Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ dạy học tác phẩm vợ nhặt của kim lân ở trường trung học phổ thô...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ dạy học tác phẩm vợ nhặt của kim lân ở trường trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại

.PDF
113
2136
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC KIỀU THỊ HÀ DẠY HỌC TÁC PHẨM “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI – 2014 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC KIỀU THỊ HÀ DẠY HỌC TÁC PHẨM “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 01 11 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ VĂN ĐỨC HÀ NỘI - 2014 ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ. Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy giáo, Cô giáo của trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời gian học tập. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS. TS. Hà Văn Đức – người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình làm và hoàn thiện luận văn này. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp, các học viên trong lớp K8 Ngữ văn và thầy cô giáo trường THPT A Kim Bảng, các em học sinh đã nhiệt tình giúp đỡ và đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thành đúng tiến độ. Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian và khả năng bản thân có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô giáo. Xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 11 năm 2014 Tác giả Kiều Thị Hà i DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐHSP : Đại học Sư phạm GS : Giáo sư GV : Giáo viên HS : Học sinh NXB : Nhà xuất bản PGS : Phó giáo sư SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên THCS : Trung học cơ sở TS : Tiến sĩ ii MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn ................................................................................................ i Danh mục viết tắt .........................................................................................ii Mục lục ........................................................................................................ iii Danh mục các bảng ......................................................................................v MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 11 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................. 1.1. Thể loại văn học và đặc trưng của tác phẩm tự sự................................11 1.1.1. Quan niệm chung về thể loại văn học ................................................. 11 1.1.2. Đặc trưng của loại hình tác phẩm tự sự .............................................. 14 1.1.3. Đặc trưng thể loại truyện ngắn............................................................ 19 1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại ........................... 29 1.2.1. Dạy học loại tự sự tác giả ................................................................ 31 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC TÁC PHẨM VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI ................................................................................................34 2.1. Vị trí, vai trò của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn “Vợ nhặt” trong nền văn học dân tộc ............................................................................. 34 2.1.1. Kim Lân là một nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn ................................ 34 2.1.2. Truyện ngắn “Vợ nhặt” và sự kết tinh nhiều giá trị ............................ 36 2.2. Thực trạng dạy tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân ở trường trung học phổ thông hiện nay ................................................................................ 41 2.2.1. Khảo sát thực tế .................................................................................. 44 2.2.2. Khảo sát giáo viên và học sinh ........................................................... 45 2.2.3. Nhận xét và kết luận về thực trạng...................................................... 53 2.3. Định hướng dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân theo đặc trưng thể loại ................................................................................................ 55 2.3.1. Định hướng chung .............................................................................. 55 2.3.2. Định hướng dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” theo đặc trưng thể loại .............. 58 74 Chương 3: GIÁO ÁN VÀ THỰC NGHIÊM............................................. 3.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................ 74 iii 3.2. Những vấn đề chung của thực nghiệm ................................................... 93 3.2.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................ 93 3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ................................ 94 3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm ....................................................... 95 3.3.1. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ 95 3.3.2. Tiến trình thực nghiệm ................................................................ 95 3.4. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 96 3.4.1. Tiến hành kiểm tra .............................................................................. 96 3.4.2. Kết quả kiểm tra ................................................................................ 96 3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................... 97 100 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 1. Kết luận ................................................................................................ 100 2. Khuyến nghị ............................................................................................. 101 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... PHỤ LỤC................................................................................................ 105 iv DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Tổng hợp từ 11 giáo viên trường THPT A Kim Bảng và 13 giáo viên Trường THPT B Kim Bảng huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam………………………………..…………………… Bảng 2.2. Tổng hợp 175 phiếu của trường THPT A Kim Bảng và Trường THPT B Kim Bảng huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Bảng 3.1. 46 48 Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng………………………………………………..….. v 97 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định. Vì vậy muốn dạy học hiệu quả thì việc xác định được thể loại là một vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn chương. Thể loại chính là chìa khóa để khám phá được tầng nghĩa sâu của tác phẩm. Việc dạy học tác phẩm văn chương hiện nay ở nhà trường phổ thông còn nhiều hạn chế do chúng ta chưa ý thức được tầm quan trọng của thể loại. Một thực tế hiện nay cho thấy chưa có nhiều tài liệu đi sâu vào việc hướng dẫn dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại một cách tường tận. Do đó, giáo viên không tránh khỏi những khó khăn lúng túng trong cách soạn giáo án cũng như trong cách dạy học các tác phẩm cụ thể. 1.2. Tác phẩm truyện ngắn được tuyển vào giảng dạy ở chương trình phổ thông khá đa dạng và phong phú của các tác giả tiêu biểu làm nên diện mạo văn học Việt Nam. Các tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy ở phổ thông chiếm 3/4 số lượng các tác phẩm trong chương trình. Điều này phản ánh đúng tương quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời sống văn học của chúng ta. Mặc dù vậy, việc phân tích giảng dạy truyện ngắn còn chưa chú ý đúng mức và chưa làm nổi bật đặc trưng thể loại. Phần lớn mới chỉ chú ý đến đặc trưng “truyện” mà chưa chú ý đến “truyện ngắn”. Nếu chỉ phân tích nhân vật, cảnh vật, cốt truyện, kết cấu…không thôi thì chưa làm nổi bật đặc trưng thể loại truyện ngắn. 1.3. Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân là nhà văn không có nhiều đầu tác phẩm, nhưng những tác phẩm của ông vẫn mãi mãi neo đậu trong tâm hồn bạn đọc. Nó để lại dấu ấn lâu bền trong lòng độc giả, thôi thúc trái tim ta hướng về nơi quê hương nguồn cội, bởi Kim Lân được chắt ra từ cuộc đời của chính nhà văn, từ sự hội tụ của những yếu tố quê hương, cộng đồng và thời đại. Gia tài của Kim Lân không nhiều, từ truyện ngắn đầu tay: Đứa con người vợ lẽ đăng ở báo Trung Bắc chủ nhật số 120 ngày 26/7/1942 đến 1 những tập truyện ngắn tiêu biểu Nên vợ nên chồng, Con chó xấu xí đã xếp ông vào số ít nhà văn có thể minh chứng cho chân lí “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” trong nghệ thuật. Với một đời văn khá dài hơn năm mươi năm cầm bút, ông chỉ trình làng trên ba mươi tác phẩm, nhưng nhà văn Kim Lân lại là một trong những gương mặt xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đã phản ánh chân thực nạn đói của dân tộc năm 1945, và cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8 – 1945. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 12, được khai thác trên nhiều bình diện: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, tình huống truyện độc đáo… Các ý kiến đó thật phong phú, tuy nhiên đối với mỗi một tác phẩm văn học thì có rất nhiều con đường giải mã khác nhau, chưa có sự thống nhất với nhau. Mặc dù đã có nhiều hướng dạy học được đưa ra khi giảng dạy tác phẩm này, nhưng mạch ngầm khai thác chưa cạn kiệt, nó là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú cho mỗi người giáo viên khai thác để truyền thụ cho học sinh. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành và lựa chọn đề tài: “Dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân ở trường trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại ” làm luận văn thạc sĩ. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại Vấn đề thể loại đã được các nhà lí luận văn học quan tâm từ khá sớm. Đặc biệt vấn đề lí luận về thể loại chủ yếu được nghiên cứu đúc kết, biên dịch trong các bộ giáo trình đại học, cao đẳng cùng một số chuyên luận của Giáo sư Hà Minh Đức, Giáo sư Phương Lựu, Giáo sư Trần Đình Sử. Tiếp đến là một số công trình nghiên cứu liên quan đến loại thể văn học như của GS Đặng Thai Mai, PGS Hoàng Tiến Tựu, PGS Nguyễn Đăng Na… Từ những góc độ khác nhau, các tác giả cũng có những quan điểm về thể loại trong tiếp nhận, 2 nghiên cứu, sáng tác… phần nào giúp cho đông đảo giáo viên văn có được cái nhìn mới mẻ, phong phú về thể loại. Tuy vậy, những giáo trình, những chuyên luận về giảng dạy văn học trong nhà trường theo thể loại không nhiều. Mấy vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) của nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn và Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể (2001) của PGS. TS Nguyễn Viết Chữ là những tài liệu vẫn thường được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên Ngữ văn và học viên cao học ngành Lí luận và phương pháp dạy học văn. Mặt khác những công trình nghiên cứu về đặc trưng của các thể loại văn học hầu như chưa có. Khi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới được tổ chức biên soạn theo cụm thể loại và dạy học đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại thì những công trình về thể loại nói chung tỏ ra xa rời thực tiễn. Lí luận về loại thể văn học chưa được nghiên cứu và vận dụng tương xứng với tầm quan trọng của nó. Ngay cả trong chương trình Ngữ văn phổ thông, lí luận về loại thể văn học cũng không được đề cập tới. Gần đây, đã có một số chuyên đề đặc biệt về đặc trưng thể loại. PGS Đỗ Bình Trị có chuyên đề Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian. Tác giả Hoàng Ngọc Hiến có Nhập môn văn học và Phân tích thể loại. PGS, TS Nguyễn Thành Thi có chuyên đề về Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Đặc trưng truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945... Hiện nay, trên các tạp chí, các đợt tập huấn đổi mới phương pháp dạy học văn, tập huấn thay sách… đều có đề cập đến vấn đề giảng dạy văn theo đặc trưng thể loại Đời sống thể loại văn học Việt Nam nửa đầu thế lỉ XX – Vũ Tuấn Anh; Mô hình đọc hiểu theo đặc trưng thể loại với việc hình thành và bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu văn bản văn chương cho học sinh trung học phổ thông – Trần Thị Thu Hồng… Các chuyên luận, bài viết đã đi sâu vào tìm hiểu đặc trưng của một bộ phận văn học, một giai đoạn văn học. Đó là một sự vận dụng cụ thể, có đóng góp nhiều cho dạy học văn. Những vấn đề các tác giả 3 đặt ra một mặt giúp cho người giáo viên văn ở trường phổ thông có được những kiến thức cơ bản, hệ thống về đặc trưng thi pháp của các thể loại từ đó giúp cho công việc giảng dạy thuận lợi và có hiệu quả. Mặt khác, các tài liệu cũng đã trình bày những quan điểm mới mẻ bổ sung cho những quan điểm thường thấy trong những công trình lí luận đang lưu hành ở nước ta. 2.2 Các công trình nghiên cứu về Kim Lân Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng, ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã được nhiều người giới thiệu, phê bình. Ông được xem xét kĩ lưỡng ở từng giai đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả lĩnh vực tiểu luận, phê bình.... 2.2.1 Trước năm 1975 Nhà văn Nguyên Hồng, trong: Những nhân vật ấy đã sống với tôi đã đưa ra nhận xét về nội dung tư tưởng và giọng điệu của các tác phẩm của Kim Lân: “Từ giữa những năm 1943 – 1945 ấy, tôi đã đọc được mấy truyện của Kim Lân… Thoạt tiên tôi những chẳng không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ với nhau với một số tên như Mộng Ngọc, Mộng Dương hay Hoài Trạch, Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy. Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại có cái gì đó chân chất của đời sống con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết đặc biệt lại gần gũi với mình”.[14, tr.103] Ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, nhưng chất hiện thực cứ toát ra một cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông. Nhân vật trong những trang viết của Kim Lân chủ yếu là những người nông dân nghèo khổ - con người gần gũi với quê hương ông, lam lũ, từ cuộc sống thực tế bước trực tiếp vào văn học. Nguyên Hồng, Lại Nguyên Ân cũng đã đưa ra nhận xét về các nhân vật trong trang văn của Kim Lân như sau: “Đọc văn xuôi Kim Lân ta bắt gặp cái thế giới của những người nông dân nghèo vốn là “hạng hạ lưu” ở xã 4 hội cũ: Những người nông dân miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ, bến sông, một góc phố hay ven đồn điền, một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hàng ngày ”.[14, tr 110] Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong cuốn Nhà văn Kim Lân – chân dung văn học thật có lí khi lí giải rằng: “hình như mẫu người đầu thừa đuôi thẹo đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đương hoàng chững chạc”.[24, tr 47] Trong Tổng tập văn học Việt Nam GS Nguyễn Đăng Mạnh một lần nữa bộc lộ cái nhìn về số phận của những kiếp người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ và cái nhìn về phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi dân gian: “Đó là những trang số phận của những đầu thừa đuôi thẹo được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chứa chất nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bầy những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện được một phần vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa”. [27, tr 5] Không những thế, GS còn đưa ra những nhận xét thật sắc sảo về những phong tục, tập quán mà Kim Lân đã thể hiện trong truyện ngắn của mình: “Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gì gọi là “thú đồng quê” hay phong lưu đồng ruộng”. Rồi ông lại tiếp tục lí giải: “Sở dĩ có sự hấp dẫn không phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kì lạ,những thú chơi phiền phức, cầu kì được trình bầy cặn kẽ mà chính là nhà văn đã thể hiện lên được những con người ở làng quê độc đáo kia, tuy nghèo khổ mà vẫn yêu đời” [27, tr 72] Nguyễn Khải một trong những tác giả nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại đã khái quát lại toàn bộ truyện ngắn Kim Lân: “Nếu nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm viết trước Cách mạng đến những tác phẩm sau này, người đọc dễ nhận ra nét riêng của Kim Lân là: Một ngòi bút cẩn thận, tỉ mỉ, sâu lắng, luôn luôn cố gắng đi đến tận 5 cùng nỗi niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận riêng, để từ đó góp một tiếng riêng vào trang sử riêng vào tâm tư tình cảm con người Việt Nam hiện đại”.[40, tr 75] Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố chất, vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc Bộ - những con người lịch lãm hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đánh giá cao nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân qua bài viết Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân tác giả Bảo Nguyên đã cho rằng: “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ mang hơi thở của cuộc sống hàng ngày để diễn đạt với chúng cuộc sống miền quê với những con người giản dị mà mến yêu” [40, tr 84]. Điều đó có lẽ đã làm cho tác phẩm của Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong cách rất riêng về bố cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả người tả việc… Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm rằng giọng văn chủ đạo của Kim Lân thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp văn của ông chậm, gọn…đó là một thứ giọng điệu phù hợp với quang cảnh nông thôn với văn minh nông nghiệp…Còn trong các truyện tâm lí xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể giản dị độc đáo. Trong số các bài nghiên cứu, phê bình về Kim Lân vào những năm tháng này, đáng ghi nhận nhất là hướng đi thẳng vào văn bản để tìm kiếm những nét đặc sắc, độc đáo. Nhờ vậy các ý kiến đưa ra có sức thuyết phục cao. Song những bài nghiên cứu, chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu có hệ thống về thi pháp truyện ngắn Kim Lân chưa có nhiều. 2.2.2. Sau năm 1975 Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu về Kim Lân có sự phát triển và mở rộng thêm nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu dừng lại ở đánh giá quan điểm lập trường tư tưởng trực diện vấn đề phong cách qua văn bản nghệ thuật. Tuy vậy, nhìn chung các sáng tác của Kim Lân được xem xét với một thái độ trân 6 trọng. Ông được nhìn nhận như một hiện tượng khá đặc biệt trong số những nhà văn viết về đề tài nông thôn. Tác giả Trần Ninh Hồ trên báo văn nghệ số 34 (1991) đã nhận xét về Kim Lân đó là tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác nhau, nhưng Kim Lân là nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn tả thành lời. Năm 2005 tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật, về ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật truyện ngắn Kim Lân. Nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét: “Văn Kim Lân luôn mang đậm hồn quê, sự kế tục ngôn ngữ, phong tục của người Việt Nam”.[40, tr 98] Năm 2006 tác giả Nguyễn Quỳnh Thanh trong luận văn: Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân đã đề cập đến cảm hứng chủ đạo, phân tích trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân. Như vậy, qua việc trình bày các công trình nghiên cứu ở trên về tác giả Kim Lân cũng như giá trị sáng tác của ông, chúng tôi có thể đi đến kết luận rằng: Đã có nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu về tác giả Kim Lân và các tác phẩm của ông ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau: nội dung tác phẩm, ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu, thi pháp phong cách… Song những bài nghiên cứu, chuyên luận nghiên cứu sâu về nét riêng thi pháp truyện ngắn Kim Lân chưa có nhiều. Những năm gần đây có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về các tác phẩm của Kim Lân song chưa có công trình nào bàn trực tiếp về hướng dạy học truyện ngắn này. Chính vì vậy, việc đưa hướng dạy học truyện ngắn hiện thực trong văn học Việt Nam nói chung và truyện ngắn Kim Lân nói riêng cần được quan tâm nghiên cứu để tìm ra hướng dạy học phù hợp, hiệu quả. Luận văn của chúng tôi nghiên cứu về đề tài này trên cơ sở gợi mở của những người đi trước. 7 2.3. Các công trình nghiên cứu về tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân Truyện ngắn Vợ nhặt được Kim Lân viết sau hoà bình 1954. Vì vậy vẻ đẹp của tình người, cảm hứng nhân bản, nhân đạo đằm thắm, mang ý nghĩa cao rộng hơn so với những truyện trước đó (Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa, Làng, Con chó xấu xí). Tình người trong câu chuyện phải chăng là sự cảm thương, đùm bọc, nương tựa vào nhau cùng chống lại cái đói, nghèo hèn trong những đêm đen của cuộc sống mà xây dựng lại cuộc đời mình, vun đắp cho hạnh phúc trước mắt và gia đình về sau… Từ những giá trị trên theo chúng tôi tìm hiểu, truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã có một số công trình nghiên cứu sau: - “Xây dựng tình huống có vấn đề để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân” – ĐHSP Hà Nội – 2006 của Trần Thị Quỳnh Hoa. - “Dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân cho học sinh trung học phổ thông từ cái nhìn văn hoá” – ĐHSP Hà Nội – 2006 của Nguyễn Thị Thu Thảo. - “Hướng dẫn học sinh phân tích chất thơ của đời sống trong truyện ngắn “Vợ nhặt của Kim Lân””- ĐHSP Hà Nội 2012 của Nguyễn Thu Nga. Ngoài ra tác phẩm “Vợ nhặt” còn có trong một số đề tài nghiên cứu khác về các truyện ngắn của Kim Lân như: - “Những giá trị tiêu biểu về tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn Kim Lân” – ĐHSP Hà Nội - 1997 của Nguyễn Văn Bao. - “Những đặc sắc của truyện ngắn Kim Lân” – ĐHSP Hà Nội - 2003 của Nguyễn Tiến Đức. - “Nông thôn và hình ảnh người dân trong sáng tác của Kim Lân”ĐHSP Hà Nội – 2003 của Mã Thu Ngà. - “Phong cách nghệ thuật Kim Lân” – ĐHSP Hà Nội – 2004 của Nguyễn Thị Thu. 8 Bên cạnh những công trình nghiên cứu liên quan đến tác phẩm Vợ nhặt về tác phẩm Vợ nhặt còn phải kể đến những bài phân tích, bình giảng về truyện ngắn Vợ nhặt - một tác phẩm được chọn giảng trong nhà trường ở chương trình lớp 12. - Bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt trong “Để học tốt Ngữ văn 12” . - Bài viết “Sự sống đối mặt với cái chết” của Nguyễn Thị Thanh Cảnh trong “Tiếng nói tri âm” - tập 1. - Bài “Tác giả Kim Lân và hình tượng người đàn bà không tên trong “Vợ nhặt”” của Trương Vũ Thiên An trên báo Giáo dục và thời đại – 1998. Đây là những công trình khoa học nghiên cứu một cách công phu và hệ thống nêu bật được những giá trị tiêu biểu về nội dung và ngệ thuật của truyện ngắn Kim Lân nói chung, tác phẩm Vợ nhặt nói riêng. Đồng thời cũng có một số bài đã đưa ra hướng dạy học tác phẩm này. Tuy nhiên hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm này theo đặc trưng thể loại thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi đã đi đến quyết định lựa chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học tác phẩm: Vợ nhặt ở nhà truyện ngắn trong chương trình. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Tìm hiểu về thể loại văn học, đặc trưng loại hình tác phẩm tự sự, đặc trưng thể loại truyện ngắn. Thứ hai: Tìm hiểu về thực trạng dạy học tác phẩm Vợ nhặt ở một số trường trên địa bàn huyện Kim Bảng. Tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để từ đó xác định hướng dạy học hợp lí và hiệu quả cho việc dạy học tác phẩm Vợ nhặt ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay. 9 Thứ ba: Thiết kế giáo án giảng dạy tác phẩm Vợ nhặt và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy truyện ngắn: Vợ nhặt của Kim Lân ở trường trung học phổ thông. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân theo đặc trưng thể loại. Phạm vi nghiên cứu: Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp loại hình. Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Thực trạng và định hướng dạy học tác phẩm: "Vợ nhặt" của Kim Lân ở trường trung học phổ thông Chương 3: Giáo án và thực nghiệm 10 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Thể loại văn học và đặc trưng của tác phẩm tự sự 1.1.1. Quan niệm chung về thể loại văn học Theo GS Trần Đình Sử trong Lí luận văn học tập 2 (NXB Đại học Sư phạm 2008) “ Thể loại văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định của một loại hình thức nhất định tạo cho tác phẩm” [34, tr 221]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học NXB Giáo dục: “ Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử văn học thể hiện ở sự khác nhau về cách thể hiện chủ đề tác phẩm, về đặc điểm của các hiện tượng đời sống được miêu tả về tính chất của mối 3quan hệ của nhà văn với các hiện tượng đời sống ấy.” [41, tr 252 - 25]. Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng các phương pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau thể hiện những quan niệm thẩm mĩ khác nhau đối với hiện thực, có những cách xây dựng hình tượng khác nhau. Các phương thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy định lẫn nhau về loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết cấu và hình thức lời văn. Người ta có thể tập hợp thành từng nhóm tác phẩm văn học giống nhau về phương thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đó là cơ sở khách quan của sự tồn tại thể loại văn học và cũng là điểm xuất phát để xậy dựng nguyên tắc phân chia thể loại văn học. Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát triển bền vững, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để giữ gìn, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy. Do đó thể loại văn học luôn vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định. 11 Lí luận văn học dựa vào các yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể. Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một loại nhất định, và quan trọng hơn là có một hình thức thể nào đó. Loại và thể mang tính chất biện chứng của cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Về phương diện cấu trúc nội dung của tác phẩm văn học thì loại là chất mà thể là hình thức biểu hiện cụ thể của loại, không có thể thì loại không không biểu hiện ra được. Nhưng khi đã biểu hiện ra thành thể thì nó lại có tính độc lập tương đối. Cuốn Lí luận văn học của GS Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long khẳng định rằng: Tính chất tương đối của ranh giới thể loại còn biểu hiện ở sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại trong quá trình phát triển. Có khi các tác phẩm khác nhau thuộc một thể tài lại biểu hiện tính chất của những loại khác nhau. Ví dụ thể thơ thì có thơ tự sự, thơ trữ tình, kịch thơ…Thực tế các tác phẩm văn chương cho thấy rằng khó có thể xác định máy móc tác phẩm này là thể loại tự sự, trữ tình hay kịch. Trong tác phẩm trữ tình có yếu tố tự sự và ngược lại. Một tác phẩm văn chương luôn chịu sự ràng buộc từ hai phía loại và thể. Loại và thể phụ thuộc chặt chẽ với nhau nhưng vẫn có tính độc lập tương đối. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại. Mỗi loại trên gồm một số thể nhỏ: * Loại tự sự: phản ánh đời sống trong tính khách quan (tương đối) của nó – qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó. Loại tự sự bao gồm: Tự sự dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười.Tự sự trung đại và hiện đại: truyền kì, tiểu thuyết, truyện vừa, kí. * Loại trữ tình: biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ… được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Tác giả có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân của mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. 12 Loại trữ tình gồm: Trữ tình dân gian: tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu đối. Trữ tình trung đại và hiện đại: thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do… * Loại kịch gồm: Kịch bản văn học: chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch. Nghệ thuật sân khấu: mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hoá trang, ánh sáng, âm thanh… Bên cạnh việc nắm vững đặc điểm của mỗi loại, chúng ta có thể dựa vào thi pháp tư tưởng, phong cách, cái “tạng” riêng của từng nhà văn để khám phá ra “chất của loại” trong tác phẩm cụ thể. Ví dụ: Nam Cao là một nhà văn hiện thực, ngòi bút của ông thường thể hiện những nỗi đau sâu kín trong tâm hồn con người, để rồi từ đấy tiếng tơ đàn thánh thiện của tâm linh được bật lên tràn đầy vẻ nhân văn. Tác phẩm của Nam Cao thường thể hiện nỗi đau tinh thần giằng xé trong tâm hồn con người, con người trong tình huống bị hạ nhục; cái nhục bị đẩy lên tận cùng là lúc nhân tính phát sáng. Tác phẩm của Nam Cao thường có nhiều tầng bi kịch. Nếu không xác định được tầng tư tưởng của nhà văn, ta chỉ mới dạy học ở tầng nghĩa cụ thể nào đó. Ở trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố thì lại mang một phong cách riêng, các tác phẩm của ông thường vang lên tiếng kêu cứu của những người bần cố nông nhất là phụ nữ và trẻ em. Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là những tấn bi hài kịch của những kiếp người. Thạch Lam cũng vậy. Cái riêng của ông là thể hiện vẻ đẹp tình người kín đáo, đằm thắm, khẽ khàng, sâu xa lắng đọng. Chất “thơ văn xuôi”, “chất trữ tình hiện thực” tràn đầy trong tác phẩm của ông. Chúng ta phải dạy học tác phẩm của Thạch Lam theo hướng với tác phẩm trữ tình cho dù nó là truyện. Xuân Diệu và Tản Đà dù có viết truyện ngắn thì vẫn là truyện trữ tình của nhà thơ. Nguyên Hồng có làm thơ thì cũng là thơ của các tác giả văn xuôi. Qua “tạng nghệ sĩ” có thể khám phá ra “chất của loại” trong tác phẩm là vì vậy. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận biết loại thể qua những dấu hiệu của tổ chức cấu trúc, cách thể hiện của tác phẩm. Loại tự sự thường có tiết tấu đầu 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất