã khiến tiềm lực quốc gia dân tộc suy yếu, không thể chống cự với nền văn minh phương Tây hùng mạnh được sự hỗ trự của một nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Lý giải của tác giả xét về nhiều khía cạnh cũng rất có lý và đáng để suy ngẫm. Ngoài ra, người viết còn được tiếp xúc và kế thừa nhiều tác phẩm của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài như Bùi Ọuang Tung (1958) với Nước Việt Nam trên con đường suy vong (1858 - 1884). Văn hoá Á châu số ngày 03.06.Ỉ958 Paul Isoart (1961) và cuốn Hiện tượng dân tộc Việt Nam "từ nền độc lập thống nhất đến nền độc lập bị chia cắt ". Paris: Phạm Vãn Sơn (1961 - 1962) với Việt sử tân biên, Quyển IV: Việt Nam kháng Pháp sử, Sài Gòn: Nguyễn Thế Anh (1971) với tác phẩm Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, nhà xuất bản Lửa Thiêng, Sài Gòn: Phan Khoang (1971 ), Việt Nam Pháp thuộc sử (1862 - 1945), Sài Gòn.... Qua các tác phẩm trên, người viết có điều kiện xem xét các vấn đề liên quan đến đề tài từ nhiều khía cạnh, nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong điều kiện đất nước đổi mới, mối quan hệ giao lưu và hợp tác mở rộng, tôi còn có điều kiện tiếp cận với rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. Năm 1990, nhà xuất bản Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tác phẩm “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” của giáo sư người Nhật Yoshiharu Tsuboi. Với nguồn sử liệu phong phú ở Đông Kinh (Nhật Bản). Aix-enProvence (Pháp)..., tác giả đề cập đến một giai đoạn suy đốn trong lịch sử cận đại Việt Nam, đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Thông qua mối quan hệ giữa Việt Nam với Pháp và Trung Hoa thời cận đại cũng như tình hình xã hội Việt Nam bấy giờ dù không trực tiếp, .nhưng tác giả cũng lý giải phần nào nguyên nhân Việt Nam mất nước vào nửa sau thế kỷ XIX. Năm 1997, một đề tài khoa học cấp nhà nước nghiên cứu về triều Nguyễn được các tác giá Đỗ Bang, Nguyễn Danh Phiệt, Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân xuất bản là Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn mai đoạn 1802 – 1884, khẳng định mối quan tâm của giới nghiên cứu xung quanh các vấn đề nghiên cứu về nhà Nguyễn. Trong tác phẩm, các tác giả đưa ra nhiều kiến giải về tình hình xã hội không ổn định dưới triều Nguyễn, mở ra một hướng mới cho người nghiên cứu về thực trạng xã hội Việt Nam thời kỳ này. Qua các tác phẩm, có thể nhận thấy, trước đây có hai luồng ý kiến trái ngược nhau trong việc nhận định vai trò của vương triều Nguyễn trong lịch sử: - Thứ nhất, hết lời phê phán, xem triều Nguyễn là triều đại phản động, đi ngược quy luật phát triển của lịch sử, dựa vào ngoại bang để tiêu diệt nhà Tây Sơn “cõng rắn cắn gà nhà”, rồi sau đó trong quá trình chống Pháp lại “sợ dân hơn sợ giặc”, bán rẻ đất nước cho Pháp để bảo toàn quyền lợi ngai vàng và dòng họ... Từ quan điểm có nhiều định kiến này, các tác giả có phần thiên về khai thác những mặt tiêu cực, hạ thấp hoặc phủ nhận những mặt tích cực của vương triều Nguyễn trong lịch sử. - Thứ hai, cố gắng biện minh cho hành động cầu viện của Nguyễn Ánh, xem đấy là “biện pháp tình thế” chẳng đặng đừng. Hơn thế nữa. các tác giả theo quan điểm này có xu hướng khen ngợi nhà Nguyễn trong việc thực hiện các chính sách trị nước tích cực trên nhiều phương diện, có tác dụng thực tiễn đối với tình hình Việt Nam thời bấy giờ; hoặc khen vua Gia Long sáng suốt, vua Minh Mạng anh minh, vua Tự Đức hiếu thảo...và cho rằng việc Việt Nam mất nước là "quy luật tất yếu của lịch sử" chứ không phải do lỗi của triều Nguyễn. Trong những năm gần đây, do tác động của nhiều yếu tố, một số nhà nghiên cứu trước đây từng nặng lời phê phán triều Nguyễn nay đã thay đổi quan niệm nhận thức, chuyển sang phê phán hoặc khen ngợi có cân nhắc trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tư liệu phong phú, hoặc đề cao quá mức những thành tựu của vương triều Nguyễn theo trào lưu chung. Bên cạnh các luồng ý kiến trên còn xuất hiện luồng ý kiến thứ ba dựa trên những tư liệu lịch sử mới đáng tin cậy, đã cho thấy những quan điểm mới xung quanh việc đánh giá, nhìn nhận về vương triều Nguyễn. Các tác giả trên, do nhiều điều kiện khác nhau, đã tiếp xúc được nhiều nguồn tài liệu mới, đáng tin cậy từ các kho lưu trữ ở Việt Nam và Pháp, cung cấp cho người nghiên cứu nguồn sử liệu phong phú. Do quan điểm lịch sử khác nhau. mỗi tác giá có cách nhận định, lý giải khác nhau về các sự kiện lịch sử", nhưng nguồn tài liệu do họ cung cấp là hết sức quý giá và đáng tin cậy. Đáng kể là: - Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ và tác phẩm Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thông thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858 - 1897) do chính tác giả dịch từ nguyên bản Les débuts de 1'installation du système colonial franscais au Viet Nam (1858 -1897). Tác giả Nguyễn Xuân Thọ là tiến sĩ văn chương đại học Sorbonne, Paris, là cựu viên chức ngành ngoại giao, từng làm việc trong các cơ quan trung ương của Bộ ngoại giao Pháp (Quai d' Orsay, Paris), tại Tòa đại sứ quán Pháp ỏ Tây Ban Nha. ở Madrid... Do điều kiện sinh sống và làm việc, tác giả có điều kiện tiếp xúc với nguồn tư liệu khổng lồ và quý giá, trong đó có nhiều tư liệu quý chưa từng được công bố khai thác từ kho tư liệu của Bộ ngoại giao Pháp, Bộ Ngoại Vụ Tây Ban Nha, các Bộ Hải Quân, Bộ Thuộc Địa Pháp cũng như các sử liệu hiếm hoi về Việt Nam mà người Pháp đang lưu trữ rải rác khắp các kho lưu trữ trên đất Pháp. Từ nguồn tài liệu trên, năm 1956, tác giả đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Sorbonne với đề tài “Cuộc viễn chinh Pháp Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam năm 1858 - 1862”và được xếp hạng “Tối ưu” (Très Honorable). Sau đó, tác giả tiếp tục dày công nghiên cứu để dựng lại giai đoạn lịch sử bi tráng của Việt Nam từ 1858 - 1897. Từ tác phẩm này, qua các sử liệu quý, tác giả đã giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa Pháp và Việt Nam ở thế kỷ XIX, cũng như hiểu rõ hơn về tấn thảm kịch đã xảy ra trên mảnh đất quê hương trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo. - Giáo sư Nguyễn Phan Quang với tác phẩm Việt Nam thế kỷ XIX (1802 -1884), nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002. Vì có điều kiện tiếp xúc với nguồn tư liệu gốc trong các kho lưu trữ ở Paris, Aix-en-Provence..., kết hợp với nguồn tư liệu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh), tác giả đã cung cấp cho người nghiên cứu một nguồn tài liệu phong phú và bổ ích. Bên cạnh việc nghiên cứu sử liệu gốc, để thực hiện tác phẩm, tác giả còn dành nhiều năm thu thập các nguồn tư liệu thư tịch và các tư liệu điền dã khắp từ bắc đến nam. Nhờ đó, tác giả đã có những bổ sung, đính chính quan trọng từ các nguồn tư liệu địa phương. Qua tác phẩm, tác giả đã có ý thức để các sử liệu “tự lên tiếng”, tránh đưa ra các nhận định áp đặt. Vì thế, người nghiên cứu có thể tiếp cận các nguồn sử liệu phong phú của tác phẩm để có cái nhìn tiệm cận hơn về các vấn đề lịch sử xã hội Việl Nan) nửa cuối thê kỷ XIX.. - Năm 2001, tác giả Thái Hồn Sĩ đã đạt giải thưởng Trần Văn Giàu với công trình nghiên cứu Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873), tác phẩm được nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cùng năm. Sau 10 năm dày công nghiên cứu nhiều tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Tri Phương, đặc biệt là các báo cáo phúc trình và thư từ của các viên tướng Pháp trực tiếp điều khiển cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lúc bấy giờ, tác phẩm có thể giúp người nghiên cứu hiểu rõ thêm về Nguyễn Tri Phương nói riêng và triều Nguyễn nói chung trong giai đoạn lịch sử có liên quan đến đề tài. Năm 2003, Nhà xuất bản Tôn giáo (Hà Nội) xuất bán tác phẩm: “Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam ( 1857-1914)”của tác giả Cao Huy Thuần. Tác phẩm là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại học Paris năm 1969 (Christianisme et colonialisme au Vict Nam, 1857- 1914). Trước đây tác phẩm đã được dịch và phổ biến ở Việt Nam và Hoa Kỳ nhưng bản dịch còn nhiều sai sót, ngoài tầm hay biết của tác giả. Được sự bảo trợ của Đại học Yale, năm 1990, tác giả xuất bản tác phẩm nguyên văn bằng tiếng Pháp với nhan đề “Les missionnaires et la politique coloniale francaise au Viet Nam, 1857- 1914”. Năm 1999, Nguyên Thuận đã dịch tác phẩm trên sang tiếng Việt và nhà xuất bản Tôn giáo đã cho phát hành tác phẩm vào năm 2003. Dù ra đời cách nay hơn 30 năm nhưng tác phẩm vẫn mang tính thời sự vì chứa đựng trong nó một kho tàng tài liệu lịch sử phong phú. nhất là trong việc nghiên cứu lịch sử mất chủ quyền của Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX.. - Cũng trong năm 2003, Viện Khoa học xã hội Việt Nam xuất bản tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1897, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là một tác phẩm nghiên cứu chi tiết về lịch sử Việt Nam trong quá trình mất nước vào tay thực dân Pháp. Trong tập sách, các tác giá đã cố gắng khai thác các nguồn tư liệu mới đồng thời đưa ra những nhận định mới về cuộc đụng độ đầu tiên giữa Việt Nam với một kẻ thù phương Tây, nhằm góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn từ 1859 đến 1896. Vấn đề “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (1802 1884)” là một khía cạnh hẹp, chuyên sâu vào một lĩnh vực cụ thể nhưng chứa đựng nhiều nội dung đan xen phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu phải hết sức thận trọng trong việc tìm hiểu các mối dây liên hệ giữa các sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ vấn đề. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của những người đi trước và tiếp xúc với các tư liệu gốc của phía Việt Nam cũng như các tư liệu mới đáng tin cậy trong kho lưu trữ của Pháp, hy vọng bản luận văn sẽ góp phần hệ thống các nguồn tư liệu phong phú, giúp người nghiên cứu nhìn nhận một cách tương đối khách quan về đề tài, làm cơ sở cho việc đi sâu nghiên cứu vấn đề trong tương lai. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài “Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp (1802 -1884)” là lĩnh vực nhỏ, chuyên biệt trong việc nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn. Bản thân vấn đề đã tạo sự giới hạn nhất định cho đề tài, do mốc thời gian 1802 đánh dấu thời kỳ Vương triều Nguyễn chính thức thành lập và cai trị trên toàn cõi Việi Nam, đến năm 1884, khi triều Nguyễn kết thúc thời kỳ thống trị nhà nước độc lập, tự chủ. phải chấp nhận sự "bảo hộ" của Pháp. Thông qua mốc giới hạn thời gian này, người viết muốn xem xét vấn đề trong bối cảnh vương triều Nguyền thực sự nắm quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam và có điều kiện thực hiện ý định chủ quan của họ trên nhiều lĩnh vực nhằm đối phó với các thách thức của thời đại ở nửa sau thế kỷ XIX.. Luận văn chủ yếu tập trung giải quyết các nội dung chính! 1. Bối cảnh thế giới và khu vực nửa sau thế kỷ XIX trong xu hướng bành trướng của chủ nghĩa thực dân. Chủ thể nghiên cứu là vương triều Nguyễn với các chính sách nhằm củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến đổi với những nguy cơ mất nước đang tiềm ẩn. 2. Tiến trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Thông qua tổng hòa những mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử, các chính sách của vương triều Nguyễn, các mối quan hệ Việt Nam - Pháp, các hiệp ước được ký kết từ khi Pháp xâm lược Việt Nam đến khi Việl Nam mất nước vào tay thực dân Pháp để làm sáng tỏ vấn đề. 3. Thử lý giải nguyên nhân Việt Nam mất nước cuối thế kỷ XIX trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các tư liệu gốc của hai phía Việt - Pháp cũng như kế thừa các thành quả nghiên cứu của người đi trước. 4. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tôi sử dụng hai phương pháp cơ bản trong nghiên cứu lịch sử là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời vận dụng phương pháp liên ngành, nhằm phối hợp kiến thức của các ngành khoa học có liên quan đến đề tài như triết học, quân sự, kinh tế, xã hội... Từ nguồn tư liệu có liên quan, chúng tôi xác định đề tài theo quan niệm tư liệu quyết định nội dung nghiên cứu, thực trạng tư liệu đã quy định trực tiếp cách hình thành bố cục và các lập luận. Chủ đề chính của luận văn là thông qua thực trạng xã hội Việt Nam trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực nhằm tìm hiểu nguyên nhân mất nước cuối thế kỷ XIX. Trong tiến trình khai thác và xử lý tư liệu, chúng tôi vận dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử tiếp cận hệ thống : Đặt triều Nguyễn trong bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX để nghiên cứu. Nhà Nguyễn thiết lập vương triều trong bối cánh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Đây là thế kỷ chủ nghĩa thực dân bành trướng khắp thê giới theo quy luật phát triển của chủ nghĩa đế quốc, các quốc gia trong khu vực đều đứng trước nguy cơ mất nước. Hơn thế nữa, trong quá trình khôi phục ngai vàng, họ Nguyễn đã có sự tiếp xúc để lại nhiều hệ lụy phức tạp với người Pháp. Vì thế, khi nghiên cứu vấn đề, không thể không xem xét chủ thể vương triều Nguyễn trong bối cảnh lịch sử cụ thể của khu vực châu Á và Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX và việc thực thi “quốc sách” cai trị nhằm đối đầu với các thách thức của thời đại. Để xác định nguyên nhân mất nước, bên cạnh phương pháp lịch sử, chúng tôi sử dụng phương pháp logic, là phương pháp xem xét vấn đề theo quan điểm vận động. phát triển theo quy luật nội tại của nó, trong mối liên hệ phổ biến với các vấn đề khác nhằm làm sáng tỏ vấn đề muốn nghiên cứu. Thông qua các chính sách đối nội và đối ngoại của vương triều Nguyễn từ 1802 đến 1884, xác định xem trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể bấy giờ, việc mất nước phải chăng là hậu quả của một quá trình cai trị với các chính sách chưa phù hợp với yêu cầu lịch sử hay do nguyên nhân nào khác. Tuy nhiên, giữa mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu và năng lực thực tế của cá nhân tôi còn có một khoảng cách không nhỏ, đề tài nghiên cứu của tôi chắc chắn sẽ tồn tại không ít sai sót. kính mong quý Thầy cô và các bạn đồng học góp ý xây dựng. 5. Đóng góp mới của luận văn - Tập hợp sử liệu có giá trị để nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng và nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay Pháp (1802 - 1884), một đề tài đến nay vẫn là vấn đề thời sự của các nhà nghiên cứu sử học. - Khai thác, phân tích các sử liệu gốc cũng như kế thừa những thành quả của người đi trước, luận văn cố gắng tiệm cận với chân lý lịch sử và có những nhận định khách quan hơn về nội dung đề tài. - Trong quá trình thực hiện đề tài, với nhiều cách tiếp cận tài liệu khác nhau, đặc hiệt là những nguồn tư liêu mới của các học giả trong và ngoài nước, luận văn đã làm phong phú thêm về mặt tư liệu, tranh ảnh, bản đồ liên quan đến đề tài, từ đó có những kiến giải tiệm cận hơn với chân lý lịch sử về nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm có phần mở đầu, 3 chương nội dung, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. MỞ ĐẦU gồm : 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài và nguồn tư liệu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp mới của luận văn. 6. Cấu trúc luận vãn NỘI DUNG : gồm ba chương - Chương 1: Thực trạng xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX – tiềm ẩn những nguy cơ mất nước Trong chương này, tác giả luận văn chủ yếu đề cập đến bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam ở thế kỷ XIX cùng những thách thức của lịch sử. Thông qua việc phác họa “quốc sách” trị nước của triều Nguyễn, tìm hiểu xem với những chính sách đối nội đối ngoai của mình. Nhà nước Nguyễn đã đáp ứng như thế nào trước nguy cơ mất nước nhằm củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc, qua đó có thể bảo vệ vững chắc an ninh quốc phòng của tổ quốc. - Chương 2: Thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam (1858 - 1884) Nội dung chính của chương này đề cập đến giai đoạn lịch sử mất nước của Việt Nam. Thông qua thái độ và biện pháp đối phó với ngoại xâm của triều Nguyễn để lý giải nguyên nhân mất nước cũng như trách nhiệm của vương triều Nguyễn với tư cách thế lực cầm quyền trị nước - trong việc để mất chủ quyền dân tộc vào tay Pháp. - Chương 3: Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay Pháp. Đây là chương trọng tâm của đề tài. Một mặt tác giả điểm lại những nhận định, kiến giải của những người đi trước có liên quan đến đề tài, mặt khác, trên cơ sở các sử liệu khoa học đã nêu, trình bày những nhận định chủ quan của riêng mình trong việc giải quyết đề tài. Hy vọng bản Luận văn của tôi trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu trước đây và cập nhật một số tư liệu mới, có thể đóng góp thêm một số nhận định mới xung quanh việc giải quyết đề tài. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1. Các hiệp ước 1789, 1862, 1874. 1883, 1884 2. Bản đồ và tranh ảnh minh họa CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX - TIẾM ẨN NHỮNG NGUY CƠ MẤT NƯỚC 1.1. Xu hướng bành trướng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và mưu đồ xâm chiếm Việt Nam của Pháp. Vào đầu thế kỷ XVI, đa số các nước tư bản phương Tây trên bước đường phát triển mạnh từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhu cầu về thị trường, thuộc địa và cơ sở thương mại tăng cao, đều đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược khắp nơi trên thế giới, trong đó vùng châu Á đông dân nhiều của không thể là một ngoai lệ. Trong trào lưu mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân từ Tây sang Đông, đa số các nước châu Á lúc này đang chìm đắm trong quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, không muốn mở cửa bang giao với phương Tây. Chính sách “bế quan tỏa cảng”, từ chối thông thương và “cấm đạo”của đa số các nước châu Á không thể làm các nước châu Âu thỏa mãn tham vọng mở rộng thị trường. Đây chính là nguyên cớ của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược mà thực dân phương Tây tiến hành ở châu Á. Trong cuộc chiến này, không ít các nước trong khu vực, kể cả các quốc gia lớn mạnh có nền văn minh văn hóa cao như Ấn Độ, Trung Hoa...đã lần lượt gánh chịu thất bại, trở thành thuộc địa của các nước đế quốc trong những chừng mực khác nhau. Tuy nhiên, trước xu thế bành trướng của chủ nghĩa thực dân-đế quốc vẫn có một vài nước không những thoát khỏi số phận bị lệ thuộc mà còn phái triển mạnh về mọi mặt, trở thành một cường quốc thế giới, như hiện tượng Nhật Bản. Điều này chứng tỏ rằng, việc một nước có bị rơi vào vòng lệ thuộc hay không là do nhiều nguyên nhân khác nhau trong những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể, do các tác động qua lại giữa từng nước với khu vực và thế giới. Giữa lúc tình hình quốc tế và khu vực có nhiều chuyển biến thì Việt Nam, một quốc gia có tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý chiến lược quan trọng không thể tránh khỏi bị phương Tây dòm ngó. Nhà cầm quyền Việt Nam bấy giờ đã có biện pháp gì để đối phó với tình thế nguy hiểm này, nhất là khi họ đã sớm biết sức mạnh của các quốc gia phương Tây thông qua nước Pháp? Sau cách mạng Pháp 1789 – 1794, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp phát triển nhanh chóng cùng với việc xác lập chế độ tư bản. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. nước Pháp vươn lên vị trí thứ hai thế giwois về kinh tế (sau Anh). Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa kéo theo nhu cầu gia tăng về thuộc địa cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Từ xu hướng bành trướng thương mại và kinh tế đến cuộc xâm lược và đô hộ về chính trị không xa. Trước xu thế này, vùng đất phương Đông huyền ảo giàu có vàng bạc, ngọc ngà, tơ lụa, hương liệu... có sức cuốn hút mạnh mẽ, trở thành mục tiêu chinh phục quan trọng của các nước đế quốc (Anh. Pháp, Tây Ban Nha. Hà Lan). Trong cuộc chạy đua đến phương Đông, Anh là nước đi đầu, có thế lực và ảnh hưởng mạnh ở châu Ả. còn Pháp cu ne không hề muốn cố vị thế quá kém ở khu vực này. Sang nửa đầu thế kỷ XIX, nước Pháp đang từng bước phát triển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng sức mạnh kinh tế của Pháp trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa đã tụt xuống hàng thứ tư. Chính vì vậy, nhu cầu tìm kiếm thuộc địa, mở rộng thị trường và phát triển các cơ sở thương mại của Pháp ngày một tăng cao. Lúc này Pháp đã có một số thuộc địa ở Bắc Phi nhưng đa số là đất xấu. dân ít và đói khổ, không phải là thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng. Sau chiến tranh Crimé, ảnh hưởng của Pháp đã rộng hơn ở Trung Đông và Balkans nhưng Pháp vẫn gặp nhiều khó khăn với người Thổ Nhĩ Kỳ. Syriè và Lyban cũng nổi lên chống Pháp. Vì vậy, Pháp phải hướng về châu Á và Thái Bình Dương, Việt Nam. với người Pháp, vừa là một thị trường hứa hẹn vừa giúp Pháp mở đường thông thương sang Hoa Nam (Trung Quốc), Lào, Campuchia và Thái Lan. Trong cuộc chạy đua với các thế lực tư bản phương Tây, thực dân Pháp cuối cùng đã bám sâu vào Việt Nam. thông qua các quan hệ cũ và đặc biệt là các hoạt động của Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp. Âm mưu xâm lược của Pháp đối với nước ta đã có từ lâu. Hòa ước Versailles (1787) đã tạo cớ cho nước Pháp dòm ngó Việt Nam. Trong âm mưu này, người ta thấy có sự can dự của các thương nhân và giáo sĩ thừa sai. Các giáo sĩ thừa sai Pháp hoạt động ở Việt Nam trong giai đoạn này đã từng bước thiết lập những cơ sở thuận tiện cho bước chân xâm lược của thực dân Pháp sau này. Đến giữa thế kỷ XIX. khi có đủ điều kiện thuận lợi, người Pháp bắt đầu chú ý đến Việt Nam, vùng đất có vị trí chiến lược về thương mại và thị trường ở khu vực Đông Nam Á. Chiếm Việt Nam, Pháp có thể tìm đường sang Hoa Nam, Lào, Cao Miên, Thái Lan.... đồng thời có thể dùng nơi đây làm trạm trung chuyển của tàu thuyền từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Nguy cơ bị phương Tây xâm lược là có thực nhưng có nhất thiết là có nguy cơ thì ắt sẽ bị xâm lược và cứ bị xâm lược ắt sẽ trở thành thuộc địa? Từ nguy cơ đến hiện thực không phải là một khoảng cách ngắn, khoảng cách này có bị thu hẹp hay không phụ thuộc vào tiềm lực kháng cự của mỗi dân tộc. Tiềm lực này có hiệu quả hay không phải xem xét đến đường lối trị nước của các lực lượng thống trị của mỗi nước? Thực tế lịch sử đã chứng minh, một số nước châu Á như Nhật Bản hay Xiêm cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược như Việt Nam nhưng với những đối sách thích hợp họ đã từng bước thoát khỏi số phận thuộc địa, thậm chí còn trở thành một quốc gia hùng mạnh như trường hợp Nhật Bản. Riêng tình hình Việt Nam đầu thế kỷ XIX ra sao ? 1.2. Thực trạng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX và yêu cầu khách quan của lịch sử. Cuối thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, các nước thực dân phương Tây đã bắt đầu quan tâm đến việc xâchiếm và thiết lập thuộc địa ở phương Đông, trong đó Bồ Đào Nha là nước đi tiên phong. Tuy nhiên, những bước đi của người Bồ Đào Nha khá thận trọng do gặp phải sự phản kháng quyết liệt của người địa phương cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các cường quốc khác. Vì thế, cuộc xâm chiếm của phương Tây ở phương Đông lúc này mang tính thăm dò vì mục tiêu thương mại là chính, nên các nước trong khu vực vẫn chưa ý thức được hiểm nguy đang rình rập. Sang thê kỷ XVIII, sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy cuộc chạy đua tranh giành thị trường, thuộc địa. Trong cuộc chạy đua tìm kiếm thuộc địa ở châu Á, người Anh và người Pháp dần dần xác lập vị trí hàng đầu, loại bỏ các đối thủ kỳ cựu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ra khỏi cuộc đua các nước
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất