ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
BÙI THỊ THÊU
GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12
(CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG)
THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2011
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
BÙI THỊ THÊU
GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12 (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN,
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG) THEO ĐẶC TRƢNG THÊ LOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(Bô ̣ môn Ngƣ̃ Văn)
Mã số: 60 14 10
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Đƣ́c Phƣơng
HÀ NỘI – 2011
2
KÍ HIỆU VIẾT TẮT
GV:
Giáo viên
HS:
Học sinh
SGK:
Sách giáo khoa
THPT:
Trung ho ̣c phổ thông
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.......................................................................................
1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………
2
2. Lịch sử vấ n đề …………………………………………………
5
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………..
8
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu…………………………..
8
5. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………
9
6. Giả thuyết nghiên cứu nghiên cứu…………………………….
9
7. Nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứu………………………………………….
9
8. Phương pháp nghiên cứu……………………………………...
9
9. Đóng góp của luâ ̣n văn………………………………………..
10
10. Cấu trúc luận văn…………………………………………….
10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI…………………..
11
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại………………………………………………………………..
11
1.1.1. Thể loại văn học…………………………………………...
11
1.1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại……
16
1.2. Những vấn đề chung về thơ trữ tình………………………...
19
1.2.1. Khái niệm về thơ trữ tình………………………………….
19
1.2.2. Vài nét về thơ trữ tình hiện đại hiện đại Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX………………….
20
1.2.3. Đặc trưng của thơ trữ tình…………………………………
22
1.2.3.1. Tứ thơ……………………………………………………
22
1.2.3.2. Nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, hình ảnh thơ, hình
ttượng thơ………………………………………………………….
5
25
1.2.3.3. Ngôn ngữ thơ trữ tình…………………………………...
31
1.2.3.4. Kết cấu thơ trữ tình……………………………………...
35
1.2.3.5. Tình cảm, cảm xúc trong thơ trữ tình…………………...
39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƢỚNG GIẢNG
DẠY THƠ TRỮ TÌNH LỚP 12, CHƢƠNG TRÌNH
CHUẨN, THPT THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI.................
42
2.1. Thực trạng giảng dạy thơ trữ tình lớp 12, chương trình
Chuẩn, THPT…………………………………………………….
42
2.1.1. Vị trí của thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn 12,
chương trình Chuẩn, THPT………………………………………
42
2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn………………………………...
43
2.1.2.1. Thuận lợi………………………………………………...
43
2.1.2.2. Khó khăn………………………………………………...
44
2.1.3. Thực trạng giảng dạy thơ trữ tình 12, chương trình chuẩn,
THPT ở trường THPT……………………………………………
46
2.1.3.1. Kết quả khảo sát từ giáo viên…………………………...
47
2.2.2. Kết quả khảo sát từ học sinh………………………………
50
2.2. Định hướng giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình cho học sinh
lớp 12, chương trình chuẩn, THPT theo đặc trưng thể loại……...
52
2.3.1. Tìm hiểu xuất xứ ………………………………………….
53
2.3.2. Cảm nhận ý thơ …………………………………………...
56
2.3.2.1. Bài thơ “Tây Tiến” – Quang Dũng……………………...
56
2.3.2.2. Đoạn trích “Việt Bắc” – Tố Hữu………………………..
59
2.3.2.3. Đoạn trích “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm…………..
63
2.3.2.4. “Sóng” – Xuân Quỳnh…………………………………..
67
2.3.2.5. “Đàn ghi ta của Lorca” – Thanh Thảo…………………..
70
6
2.3.3. Lí giải, đánh giá…………………………………………...
73
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM ………………………………….
75
3.1. Những vấn đề chung………………………………………...
75
3.1.1. Mục đích thực nghiệm…………………………………….
75
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm……………..
76
3.1.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm……………………..
76
3.1.2.2. Thời gian thực nghiệm………………………………….
77
3.2. Nội dung và tiến trình thực nghiệm…………………………
76
3.2.2. Nô ̣i dung thực nghiê ̣m…………………………………….
76
3.2.2. Tiế n trin
̀ h thực nghiê ̣m…………………………………….
77
3.2.2.1. Lên kế hoạch thực nghiệm……………………………...
77
3.2.2.2. Làm việc với GV dạy thực nghiệm……………………..
77
3.2.2.3. Tổ chức thực nghiệm…………………………………...
77
3.3. Thiết kế bài soạn thực nghiệm………………………………
78
3.4. Kế t quả thực nghiê ̣m………………………………………...
104
3.4.1. Tiến hành kiểm tra………………………………………...
104
3.4.2. Kế t quả kiể m tra…………………………………………...
105
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm………………………………
105
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ……………………………..
109
1. Kế t luâ ̣n………………………………………………………..
109
2. Khuyế n nghi…………………………………………………...
̣
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………...
112
PHỤ LỤC
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Những đổi thay không ngừng của xã hội theo xu hướng toàn cầu hoá và sự
phát triển của khoa học, kĩ thuật hiện đại là những thách thức lớn cho giáo dục
trong việc phát triển nguồn nhân lực có tri thức cao, thông minh và sáng tạo. Đổi
mới quy trình, chương trình đào tạo và phương pháp dạy học là những vấn đề
thời sự của tất cả hệ thống giáo dục. Rất nhiều các phương pháp dạy học mới
được thử nghiệm nhằm đào tạo những người lao động có bản lĩnh, có năng lực
chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng thích ứng với những đổi thay
của xã hội hiện đại…Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
trong hoạt động tập thể để tự phát hiện, tự giải quyết các vấn đề trong học tập và
trong cuộc sống, từ đó tự chiếm lĩnh và vận dụng các kiến thức và kĩ năng cơ bản
dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở nước
ta đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp quản lí giáo dục rất quan tâm.
Nghị quyết Trung ương II khoá VIII đã viết trong phần định hướng phát triển
Giáo dục – Đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương tiện
hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học” [1, tr.43]. Tiếp tục tinh thần đó, trong
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về giáo dục đào tạo, Ban chấp
hành Trung ương cũng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học phát huy tinh thần độc lập
suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn
thiện học vấn và tay nghề” [2, tr.108, 109].
1
Trong “Luật giáo dục” được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 02/12/1998 ở chương I “Những quy định chung” đã
nhấn mạnh tới yêu cầu và đổi mới phương pháp giáo dục là “phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng năng lực tự
học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 – 2010 đã đề ra phương hướng: cùng
hòa nhịp vào xu hướng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra sôi nổi khắp
nơi trên thế giới, việc đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta cần được xúc tiến
mạnh mẽ hơn nữa trên cơ sở những quan điểm đầy đủ và thống nhất về đổi mới
phương pháp dạy và học cũng như những giải pháp phù hợp, khả thi. Như vậy,
trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng nước Việt Nam
giàu mạnh, dân chủ, văn minh, vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo . Để thực hiện được mục tiêu đó,
trước hết phải đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy.
1.2. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ Văn có một vị trí vô cùng quan trọng
trong hệ thống giáo dục. Theo cách riêng của mình, môn Ngữ Văn không chỉ
giúp cho con người có những hiểu biết phong phú, đa dạng về thế giới xung
quanh mà còn có khả năng lay động con tim, thức tỉnh trí tuệ đem đến những bài
học, những xúc cảm thẩm mĩ cao đẹp, sâu lắng để từ đó mỗi người có cách ứng
xử nhân văn trong cuộc sống. Tuy nhiên muốn đạt được hiệu quả giáo dục cao
nhất, việc giảng dạy môn Ngữ Văn phải tiến hành sao cho phù hợp với đặc trưng
bộ môn, vừa mang bản chất xã hội, vừa là một hiện tượng thẩm mĩ, một hiện
tượng nghệ thuật. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng
giảng dạy, nâng cao khả năng tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh
là công việc luôn được người làm công tác dạy Ngữ Văn quan tâm.
2
Trong nhà trường Việt Nam, việc dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng
thể loại là một vấn đề đã và đang được chú trọng. Bởi mỗi tác phẩm văn học đều
tồn tại dưới một hình thức thể loại nhất định, đòi hỏi một cách thức, một phương
pháp giảng dạy phù hợp với nó. Vì thế, vấn đề loại thể trong thực tiễn giảng dạy
ở trường phổ thông không những là vấn đề tri thức mà còn là một vấn đề phương
pháp. Trong các chuyên đề giáo dục sinh viên sư phạm ở các trường Sư phạm và
trong các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Ngữ Văn, các nhà sư
phạm đã luôn coi việc dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là
một hướng dạy học quan trọng. Nắm vững thi pháp thể loại, người dạy không chỉ
hiểu đúng, hiểu sâu hơn tác phẩm văn học mà còn có khả năng thiết kế có hiệu
quả hệ thống hoạt động, thao tác để hướng dẫn học sinh cách thức đọc – hiểu tác
phẩm, giúp người học có khả năng “giải mã” những tác phẩm cùng thể loại.
1.3. Chương trình môn Ngữ Văn THPT được xây dựng theo tinh thần đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, hướng đến việc dạy học “toàn
diện” nên ngoài việc đưa vào nhiều văn bản mới, chương trình còn phát huy kinh
nghiệm vốn có của người học về các kiểu văn bản. Về phương pháp, dạy học
trên tinh thần tích cực hóa hoạt động của người học trong giờ dạy học tác phẩm
văn chương và dạy đọc hiểu văn bản, trong đó nhấn mạnh việc dạy học tác phẩm
văn chương theo đặc trưng thể loại. Tiếp tục thực hiện quan điểm dạy học,
chương trình môn Ngữ Văn phân hóa thành chương trình Chuẩn và chương trình
Nâng cao. Có điều nếu chương trình chuẩn đáp ứng được khả năng tiếp nhận của
học sinh đại trà thì chương trình nâng cao “còn nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao
hiểu biết, phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo về ngôn ngữ và văn học của những
học sinh có thiên hướng ngữ văn, qua đó góp phần phát hiện, bồi dưỡng học sinh
có năng khiếu, tạo nguồn cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn” [29]. Một
trong những điểm mới là chương trình đã đưa vào nội dung dạy học nhiều kiểu
3
tác phẩm văn học theo các thể loại khác nhau. Riêng phần Văn học hiện đại đã
cho thấy khá đầy đủ diện mạo văn học thời kì hiện đại hoá. Sách giáo khoa Ngữ
văn 12, chương trình Chuẩn, THPT đã đưa thêm nhiều tác phẩm và trích đoạn
tiêu biểu cho đặc trưng từng thể loại. Trong đó thơ là loại hình văn học ra đời
sớm nhất của nhân loại. Phẩm chất của thơ biểu hiện trong thơ tự sự cũng như
thơ trữ tình. Song đặc trưng cơ bản nhất của thơ bộc lộ tập trung nhất qua thơ trữ
tình. So với các thể loại khác. Thơ trữ tình tác động đến người đọc vừa bằng sự
nhận thức cuộc sống, bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, những cảm xúc, suy nghĩ
cụ thể; vừa bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú và ngôn từ giàu nhạc điệu.
Trong chương trình Ngữ Văn 12, Trung học phổ thông, chương trình
Chuẩn, thơ trữ tình là một nội dung đặc biệt quan trọng, được giảng dạy thông
qua những tác phẩm tiêu biểu: Tây Tiến (Quang Dũng), Việt Bắc (Tố Hữu), Đất
nước (Nguyễn Khoa Điềm), Sóng (Xuân Quỳnh), Đàn ghi ta của Lor-ca
(Thanh Thảo). Ngoài ra còn có những tác phẩm đọc thêm như: Đất nước
(Nguyễn Đình Thi), Dọn về làng (Nông Quốc Chấn), Tiếng hát con tàu (Chế
Lan Viên), Đò Lèn (Nguyễn Duy), Bác ơi (Tố Hữu). Trên thực tế, việc dạy tác
phẩm thơ trữ tình trong nhà trường THPT hiện nay còn đơn điệu, tẻ nhạt, chưa
xác định đúng “chất của loại” trong thể và chưa tạo được hứng thú cho học sinh.
Vì thế các tác phẩm văn học thực sự có giá trị chưa có được chỗ đứng xứng đáng
trong lòng những người yêu văn chương.
Với những trăn trở về hiệu quả tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình của học
sinh THPT cùng với mong muốn tha thiết khám phá cái hay, cái đẹp của mỗi tác
phẩm, tôi quyết định chọn đề tài: “Giảng dạy thơ trữ tình lớp 12 (chương trình
Chuẩn, Trung học phổ thông) theo đặc trưng thể loại”. Hi vọng, sự thành công
của đề tài này sẽ góp một tiếng nói vào việc giảng dạy văn học theo đặc trưng
4
thể loại cũng như tìm ra một hướng đi mới cho việc dạy thơ trữ tình trong nhà
trường phổ thông.
2. Lịch sử vấ n đề
2.1. Tình hình nghiên cứu dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại.
Những năm gần đây do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, GV Ngữ
Văn các cấp đã được bồi dưỡng nhiều tri thức các thể loại văn học và dạy học tác
phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại. Bên cạnh đó cũng có nhiều công trình
nghiên cứu, các tài liệu hướng dẫn phân tích tác phẩm văn chương theo loại thể.
Trên cơ sở những thành tựu về loại thể văn học và thi pháp học, nhiều nhà
nghiên cứu, nhà sư phạm tâm huyết đã đề xuất cách thức, con đường dạy học
sinh cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm văn chương nói chung; thơ trữ tình nói riêng
theo đặc trưng thể loại. Các tác giả trong chuyên luận của mình khi nói về vấn đề
giảng dạy và phân tích tác phẩm văn chương đều không bỏ qua đặc thù thẩm mĩ
của thể loại tác phẩm cần phân tích. Tiêu biểu là các công trình của các tác giả:
- Trần Thanh Đạm: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (NXB Giáo
dục, 1971)
- Lê Huy Bắc, Phan Huy Dũng, Nguyễn Văn Hiếu: Những vấn đề thể loại và
lịch sử văn học (NXB Giáo dục, 2008)
- Phan Trọng Luận Xã hội – Văn học – Nhà trường (1996), Văn học trong nhà
trường nhận diện, tiếp cận đổi mới (NXB Đại học Sư phạm, 2007), Cảm thụ văn
học - giảng dạy văn học (1983), Phương pháp dạy học văn (NXB Đại học Sư
phạm, 2008)
- Nhóm tác giả trường ĐHSP Hà Nội I: Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ
thông, NXB Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m, 2001.
- Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể
(NXB Đại học Sư phạm, 2006)
5
- Hoàng Ngọc Hiến: Năm bài giảng về thể loại (Trường viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội, 1992),…
Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại, tác giả Lã Nhâm Thìn cũng khẳng định việc phân tích tác phẩm văn học
từ góc nhìn thể loại là một trong những hướng khoa học nhất, hiệu quả nhất, vừa
có ý nghĩa về khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sư phạm, là “một
công đôi việc”, là “mũi tên đạt được hai đích”, là cần thiết với nhà nghiên cứu
đồng thời cần thiết với người giảng dạy.
Ngoài ra, trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, tác
giả Trần Thanh Đạm đã giải đáp phần nào những thắc mắc, băn khoăn của giáo
viên trong vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Vì thế trong công
trình nghiên cứu này, một mặt tác giả giới thiệu một số kiến thức cơ bản nhất về
các loại, thể văn học chủ yếu có liên quan đến chương trình văn học THPT nhất
là phần văn học Việt Nam xưa và nay. Mặt khác, tác giả cũng đưa ra phương
pháp vận dụng đặc trưng các loại thể vào việc giảng dạy các tác phẩm trong
chương trình Ngữ Văn THPT, có kết hợp phân tích một số bài tiêu biểu thuộc
các thể loại khác nhau…
2.2. Tình hình nghiên cứu của chuyên ngành phương pháp dạy học văn về thơ
trữ tình
- Nguyễn Thanh Hùng: Văn học - Tầm nhìn - biến đổi (1996), Đọc và tiếp nhận
văn chương (NXB Giáo dục, 2002), Hiểu văn, dạy văn (NXB Giáo dục, 2001).
- Nguyễn Thị Thanh Hương: Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương
(NXB Giáo dục,1998).
- Nguyễn Văn Long: Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại ( NXB Giáo dục, 2009).
- Phan Huy Dũng: Kết cấu thơ trữ tình ( NXB Hà Nô ̣i,1999).
6
- Nguyễn Đăng Điệp: Giọng điệu trong thơ trữ tình (qua một số nhà thơ tiêu biểu
của phong trào thơ Mới), ( NXB Văn học, 2002).
- Mã Giang Lân: Tìm hiểu thơ ( NXB Văn hoá Thông tin, 2000).
- Hà Minh Đức: Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (NXB Giáo
Dục, 1997).
- Ngoài ra cuốn sách giáo viên Ngữ văn 12 của Bộ Giáo dục và Đào tạo do Giáo
sư Phan Trọng Luận (tổng chủ biên) cũng đưa ra câu hỏi hướng dẫn học bài của
thơ trữ tình trong chương trình.
Điểm chung của các công trình này là: các tác giả đã khái quát được
những định hướng chung về dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại. Chúng tôi xin điểm qua nội dung một số công trình, chuyên luận, bài viết
nghiên cứu cụ thể về những vấn đề cơ bản của thể loại thơ trữ tình, phương pháp
phân tích, cảm thụ tác phẩm thơ trữ tình theo thể loại rất có giá trị với người
nghiên cứu, người dạy thơ trữ tình.
Công trình Hiểu văn, dạy văn của tác giả Nguyễn Thanh Hùng đã khẳng
định vị trí của thể loại trữ tình trong lịch sử, bản chất, khả năng tác động và
những đặc trưng riêng của thể loại thơ trữ tình. Từ đó, tác giả đã nêu ra những
kết luận về phương pháp: “Cần phải lưu ý đặc biệt đến nhà thơ – tác giả khi dạy
tác phẩm trữ tình và cần phải quan tâm đến bình diện diễn đạt ngôn ngữ nghệ
thuật” [tr14]. Theo tác giả, tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích
hướng học sinh đến những vấn đề như: Làm thế nào để thông qua chủ thể trữ
tình, người học lĩnh hội, nếm trải “hiện thực xã hội”, làm thế nào để học sinh
hiểu được “hiện thực nghệ thuật của tác phẩm”. Như vậy, tác giả đã đặt ra vấn đề
giảng dạy tác phẩm trữ tình gắn với đặc trưng thể loại của tác phẩm, song chưa
đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm thơ trữ tình hiện đại Việt Nam một cách cụ thể.
7
Bên cạnh đó, cuốn sách Giọng điệu trong thơ trữ tình của tác giả Nguyễn
Đăng Điệp nghiên cứu tập trung về một trong những vấn đề phức tạp nhất của thi
pháp học hiện đại - vấn đề giọng điệu nghệ thuật. Tuy ngày nay hầu hết các nhà
nghiên cứu, phê bình đều nói tới giọng điệu văn chương song việc nghiên cứu,
phân tích về nó như một vấn đề lý luận và thao tác thì thật là ít có. Nguyễn Đăng
Điệp cho chúng ta thấy rằng giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn
của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy
hướng vào. Vì thế, giọng điệu là một thuộc tính có vẻ bề ngoài nhưng là bản chất
của văn học, đặc biệt là thơ ca. Với nguồn tài liệu phong phú, sự phân tích cảm
nhận tinh tế, tác giả đã cho thấy sự cần thiế t và sự phức tạp của vấn đề cũng như
sự thú vị của giọng điệu thơ.
Tuy nhiên, những công trình đi sâu, cụ thể vào vấn đề phương pháp giảng
dạy tác phẩm thơ trữ tình trong chương trình Ngữ Văn 12, chương trình Chuẩn,
Trung học phổ thông thì chưa nhiều. Trên cơ sở học hỏi và tiếp thu thành tựu của
người đi trước , luận văn này đi sâu tìm hiểu “Giảng dạy thơ trữ tình 12
(chương trình Chuẩn, Trung học phổ thông) theo đặc trưng thể loại”.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, về đặc
trưng thi pháp thể loại thơ trữ tình, đề xuất các phương pháp cụ thể của việc dạy
thơ trữ tình lớp 12 theo đặc trưng thể loại nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác
phẩ m văn ho ̣c , góp phần khẳng định ưu điểm và tính khả thi của hướng dạy tác
phẩm theo đặc trưng thể loại.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cƣ́u
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Giảng dạy thơ trữ tình cho học sinh lớp 12, chương
trình Chuẩn, THPT.
8
4.2 Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12, GV da ̣y Ngữ Văn 12, chương triǹ h
Chuẩ n ở mô ̣t số trường THPT trên điạ bàn tin̉ h Nam Đinh.
̣
5. Phạm vi nghiên cứu
- Đặc trưng thi pháp thể loại và cách tổ chức hoạt động dạy học một số tác phẩm
thơ trữ tình cụ thể có trong chương trình Ngữ Văn 12, chương trình Chuẩn,
THPT theo đặc trưng thể loại.
- Tại trường THPT Thịnh Long, huyện Hải Hậu và một số trường THPT thuộc
địa bàn tỉnh Nam Định.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Trong bố i cảnh giáo viên Ngữ Văn đang có nhiều lúng túng khi thực hiện
đổ i mới phương pháp da ̣y ho ̣c , viê ̣c xác đinh
̣ tiń h khả thi và vâ ̣n du ̣ng mô ̣t cách
linh hoa ̣t phương pháp da ̣y học này sẽ góp phần đa dạng hóa phương pháp dạy
học Ngữ Văn, giúp GV khai thác sâu tác phẩm văn chương , tạo hứng thú và tích
cực hóa hoa ̣t đô ̣ng của ho ̣c sinh.
7. Nhiêm
̣ vu ̣ nghiên cƣ́u
- Khái quát những kiến thức về thể loại.
- Khảo nghiệm dạy học thơ trữ tình lớp 12, chương trình Chuẩ n ở mô ̣t số trường
THPT trên điạ bàn tỉnh Nam Đinh.
̣
- Xác định phương hướng dạy học hợp lí và hiệu quả cho việc dạy học thơ trữ
tình 12, chương trình Chuẩ n, THPT theo đă ̣c trưng thể loa ̣i.
- Thiế t kế bài da ̣y thơ trữ tình 12, chương trình Chuẩ n , THPT theo đă ̣c trưng thể
loại. Thực nghiê ̣m sư pha ̣m để kiể m chứng kế t quả nghiên cứu.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chính sau đây:
9
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có nội
dung liên quan.
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích.
- Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm liên ngành: Vận dụng kiến thức về
Văn học Việt Nam, Lí luận dạy học hiện đại vào quá trình giải quyết đề tài.
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp, khái quát.
9. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã chỉ ra thực trạng của việc học tập và giảng dạy và học tập văn
bản thơ trữ tình trong nhà trường THPT, từ đó tìm ra những phương pháp, biện
pháp thích hợp, cụ thể để dạy học một số tác phẩm thơ trữ tình lớp 12, chương
trình chuẩn, THPT theo đặc trưng thể loại, giúp giáo viên và học sinh có thêm
những gợi mở cần thiết khi dạy học những tác phẩm này.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Khuyế n nghi,̣ Tài liê ̣u tham khảo và
Phụ lục, nô ̣i dung chin
́ h của luận văn đươ ̣c triǹ h bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
- Chương 2: Thực tiễn giảng dạy văn bản thơ trữ tình ở trường THPT.
- Chương 3: Đổi mới phương pháp dạy học văn bản thơ trữ tình lớp 12, chương
trình Chuẩn, THPT theo đặc trưng thể loại.
10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại
1.1.1. Thể loại văn học
Để việc tiếp nhận đúng hướng, chính xác và giảng dạy đạt hiệu quả một
tác phẩm văn chương thì sự hiểu biết những kiến thức về đặc trưng thể loại là rất
cần thiết. Bởi lẽ khi có những hiểu biết đúng đắn về loại thể chúng ta mới có căn
cứ để xác định được những tính chất của loại ở trong một thể nào đó và khai thác
đúng trọng tâm nội dung tác phẩm và tư tưởng mà nhà văn gửi gắm trong tác
phẩm đó.
Từ điển thuật ngữ văn học, do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên) xác định thể loại văn học như sau:
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và
tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện ở sự
giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng
đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các
hiện tượng đời sống ấy.
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng những phương
pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác nhau
đối với hiện thực, có những cách thức xây dựng hình tượng khác nhau. Các
phương thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau của con
người - hoặc trầm tư, chiêm nghiệm, hoặc qua biến cố liên tục, hoặc qua xung
đột,… làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy định lẫn
nhau về các loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết cấu và hình
thức lời văn. Ví dụ: nhân vật kịch, kết cấu kịch, hành động kịch với lời văn kịch;
hoặc nhân vật trữ tình, kết cấu thơ trữ tình với lời thơ, luật thơ,… Người ta có
11
thể tập hợp thành từng nhóm những tác phẩm văn học giống nhau về phương
thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đó là cơ sở khách quan tồn tại thể
loại văn học và cũng là điểm xuất phát để xây dựng nguyên tắc phân chia thể loại
văn học.
Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát triển
vững bền, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để gìn giữ, đổi
mới thường xuyên các khuynh hướng ấy. Do đó mà thể loại văn học luôn luôn
vừa cũ, vừa mới, vừa biến đổi, vừa ổn định.
Lí luận văn học dựa vào yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học thành
các loại và thể (hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất
kì tác phẩm nào cũng thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn là có một hình
thức thể nào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự, trữ tình, kịch.
Mỗi loại lại bao gồm một số thể.
Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Cùng một loại nhưng
các thể khác nhau rất sâu sắc. Ngoài đặc trưng của loại, các thể còn phân biệt
nhau bởi hình thức lời văn (thơ và văn xuôi), dung lượng (truyện dài, truyện
ngắn,…), loại nội dung cảm hứng (bi kịch, hài kịch, thơ trào phúng, thơ ca
ngợi,…). Một số nhà nghiên cứu còn đề xuất cách chia thể theo loại đề tài, chủ
đề, chẳng hạn: thơ tình, thơ điền viên, truyện lịch sử, truyện tâm lí xã hội, truyện
phong tục,… Điều này cho thấy thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại
nội dung và một dạng hình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời sống.
Các thể loại văn học “là một phạm trù lịch sử. Nó chỉ xuất hiện vào một giai
đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó biến đổi và được thay thế”
(D.Li-kha-chốp), vì vậy khi tiếp cận với các thể loại văn học cần tính đến thời
đại lịch sử của văn học và những biến đối, thay thế của chúng.
12
Nguyễn Văn Long trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt
Nam từ góc nhìn thể loại, NXB Giáo dục Việt Nam cũng chỉ rõ:
Thể loại là một phạm trù cơ bản và phổ biến của văn học, chi phối cả sáng
tác, lưu truyền, tiếp nhận văn học.
Bất kì tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất
định. Đó là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với những
phương thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn. Thể loại
văn học chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ nêu trên.
Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một dạng hình thức
văn bản và phương thức tái hiện đời sống.
Từ xa xưa, ở phương Tây và phương Đông đã xuất hiện nhiều cách phân
chia thể loại văn học. Trong lý luận văn học hiện nay, phổ biến hơn cả là cách
phân chia tác phẩm văn học thành loại và thể.
Từ thời cổ đại ở Hy Lạp, Arixtốt trong công trình Nghệ thuật thơ ca đã đề
xuất cách chia văn học thành ba loại, theo thuật ngữ ngày nay là : tự sự, trữ tình,
kịch. Sự phân loại này có khả năng bao quát rộng rãi các tác phẩm văn học,
nhưng mới dừng lại ở sự phân loại khái quát nhất. Cần có sự phân loại ở cấp độ
cụ thể hơn, bởi vì mỗi tác phẩm văn học không chỉ thuộc về một loại nhất định,
mà còn tồn tại trong những dạng cụ thể của các thể. Thể (còn được gọi là thể
loại) là những dạng tồn tại của tác phẩm văn học, đã từng có (và sẽ có) trong lịch
sử văn học thế giới, mang tính đặc thù của mỗi thời đại văn học, mỗi nền văn
học dân tộc hay khu vực. Thể loại vừa có tính ổn định lại vừa có sự vận động,
biến đổi trong tiến trình văn học. Mỗi thể loại được sinh ra ở một thời kì nhất
định, rồi được duy trì, biến đổi hoặc mất đi trong các thời đại văn học khác, được
thay thế bằng những thể loại khác. Thể loại cũng gắn liền với đặc thù của từng
nền văn học dân tộc hoặc khu vực. Nhưng trong quá trình giao lưu giữa các nền
13
văn học, nhiều thể loại từ một nền văn học hoặc một khu vực đã được du nhập
vào các nền văn ho ̣c khác, để trở thành những thể loại mang tính quốc tế, tuy vẫn
có ít nhiều nét riêng ở mỗi nền văn học.
Đọc và phân tích một tác phẩm văn học không thể không quan tâm đến
đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì thể loại chính là cơ sở tạo nên tính
thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ chức liên kết các yếu tố nội dung và
hình thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống nhân vật, kết cấu và lời văn
nghệ thuật. Thể loại không những quy định cách thức tổ chức tác phẩm mà còn
định hướng cho việc tiếp nhận của độc giả, tạo nên kênh giao tiếp giữa tác phẩm
và người đọc. Thể loại của tác phẩm vừa có tính kế thừa, tính liên tục, lại vừa có
tính độc đáo, tính biến đổi do sự sáng tạo của tác giả. Vì thế, phân tích tác phẩm
theo đặc trưng thể loại không thể chỉ dừng lại ở những đặc điểm chung của một
thể loại thể hiện trong tác phẩm, mà còn cần phải chỉ ra nét riêng biệt, độc đáo,
thể hiện sự sáng tạo không lặp lại của tác giả.
Các tác giả trong cuốn Lý luận văn học (tập 2): Phương Lựu, Trần Đình
Sử, Nguyễn Xuân Nam quan niệm: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ
quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung nhất định có
một hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể”.
Từ những điều trên, chúng tôi cùng thống nhất cách hiểu về khái niệm thể
loại văn học như sau:
Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn
bản
Tên gọi thể loại của tác phẩm cho ta biết: phạm vi và phương thức tiếp
xúc, tái hiện đời sống; hệ thống các phương tiện, phương pháp thể hiện tương
ứng.
14
- Xem thêm -