ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
MAI THỊ HỒNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH DỰ BÁO SỰ NỞ HOA CỦA TẢO
ĐỘC HẠI TRONG AO NUÔI TÔM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý Tài nguyên và Môi trường
Đà Nẵng - 2022
i
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
MAI THỊ HỒNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH DỰ BÁO SỰ NỞ HOA CỦA TẢO
ĐỘC HẠI TRONG AO NUÔI TÔM
Chuyên ngành: Quản lý Tài nguyên và Môi trường
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Võ Văn Minh
Đà Nẵng - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan các dữ liệu trình bày trong khóa luận này là trung thực. Đây là
kết quả nghiên cứu của tác giả dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Võ Văn Minh và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác trước đây. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm nếu vi phạm bất kỳ quy định nào về đạo đức khoa học.
Tác giả
Mai Thị Hồng
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
các thầy Võ Văn Minh, thầy Trịnh Đăng Mậu đã hướng dẫn tôi tận tình trong suốt
thời gian thực hiện. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Sinh – Môi Trường, trường Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng đã tạo điều
kiện để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các anh/ chị: Trần
Thị Tường Vy, Phan Nhật Trường, Dương Quang Hưng, Đinh Công Duy Hiệu và
các bạn là thành viên của nhóm nghiên cứu ABR, các bạn là sinh viên lớp 18CTM
đã giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
3
LỜI CẢM ƠN
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
7
DANH MỤC BẢNG BIỂU
8
DANH MỤC HÌNH ẢNH
9
TÓM TẮT
10
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu đề tài
2.1 Mục tiêu tổng quát
2.2 Mục tiêu cụ thể
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
4. Nội dung nghiên cứu
1
1
3
3
3
4
4
4
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.3.1. Trên Thế giới
1.3.2. Ở Việt Nam
5
7
7
9
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
12
2.2 Phương pháp nghiên cứu
13
2.2.1 Phương pháp thu mẫu
13
2.2.2 Phương pháp phân tích mẫu
14
2.2.3 Phương pháp đánh giá tình trạng chất lượng môi trường ao nuôi bằng
chỉ số TRIX
15
2.2.4 Phương pháp xây dựng mô hình dự báo dựa trên mô hình BMA
16
2.2.5 Phương pháp xử lý số liệu
16
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Đánh giá chất lượng môi trường nước ao nuôi tôm theo thời gian
3.2 Thành phần loài và cấu trúc quần xã tảo độc hại theo thời gian
3.2.1 Thành phần loài tảo theo thời gian
3.2.2 Cấu trúc thành phần loài
3.2.3 Mật độ tảo độc hại theo thời gian
iii
18
18
21
21
23
24
3.3 Phân tích mối tương quan giữa cấu trúc thành phần loài tảo với các thông số
chất lượng môi trường nước
26
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
29
29
29
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
1
N
2
P
3
TN
Tổng Nitơ
4
TP
Tổng photpho
5
BMA
Mô hình hồi quy tuyến tính bằng phương
pháp Bayes
6
GBM
Thuật toán Gradient Boosting
7
DNA
DeoxyriboNucleic Acid
8
ANN
Mạng lưới nhân tạo
9
CCA
10
TDS
11
DO
12
Diễn giải
Nito
Photpho
Phân tích tương quan Canonical
Tổng chất rắn hòa tan
Oxy hòa tan
ECOHABs Sinh thái học đối với tảo gây hại nở hoa
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng
Tiêu đề bảng
Trang
2.1.
Phương pháp phân tích các thông số môi trường
12
3.1.
Chỉ số TRIX đã phân tích được
18
vi
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình
Tiêu đề hình
2.1.
Ao thu mẫu
2.2.
Bản đồ thu mẫu theo các vị trí tương ứng, trong đó M1: mẫu
1, M2: mẫu 2, M3: mẫu 3, M4: mẫu 4, M5: mẫu 5.
3.1.
Phân tích thành phần chính của các thông số môi trường nước
theo thời gian
3.2.
Sự biến động TN theo thời gian
3.3.
Vi tảo loài Oocystis sp.
3.4.
Cấu trúc thành phần loài tảo tại khu vực nghiên cứu
3.5.
Biến động mật độ tảo độc hại theo thời gian
3.6.
Mối tương quan giữa mật độ tảo với các thông số chất lượng
nước
3.7.
Mô hình tuyến tính BMA giữa loài Coelastrum sp. với các
thông số môi trường
3.8.
Mô hình tuyến tính BMA giữa loài Limnococcus sp. với các
thông số môi trường
vii
Trang
TÓM TẮT
Nghiên cứu “Xây dựng mô hình dự báo sự nở hoa của tảo độc hại trong ao
nuôi tôm” được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2021 đến tháng 3
năm 2022. Trong nghiên cứu này, tôi chọn ao nuôi giống tại Công ty Việt Úc, Phù
Cát, Bình Định. Nghiên cứu này bước đầu tập trung vào xác định sự biến động mật
độ tảo độc hại với các thông số chất lượng môi trường. Kết quả TRIX các hồ dao
động từ 4,16979 đến 6,5537, nhìn chung chỉ số TRIX tăng dần từ tháng 2 đến đầu
tháng 3. Trên cơ sở dữ liệu giữa sinh vật và môi trường, đề xuất được mô hình dự
báo tảo nở hoa trong ao nuôi tôm dựa trên mô hình Bayes Model Average (BMA).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở khu vực trong ao nuôi, mật độ tảo độc hại có xu
hướng cao sau 30 ngày nuôi ở các tháng đầu vụ và có xu hướng tăng nhẹ về các
tháng cuối vụ nuôi. Trong đó, các loài tảo có mật độ cao đều được quyết định bởi
một loài hay một số nhóm loài ưu thế như loài Coelastrum sp., Ulothrix sp.,
Limnococcus sp.
Từ khóa: sự biến động mật độ; tảo độc hại; loài ưu thế.
viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vi tảo (Microalgae) là những thực vật bậc thấp, có khả năng quang tự dưỡng.
Chúng có cấu trúc hết sức đa dạng: đơn bào, đa bào hay tập đoàn sống chủ yếu ở
nước và phân biệt với nhau bởi các chất màu (diệp lục tố, các sắc tố) và các chất dự
trữ. Đó chính là dấu hiệu hoá học để nhận biết trực tiếp bằng mắt thường hay dưới
kính hiển vi quang học. Tảo độc hại là những chất độc do một số loại tảo tiết ra khi
chúng xuất hiện với số lượng lớn (nở hoa) và thối rữa hoặc biến chất. Mức độ dinh
dưỡng cao và nhiệt độ ấm áp thường tạo điều kiện thuận lợi cho tảo hình thành. Có
thể nhận biết bằng mắt thường những thảm nổi váng, có mùi hôi và sền sệt.
Trong tự nhiên và đời sống con người, vai trò của vi tảo hết sức quan trọng vì
chúng là mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn của các hệ sinh thái nước. Tảo sử
dụng ánh sáng mặt trời, lấy khí cacbonic trong nước để tổng hợp và thải ra ngoài
môi trường khí oxy trong ao nuôi, dẫn đến ao có màu nước tốt, giàu oxy. Vi tảo giữ
vai trò quan trọng trong việc cải tạo môi trường (đất và nước), làm sinh vật chỉ thị
cho độ ô nhiễm của môi trường nước. Quá trình phân hủy hữu cơ được sinh ra do
các nguyên liệu dư thừa trong ao (thức ăn, xác động vật, chất lơ lửng...). Sản phẩm
sau cùng của quá trình này sinh ra nhiều loại khí độc có hại đối với tôm (như khí
amoni, nitric). Tảo lúc này giữ vai trò như một máy lọc sinh học tự nhiên, trực tiếp
hấp thụ những sản phẩm thừa, khí độc hại,... chuyển hóa chúng sang dạng ít độc hại
hoặc phân hủy chúng thành những vật chất đơn giản và vô hại đối với vật nuôi thủy
sản. Bên cạnh đó, vi tảo còn là nguyên liệu để tách chiết các hợp chất có giá trị dinh
dưỡng và để chữa bệnh. Vì vậy, nó là nguồn thức ăn không thể thiếu cho sinh vật
nói chung và tảo nói riêng (Hai & cs. 2019).
Bên cạnh những lợi ích mà tảo phù du đem lại, một số loài gây ra không ít các
tác hại cho ngành thuỷ sản và sức khỏe cộng đồng. Phú dưỡng (eutrophication) là
hiện tượng phát triển mạnh của tảo, gây ra do giàu các chất dinh dưỡng trong nước,
đặc biệt là các hợp chất nitơ (N) và photpho (P), dẫn đến những rối loạn không
mong muốn đối với cân bằng thủy sinh và gây lo lắng về chất lượng nước. Khi gặp
điều kiện môi trường thuận lợi, tảo phát triển bùng nổ, hiện tượng “tảo nở hoa”
(algal bloom) xuất hiện kèm theo sự phát triển tảo độc, phóng thích vào nước một
số chất độc và gây độc đối với các loài thủy sinh (cả tầng mặt và tầng đáy) trong
chuỗi thức ăn (kể cả tôm, cá),… (Phạm Thị Bình Nguyên & cs (2016)). Ngoài ra,
nhóm vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa đạm trong chu
trình nitơ là nhóm vi khuẩn nitrat hóa, chúng có khả năng chuyển NH3, NO2- thành
1
NO3-. NH3 làm giảm oxy trong ao nuôi, cần có 4,7g oxy để oxy hóa 1 g NH3.
Trong khí đó NO2- rất độc đối với đời sống thủy sinh vật và có thể gây ra chứng
giảm khả năng vận chuyển oxy trong máu của chúng (Tăng Thị Chính et al., 2003).
Một số lần tảo độc hại nở hoa làm thiệt hại về kinh tế khác đã được ghi nhận: vào
tháng 5, 6/1995 tảo Noctiluca scintillans nở hoa ở khu vực vịnh Vân Phong – Bến
Gỏi thuộc vùng biển Khánh Hòa đã làm chết khoảng 20 tấn tôm hùm với thiệt hại
ước tính khoảng 6 tỷ đồng (Nguyễn Ngọc Lâm & cs. 1996). Trong 3 ngày
15-17/5/2007, dòng nước màu đỏ này cũng đã cuốn theo 4,450 con tôm hùm ở xã
Xuân Thọ 2 và hơn 3000 con tôm hùm đang được nuôi ở xã Xuân Phương, gây khó
khăn cho 59 hộ nuôi tôm hùm trong khu vực này. Trong nuôi tôm công nghiệp tập
trung trên địa bàn xã Quảng Nham (Quảng Xương, Thanh Hóa) xảy ra hiện tượng
tôm thẻ chân trắng chết trên diện tích khoảng 3 ha, với số lượng tôm chết khoảng 10
triệu con. Năm 2007, các trang trại nuôi trồng thủy sản tại Hàn Quốc chịu thiệt hại
95 triệu USD do tảo nở hoa. Giữa tháng 7/2012, tảo nở hoa tại Bình Thuận làm cho
90% sinh vật trong vùng triều bị chết, kể cả tôm cá nuôi trong các lồng bè. Theo Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên, tính đến ngày 2/6/2017, gần
770.000 con tôm hùm với tổng trọng lượng gần 400 tấn tôm của trên 500 hộ dân thị
xã Sông Cầu bị chết. Ước thiệt hại trên 700 tỷ đồng- mức thiệt hại lớn nhất từ trước
đến nay.
Nếu không kiểm soát, những ảnh hưởng này có thể tác động mạnh mẽ đến
ngành nuôi trồng thủy sản. Hiểu biết rõ ràng về sự xuất hiện và phân bố của các loài
tảo độc hại, biến động quần thể (tốc độ sinh trưởng, nhu cầu dinh dưỡng, chu kỳ
sống, …), sinh thái – sinh lý (khi nào và tại sao tảo sản sinh độc tố), phương pháp
phát hiện và xét nghiệm độc tố tốt sẽ nâng cao khả năng dự báo các sự kiện và giảm
thiểu những ảnh hưởng của chúng, trên cơ sở đó sẽ phát triển những phương thức
quản lý tốt hơn. Đó là cách mà chúng ta có thể giảm thiểu những thiệt hại về kinh tế
và sức khỏe con người do tảo độc gây ra. Qua đó, các nghiên cứu hiện nay không
chỉ dừng lại ở việc phân loại, cho thấy sự có mặt của tảo mà cần nghiên cứu về mô
hình, dự báo sự nở hoa của tảo độc hại có khả năng ứng dụng thực tế để giảm thiểu
đáng kể thiệt hại về kinh tế cũng như hạn chế ảnh hưởng đến sức khỏe con người
(Lam và cs).
Vì vậy, việc điều tra nghiên cứu về tảo độc hại có tầm quan trọng cả về mặt
khoa học cũng như trong thực tiễn sản xuất nhất là nghề nuôi trồng thủy sản. Trên
cơ sở đó, tôi thực hiện đề tài: “Xây dựng mô hình dự báo sự nở hoa của tảo độc hại
trong ao nuôi tôm” để giải quyết vấn đề trên.
2
2. Mục tiêu đề tài
2.1 Mục tiêu tổng quát
- Xây dựng được mô hình dự báo sự nở hoa của tảo độc hại trong ao nuôi tôm.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được sự thay đổi về cấu trúc quần xã theo thời gian, tương quan với
sự thay đổi môi trường.
- Xây dựng được mô hình dự báo nguy cơ tảo độc hại nở hoa trong ao nuôi
tôm có khả năng ứng dụng trên thực tế.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả của nghiên cứu sẽ đóng góp thêm thông tin cơ sở khoa học về thành
phần các loài tảo gây hại đến sinh cảnh ao nuôi tôm
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở để đánh giá được quần xã tảo trong ao nuôi tôm.
Và đây cũng là nguồn thông tin để cho các công trình nghiên cứu tiếp theo.
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đa dạng thành phần loài tảo phù du trong ao nuôi tôm tại Phù
Mỹ, Bình Định.
- Đánh giá sự biến động về đặc điểm chất lượng môi trường trong ao nuôi tôm
tại Phù Mỹ, Bình Định.
- Đánh giá mối tương quan giữa đa dạng thành phần loài tảo phù du và chất
lượng nước trong ao nuôi tôm tại Phù Mỹ, Bình Định.
- Xây dựng mô hình dự báo nguy cơ nở hoa của tảo trong ao nuôi tôm.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về thực vật phù du
1.1.1. Giới thiệu chung về thực vật phù du
Vi tảo là nhóm vi sinh vật có kích thước hiển vi từ 1- 50 μm. Đây là nhóm vi
sinh vật đa dạng về kích thước và chủng loại. Theo phân loại của Hiện nay nhiều
nghiên cứu đã thống kê được có khoảng 72.500 loài vi tảo trên thế giới phân bố ở
khắp mọi nơi trên Trái Đất, từ trên cạn đến dưới nước, sống bám trên lớp đất, đá
trầm tích, từ các thuỷ vực nước ngọt, nước mặn, nước lợ, và có mặt cả trong các
thuỷ vực giàu, nghèo dinh dưỡng. Trong các thuỷ vực giàu dinh dưỡng, mật độ vi
tảo tăng mạnh, gây hiện tượng tảo nở hoa, gây độc cho các sinh vật khác sống trong
thuỷ vực. Ngược lại, trong các thuỷ vực nghèo dinh dưỡng, mật độ vi tảo lại thấp
hơn nhưng đa dạng thành phần của tảo thường cao hơn. Nhờ vậy, vi tảo được đánh
giá là sinh vật chỉ thị bởi sự hiện diện và phân bố của chúng trong thuỷ vực sẽ góp
phần đánh giá được đặc điểm, chất lượng môi trường nước nhờ tính nhạy cảm của
chúng đối với sự thay đổi điều kiện môi trường. Bên cạnh đó, vi tảo có thể giúp
phân giải các chất hữu cơ và giúp tiêu thụ nhiều chất dinh dưỡng và muối khoáng
dư thừa, giúp làm sạch môi trường. Ngoài ra chúng còn đóng vai trò quan trọng
trong các chu trình hoá Nitơ, Carbon và Oxy. Nhờ khả năng thực hiện quang hợp
bằng cách sử dụng năng lượng mặt trời để tạo ra khí oxy mà chúng cung cấp cho
Trái Đất nói chung và sinh vật sống trong các thuỷ vực nói riêng tới 30% sản lượng
khí oxy hằng năm. Do vậy, chúng đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hoá hàng
ngàn năm nay. Hơn nữa, vi tảo còn là sinh vật sơ cấp, là mắt xích đầu tiên trong
chuỗi thức ăn, nguồn thức ăn quan trọng cho các sinh vật trong thuỷ vực như cá,
giáp xác, hay các sinh vật thuỷ sinh khác. Qua đó ta có thể thấy vi tảo đóng vai trò
rất quan trọng trong tự nhiên, đặc biệt là trong các thuỷ vực.
1.1.2. Giới thiệu chung về tảo gây độc hại
Vi tảo là các loài thực vật phù du có kích thước nhỏ, được tìm thấy chủ yếu
trong môi trường nước, là thức ăn sơ cấp cho các loài sinh vật trong các hệ sinh thái
thủy vực. Trong một số trường hợp, sự tăng sinh về số lượng tảo trong thời gian
ngắn sẽ có lợi cho các hoạt động nuôi trồng thủy hải sản. Tuy nhiên, sự nở hoa của
vi tảo có thể tác động tiêu cực đến năng suất sản xuất, tổn thất nghiêm trọng đến
kinh tế ngành nuôi trồng thủy hải sản. Trong hơn 5000 loài thực vật phù du có đến
hơn 80 loài có khả năng tạo ra các độc tố mạnh thông qua lưới thức ăn đến con
người.
4
Chi Trichodesmium bao gồm các loài tảo sợi liên kết thành tập đoàn. Cấu trúc
mao tản giống với các loài trong chi Oscillatoria (hoặc Planktothrix), do vậy nhiều
tác giả đã xếp chi Trichodesmium vào trong chi này. Các tập đoàn Trichodesmium
sống trôi nổi, vài loài có thể được quan sát bằng mắt thường. Suvapun (1992) ghi
nhận sự nở hoa của Trichodesmium là nguyên nhân tử vong của tôm nuôi dọc theo
bờ tây Vịnh Thái Lan, tác giả đã chứng minh rằng với mật độ khoảng 700.000 mao
tản /lít đủ để giết chết ấu trùng cá chẽm (Lates calcarifer) trong vòng 24 giờ. Những
nghiên cứu gần đây nhất của Long và Carmichael (2002) cho thấy các loài
Trichodesmium sản sinh các độc tố PSP và microcystin. Sự nở hoa của
Trichodesmium khá phổ biến trong vùng biển cận nhiệt đới và nhiệt đới, sự nở hoa
này có lẽ góp phần đáng kể vào sự cố định đạm trong đại dương (Carpenter và
Capone 1992).
Giữa các nhóm vi tảo, ngành Tảo Hai Roi có số lượng loài độc hại nhiều nhất.
Bên cạnh những loài được phát hiện trong nghiên cứu này, cũng phải kể đến những
loài có phân bố rộng như Lingulodinium polyedrum (Stein) Dodge 1989 và
Protoceratium reticulatum (Claparède et Lachmann) Butschlii 1885 có thể là những
loài sản sinh độc tố. Loài Heterocapsa circularisquana Horiguchi 1995 là loài gây
chết hàng loạt các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ (ĐVTMHMV) được nuôi ở
Nhật bản, nhưng rõ ràng là loài vi tảo này không phương hại đến cá và khu hệ động
vật khác (Horiguchi 1995, Matsuyama 1999, Oda và cs. 2001). Cho đến nay, ảnh
hưởng có hại chỉ mới được ghi nhận ở Nhật bản và đang là mối đe dọa tiềm tàng
đến nghề nuôi ĐVTM HMV trong khu vực Đông Nam Á. Một loài cực kỳ nguy hại
khác phổ biến trong các thủy vực Đông Nam Á là loài Pyrodinium bahamense Plate
1906 var. compressum (Bohm) Steidinger, Tester & Taylor 1980, là nguyên nhân
gây ngộ độc liệt cơ ở người ở Philippines, Indonesia và Malaysia. Một số loài
Alexandrium có thể sản sinh các độc tố gây liệt cơ. Cấu trúc độc tố của một dòng
tảo dường như là một đặc trưng không đổi (Cembella và cs. 1987) trong khi đó việc
sản sinh độc tố có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện môi trường (While 1978,
Anderson 1990, Anderson và cs. 1990, Béchemin và cs. 1999, và Hwang và Lu
2000). Các dòng khác nhau của cùng một loài có thể có những khác biệt khá lớn về
độc tính hoặc thành phần độc tố. Điều này đã được chứng minh rõ ràng trong nhóm
A. tamarense, nhóm này có cả dòng không độc, dòng ít độc và dòng rất độc cùng
tồn tại (Cembella và cs. 1987, Kim và cs. 1993, Anderson và cs. 1994).
5
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.3.1. Trên Thế giới
Một số nghiên cứu về Tảo ở các thủy vực nước ngọt trên thế giới chủ yếu về
phân loại, đa dạng sinh học và các Tảo độc gây nở hoa. Trong đó, sự nở hoa của
nhóm tảo hai rãnh (Dinoflagellate) gây nên thủy triều đỏ ở các ao nuôi tôm đã gây
thiệt hại lớn về kinh tế đối với nghề nuôi. Trên các ao nuôi tôm sú Penaeus
monodon và P. orientalis ở Đài Loan, Trung Quốc và Malaysia có nhiều giống loài
tảo nở hoa do môi trường giàu dinh dưỡng bao gồm: Euglena spp., Noctiluca
scintillan, Alexandrium tamarense, Chattonella spp., Protoperidinium balechii;
chúng gây ra tình trạng thiếu oxy máu, tiết ra độc tố PSP, ASP làm giảm sinh trưởng
ở tôm, gây bệnh, hoặc trực tiếp gây chết tôm (Chen và Gu, 1993, Kotaki & cs.
2000). Trong ao tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei, L. stylirostris ở Ecuador
và Mexico, một số giống loài tảo nở hoa được phát hiện: Gyrodinium instriatum,
Synechocystis diplococcus, Schizothrix calcicola, Prorocentrum minimum,
Gymnodinium catenatum. Các loài này thường nở hoa khi môi trường giàu dinh
dưỡng hay do sự thay đổi nồng độ muối, chúng tiết ra độc tố PSP và gây thiếu oxy
máu làm giảm sinh trưởng và gây chết ở tôm (Jimenez, 1993; Cortes-Altamirano,
1994; Delgado, 1996; Cortes - Altamirano và Alonso-Rodrıguez (1997);
Cortes-Altamirano và Licea-Duran (1999).
Các nhà khoa học đã tập trung nhiều hướng nghiên cứu khác nhau từ những
phương pháp nghiên cứu phân loại học cổ điển dựa trên hình thái đến những
phương pháp hiện đại như sử dụng kính hiển vi điện tử truyền (T.E.M.) và quét
(S.E.M.) để xem xét vi cấu trúc tế bào hoặc sinh học phân tử phân tích DNA; từ
những chương trình giám sát cho đến khả năng dự báo quá trình phát triển của vi
tảo độc hại, v.v… Do tính chất nghiêm trọng của Tảo độc hại cũng như các loài
Thực vật Phù du nở hoa gây hiện tượng Thủy triều đỏ, một chiến lược toàn cầu
được đặt ra cho các nhà khoa học, các viện nghiên cứu trên thế giới, ví dụ như
chương trình ECOHABsdo các nhà khoa học Hoa Kỳ thiết lập, EUROHABs được
thành lập bởi các nhà khoa học của châu Âu, GEOHABS là chương trình nghiên
cứu tảo nở hoa trong các thủy vực nước trồi của thế giới.
Các nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc định danh loài, đánh giá thay đổi
với môi trường mà còn nghiên cứu xây dựng các công cụ, mô hình dự báo sự nở
hoa của tảo độc. Donald M. Anderson và cs (2009) nhận định các kỹ thuật phân tích
phức tạp kết hợp kỹ thuật sắc ký và khối phổ (ví dụ, LC-MS) đã được phát triển cho
tất cả các chất độc HAB chính và hiện đang thay thế nhiều phương pháp cũ hơn,
6
bao gồm cả các xét nghiệm sinh học. Ở một khía cạnh khác, các bộ dụng cụ thử
nghiệm đơn giản đã được phát triển tương tự như bộ dụng cụ mang thai tại nhà. Ưu
điểm của dụng cụ này cho phép kiểm tra chất độc nhanh chóng, rẻ tiền và cho thấy
nhiều hứa hẹn để sử dụng trong các mẫu sàng lọc, tránh việc phân tích tốn kém cho
nhiều mẫu âm tính trong các chương trình giám sát. Tuy nhiên, nó không thực sự
phù hợp để áp dụng quy mô lớn. Sau đó, các mô hình vật lý - sinh học kết hợp để
giải quyết tuần hoàn của một khu vực và bao gồm các thành phần sinh học mô
phỏng động lực nở hoa của loài tảo độc và trong tương lai gần, sự hấp thụ độc tố khi
những sinh vật đó bị động vật có vỏ tiêu thụ. Hiện tại, các mô hình này chủ yếu
được sử dụng trong chế độ dự báo (tức là mô phỏng các quan sát trong quá khứ),
nhưng đang tiến nhanh theo hướng sử dụng hoạt động cho các dự báo ngắn hạn
tương tự như các mô hình được sử dụng cho thời tiết. Các mô hình này sẽ yêu cầu
quan sát các thông số hải văn và sự phong phú và phân bố HAB có thể được đồng
hóa vào các mô hình để cải thiện dự báo, chính xác như được thực hiện với dự báo
thời tiết. (Donald M. Anderson, 2009)
Rui Xiao & cs. (2019) đã sử dụng phương pháp GBM (dự đoán bằng phương
pháp đo độ dốc) để điều tra sự nở hoa của tảo trong suốt một thập kỷ (2003–2014) ở
sông Hàn. Kết quả cho thấy mô hình GBMp (với thời gian dẫn đầu 10 ngày) do độ
chính xác và khả năng dự đoán thực tế cao hơn so với mô hình GBMc. (3) Ngoài ra,
phân tích cho thấy rằng nồng độ TN và TP không thể chỉ được sử dụng làm chỉ số
cho sự nở hoa của tảo sông, trong khi sự xuất hiện của tảo mùa xuân ở hạ lưu sông
Hàn chủ yếu được kiểm soát bởi điều kiện thủy văn, tức là mực nước sông Hàn. và
sông Dương Tử và sự biến đổi mực nước của sông Hàn. Nghiên cứu này thực hiện
một bước quan trọng để phát triển các mô hình dự báo mạnh mẽ về hiện tượng tảo
nở hoa trên sông bằng cách tính đến nhiều yếu tố ảnh hưởng từ nhiều nguồn dữ liệu.
Tuy nhiên, nghiên cứu này bị giới hạn bởi dữ liệu có sẵn từ chương trình dữ liệu
giám sát dài hạn, có nhiều cơ hội để mở rộng và cải thiện phân tích này bằng cách
kết hợp các biến số môi trường và sinh học bổ sung (Mohd Isa et al., 2020). Một
nghiên cứu khác, Rafaela C. Cruz & cs. (2021) đã đánh giá khái quát bao gồm các
xu hướng trong phương pháp học máy để dự đoán HAB và ô nhiễm độc tố sinh học
của động vật có vỏ, đặc biệt tập trung vào các mô hình tự hồi quy, máy vectơ hỗ trợ,
mô hình đồ họa xác suất và mạng nơ-ron nhân tạo (ANN). Hầu hết các nỗ lực đã
được cố gắng dự báo HAB dựa trên các mô hình có mức độ phức tạp gia tăng trong
những năm qua, cùng với khả năng cung cấp dữ liệu đa nguồn tăng lên, với kiến
trúc ANN đi đầu để lập mô hình các sự kiện này. (Rafaela C. Cruz & cs. 2021)
7
Theo Grant Hamilton (2020) nhận định rằng Rất ít mô hình thống kê để dự
đoán sự xuất hiện của HAB đã được phát triển, và điểm chung với hầu hết các mô
hình dự báo trong sinh thái học, những mô hình đã được phát triển không tính đến
sự không chắc chắn trong các tham số và cấu trúc mô hình. Điều này khiến các
quyết định quản lý dựa trên những dự đoán này trở nên rủi ro hơn những gì có thể
tưởng tượng. Chúng tôi đã sử dụng mô hình chuỗi thời gian probit và tính trung
bình theo mô hình Bayesian (BMA) để dự đoán sự xuất hiện của các đợt nở hoa của
Lyngbya majuscula, một loài tảo lam độc hại, ở Vịnh Deception, Queensland, Úc.
Chúng tôi đã tìm thấy một bộ các yếu tố dự báo hữu ích cho sự xuất hiện của HAB,
với nhiệt độ được tính toán nổi bật trong các mô hình có phần lớn hỗ trợ phía sau và
mô hình bao gồm hiệp biến đơn, nhiệt độ tối thiểu trung bình hàng tháng, cho thấy
cho đến nay mức hỗ trợ phía sau lớn nhất. So sánh các chiến lược lấy trung bình mô
hình thay thế được thực hiện với một chiến lược sử dụng phân phối sau đầy đủ và
một cách tiếp cận đơn giản hơn sử dụng phần lớn phân phối sau cho các dự đoán
nhưng với ít mô hình hơn. Cả hai phương pháp BMA đều cho thấy hiệu suất dự
đoán tuyệt vời với ít sự khác biệt về khả năng dự đoán của chúng. Các ứng dụng
của BMA vẫn còn hiếm trong sinh thái học, đặc biệt là trong các cơ sở quản lý.
Nghiên cứu này chứng minh sức mạnh của BMA như một công cụ quản lý quan
trọng có khả năng mang lại hiệu suất dự đoán cao trong khi tính toán đầy đủ cả độ
không đảm bảo của tham số và mô hình.
1.3.2. Ở Việt Nam
Những nghiên cứu về tảo gây hại tương đối đầy đủ hơn đã được khởi đầu từ
năm 1996 qua các chương trình hợp tác quốc tế như chương trình
CANADA-ASEAN, Nhật Bản-Việt Nam và đáng kể nhất là dự án HABViet đang
được triển khai từ 1998 đến nay (Lam et al., n.d.). Qua các chương trình nghiên cứu
này, (Preston et al., 2000) đã tìm thấy độc tố của loài Alexandrium minutum và
nghiên cứu của Lundholm và Moestrup (2000) phát hiện một loài Tảo Silic mới cho
khoa học Nitzschia navis-varingica. Loài này được phân lập trong một hồ nuôi tôm
ở Đồ Sơn và độc tính của loài đã được nghiên cứu bởi (Ohtani et al., 2000).
Ở Việt Nam, tảo độc nở hoa làm thiệt hại về kinh tế đã được ghi nhận vào
tháng 5 và tháng 6/1995, tảo Noctiluca scintillans nở hoa ở khu vực vịnh Vân
Phong thuộc vùng biển Khánh Hòa đã làm chết khoảng 20 tấn tôm hùm với thiệt hại
ước tính khoảng 6 tỷ đồng (Nguyễn Ngọc Lâm & cs, 1996). Theo Kotaki, (2000) ở
ao nuôi tôm sú tại Đồ Sơn, tảo Nitzschia navis-varingica nở hoa do môi trường giàu
dinh dưỡng tiết ra độc tố ASP (1,7pg/tế bào, 1 pg = 1/1.000.000 mg) gây chết tôm.
(Dương Thị Hoàng Oanh, 2019). Năm 1997, Lương Quang Đốc đã đưa ra danh mục
8
gồm 136 loài và dưới loài tảo phù du, trong đó loài tảo độc Pseudo Nitzschia
delicatissima có mật độ 430.000 tb/l (9/1996). Tôn Thất Pháp, Lương Quang Đốc
và Đường Văn Hiếu (2000) công bố chi tảo Giáp Alexandrium ở đầm phá và vùng
biển ven bờ tỉnh Thừa Thiên Huế, có 3 loài có khả năng sản sinh độc tố PSP:
Alexandrium affine, Alexandrium tamarense, Alexandrium tamyjavanichii. Năm
2004, Võ Văn Dũng đã phát hiện loài độc hại Protoperidinium crassipes với mật độ
129-375 tb/l, Trương Thị Hiếu Thảo phát hiện mật độ của nhóm tảo Alexandrium
đạt từ 350 -1.356 tb/l. (Tôn Thất Pháp & cs. 2006)
Kết quả phân tích, đánh giá mối tương quan cho thấy yếu tố dinh dưỡng N, P
có mối tương quan thuận và ảnh hưởng tương đối chặt chẽ đến thành phần loài tảo
lam. Thành phần loài tảo lam phân bố nhiều ở các địa điểm có hàm lượng dinh
dưỡng (N, P) cao. Khảo sát biến động mật độ trung bình loài tảo lam theo không
gian và thời gian cho thấy mật độ trung bình của tảo lam tại các điểm khảo sát dao
động từ 4.560 – 932.640 cá thể/lít. Vào mùa nắng, mật độ tảo lam trung bình dao
động từ 600 – 126.000 cá thể/lít. Mật độ cao nhất là loài Microcystis aeruginosa với
132.960 cá thể/lít, loài thấp nhất là loài Raphidiopsis sp. với 760 cá thể/lít. Vào mùa
mưa, mật độ trung bình cao nhất là loài Spirulina platensis với 126.000 cá thể/lít và
thấp nhất là loài Cylindrospermopsis raciborskii với 600 cá thể/lít. (Nguyên, n.d.).
Nguyễn Ngọc Lâm & cs. (2006) đã nghiên cứu sự nở hoa của loài tảo Hai roi
3
−1
– Alexandrium pseudogoniaulax được ghi nhận với mật độ > 200x 10 tb.𝐿 , đồng
thời với sự gia tăng hàm lượng của nitrat, nitric và amoni. Một nghiên cứu khác,
Tôn Thất Pháp và cs (2006) nhận định mật độ tảo độc biến động mạnh vào mùa
mưa và ít biến động hơn vào mùa khô, mối tương quan với các yếu tố môi trường
chỉ thể hiện ở mức chặt chẽ giữa mật độ tảo độc với nhiệt độ (r = -0,73) và hàm
lượng nitrat (r = 0,77) vào mùa mưa. Mật độ nhóm tảo độc Prorocentrum có mối
tương quan chặt chẽ với yếu tố môi trường độ muối, nhiệt độ, pH, oxy hoà tan, hàm
lượng nitrat, photphat và silicat, trong đó thể hiện rõ nhất là mật độ tảo
Prorocentrum tăng khi độ muối giảm, pH, oxy hoà tan, photphat và nitrat tăng. Mật
độ tảo Pseudonitzschia có sự tương quan tương đối chặt chẽ với hàm lượng oxy hòa
tan, photphat, pH và độ muối, mật độ tăng khi hàm lượng oxy hòa tan, photphat, pH
giảm và độ muối tăng, tuy nhiên sự tương quan này ít chặt chẽ hơn nhiều so với
nhóm Prorocentrum.
Đến nay, các nghiên cứu về xây dựng mô hình dự báo sự nở hoa của tảo độc
trong ao nuôi tôm ở Việt Nam chưa phổ biến chủ yếu các nghiên cứu được thực
hiện ở một số vùng ven biển. Cụ thể như, TS. Nguyễn Ngọc Lâm & cs (2009) đã sử
dụng dữ liệu ảnh vệ tinh kết hợp với những quan sát tại chỗ về điều kiện sinh học
9
(thực và động vật Phù du), hóa học (muối dinh dưỡng, chlorophyll) và vật lý (gió,
dòng chảy tầng mặt, dòng triều) làm cơ sở xây dựng mô hình phát triển của vi tảo
và cảnh báo sớm (early warning) sự nở hoa (hay thủy triều đỏ). Ngoài ra, dự án
NANO về “Mô hình viễn thám về tảo nở hoa độc hại (RS-HAB) ở khu vực Đông
Nam Á” do Viện Hải Dương học chủ trì. Dự án này đã đánh giá, nâng cấp, ứng
dụng mô hình quan trắc tảo nở hoa độc hại bằng viễn thám và tiếp tục duy trì trạm
quan trắc môi trường ở đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó, cho thấy chưa có công
trình nghiên cứu, xây dựng mô hình dự báo sự nở hoa của tảo độc nào được thực
hiện ở ao nuôi tôm tại Việt Nam.
10
- Xem thêm -