ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
TRẦN BẢO TRÂN
LAM VỸ CỦA ĐỖ HOÀNG DIỆU
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Đà Nẵng – 2022
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
TRẦN BẢO TRÂN
LAM VỸ CỦA ĐỖ HOÀNG DIỆU
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH VĂN HỌC NỮ QUYỀN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN
PGS. TS. NGÔ MINH HIỀN
Đà Nẵng – 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thật sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Ngô Minh Hiền.
Những kết luận được trình bày trong khóa luận là trung thực và chưa từng
được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2022
Tác giả khóa luận
Trần Bảo Trân
LỜI CẢM ƠN
Đề tài Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền là nội dung tôi chọn nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau thời gian
theo học ngành Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
Trong quá trình đó, tôi đã nghiên cứu và hoàn thành khóa luận với sự giúp
đỡ từ rất nhiều các thầy cô giáo. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc đến PGS. TS. Ngô Minh Hiền, thuộc Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư
phạm, Đại học Đà Nẵng đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Nhân dịp này, tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm, Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
tại trường.
Lời cuối tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè thân thiết đã bên tôi, động
viên, hỗ trợ tôi hoàn thành khóa luận này.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2022
Tác giả khóa luận
Trần Bảo Trân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................................... 2
3.Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 5
4.1.Đối tượng nghiên cứu........................................................................................... 5
4.2.Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 5
5.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 5
5.1.Phương pháp phân tích - tổng hợp ....................................................................... 5
5.2.Phương pháp so sánh – đối chiếu ......................................................................... 5
5.3.Phương pháp phê bình văn học nữ quyền ............................................................ 6
5.4.Phương pháp loại hình ......................................................................................... 6
6.Bố cục khóa luận ..................................................................................................... 6
NỘI DUNG ................................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1 LAM VỸ TRONG DÒNG Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TIỂU
THUYẾT NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .............................................................. 7
1.1. Khái quát lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền ............................. 7
1.1.1. Nữ quyền và lý thuyết nữ quyền ...................................................................... 7
1.1.1.1. Nữ quyền ....................................................................................................... 7
1.1.1.2. Lý thuyết nữ quyền ....................................................................................... 8
1.1.2. Phê bình văn học nữ quyền ............................................................................ 10
1.2. Đỗ Hoàng Diệu và tiểu thuyết Lam Vỹ ............................................................. 18
1.2.1. Đỗ Hoàng Diệu – hiện tượng “nổi loạn” của Văn học Việt Nam đương đại. 18
1.2.1.1. Con đường văn chương của Đỗ Hoàng Diệu .............................................. 18
1.2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Đỗ Hoàng Diệu ................................................ 19
1.2.2. Tiểu thuyết Lam Vỹ – cánh chim lạ trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại ..... 21
Tiểu kết .................................................................................................................... 22
CHƯƠNG 2 THIÊN TÍNH NỮ VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG TIỂU
THUYẾT LAM VỸ ................................................................................................. 24
2.1. Từ thế giới người nữ đầy biến động….............................................................. 24
2.1.1. Nhân vật nữ cùng nỗi đau thân phận.............................................................. 24
2.1.2. Nhân vật nữ với nỗi khát yêu và bi kịch tình yêu .......................................... 27
2.1.3. Nhân vật nữ và thiên chức làm mẹ................................................................. 30
2.1.4. Nhân vật nữ cùng những ẩn ức tính dục không thể giãi bày.......................... 33
2.2. Đến ý thức nữ quyền ......................................................................................... 38
2.2.1. Sự tự nhận thức về bản thể nữ........................................................................ 38
2.2.2. Bi kịch niềm tin đã mất .................................................................................. 42
2.2.3. Kháng cự chế độ nam quyền và xác lập vị thế nữ giới .................................. 44
Tiểu kết .................................................................................................................... 46
CHƯƠNG 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THIÊN TÍNH NỮ VÀ Ý THỨC NỮ
QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT LAM VỸ ....................................................... 48
3.1. Sự hoà kết giữa những người kể chuyện ........................................................... 48
3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba ......................................................................... 48
3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất ...................................................................... 53
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 57
3.2.1. Khai thác thế giới tinh thần người nữ ............................................................ 57
3.2.2. Lý giải sự bất toàn của người nam ................................................................. 66
3.3. Giọng điệu nghệ thuật ....................................................................................... 69
3.3.1. Giọng yêu thương, nhẹ nhàng, tha thiết ......................................................... 69
3.3.2. Giọng xác quyết, mạnh mẽ ............................................................................ 72
3.3.3. Giọng châm biếm, giễu nhại .......................................................................... 75
3.3.4. Giọng triết lí, chiêm nghiệm .......................................................................... 78
Tiểu kết .................................................................................................................... 80
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 84
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đến nay, tư tưởng nữ quyền và văn học nữ quyền trên toàn thế giới đã phát
triển không ngừng với nhiều giai đoạn khác nhau. Đây chính là sự nỗ lực giúp
người phụ nữ tìm lại tiếng nói và vị thế đã mất. Thông qua hệ tư tưởng ấy, người nữ
đã xác lập nên giá trị riêng, đấu tranh cho quyền bình đẳng và khẳng định quyền lợi
của giới mình. Từ việc được xem là yếu tố ngoại biên, văn học nữ quyền đã xây
dựng được vị thế vững chắc, trở thành một trong những vấn đề trung tâm, có sức
ảnh hưởng to lớn trong nền văn học thế giới. Cùng với văn học nữ quyền, phê bình
văn học nữ quyền cùng được hình thành nhằm tiếp cận thế giới do người nữ tạo nên
và khám phá vấn đề của nhân loại. Điều này đã góp phần mang lại thế cân bằng
giữa nam và nữ trong lĩnh vực phê bình văn học nói riêng và văn học nói chung.
1.2. Tiểu thuyết nữ Việt Nam từ sau Đổi mới 1986 đến nay đã có những bước tiến
vững chắc, nhận được sự ủng hộ, công nhận của giới nghiên cứu và độc giả. Đặc
biệt, trong dòng chảy văn học nữ quyền, tiểu thuyết nữ là một dòng riêng mang đậm
cảm thức nữ giới với các cây bút nổi bật như: Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Phạm Thị
Hoài, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Linda Lê, … Tiểu
thuyết nữ đã xác lập nên một lối viết nữ, diện mạo riêng đậm bản sắc phái tính.
Kháng cự lại tình trạng mất tiếng nói, tiểu thuyết nữ với ý thức nữ quyền đã mang
đến những quan niệm về con người và cuộc đời từ góc nhìn người nữ, khiến văn
học Việt thực sự “mang gương mặt nữ” (chữ dùng của Bùi Việt Thắng).
1.3. Đỗ Hoàng Diệu là cái tên không thể thiếu khi nhắc đến văn học nữ quyền Việt
Nam nói chung và tiểu thuyết nữ quyền Việt Nam nói riêng. Bằng giọng văn mạnh
mẽ, quyết liệt cùng ngôn ngữ mới mẻ, sáng tác của nhà văn này đã trở thành một
hiện tượng lạ trong làng văn Việt. Người phụ nữ trong văn Đỗ Hoàng Diệu luôn
mang thân phận bị ghìm chặt bởi hai tiếng “đàn bà”. Viết về giới mình, nhà văn đã
thể hiện thái độ xót thương, trân trọng, đồng thời luôn khẳng định giá trị và sự bình
đẳng của người nữ trong thế tương quan với người nam. Trang viết của Đỗ Hoàng
Diệu vì thế thấm đẫm tư tưởng nhân văn và ý thức nữ quyền.
1.4. Năm 2016, Đỗ Hoàng Diệu trở lại văn đàn Việt với tiểu thuyết đầy ma mị Lam Vỹ. Trong thế giới tăm tối, Lam Vỹ là cánh chim cô độc với vết thương không
1
ngừng rỉ máu nhưng cũng rất mạnh mẽ, độc lập giữa bầu trời giông bão. Màu sắc nữ
quyền trong tác phẩm này cũng được nhà văn sử dụng khéo léo, hợp lí cùng lối viết
nữ độc đáo. Có thể khẳng định, Lam Vỹ chính là tác phẩm khẳng định sự tự hoàn
thiện của Đỗ Hoàng Diệu cả về bút lực lẫn tư tưởng nghệ thuật.
Chọn đề tài Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu từ góc nhìn phê bình văn học nữ
quyền, chúng tôi mong muốn góp phần nghiên cứu và vận dụng tri thức về phê bình
văn học nữ quyền vào tiếp nhận tác phẩm văn học, đặc biệt là tiểu thuyết. Trên nền
tảng của những người đi trước, chúng tôi mong muốn tiếp cận tiểu thuyết Lam Vỹ
thông qua phê bình văn học nữ quyền nhằm phát hiện giá trị, đặc điểm nữ quyền
trong tác phẩm này cũng như khẳng định tài năng cùng lối viết nữ riêng biệt của Đỗ
Hoàng Diệu. Từ đó khẳng định đóng góp của Đỗ Hoàng Diệu và tiểu thuyết Lam Vỹ
đối với văn học nữ quyền nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đồng thời,
khóa luận này cũng trang bị thêm kiến thức về nữ quyền, văn học nữ quyền, phê
bình văn học nữ quyền và rèn luyện, củng cố kỹ năng nghiên cứu khoa học để
chúng tôi hướng đến những nghiên cứu trong tương lai.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tuy không sáng tác nên nhiều tác phẩm nhưng Đỗ Hoàng Diệu vẫn nhận được
sự quan tâm nồng nhiệt của giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam. Đặc biệt, vào
năm 2005, Đỗ Hoàng Diệu cho ra mắt truyện ngắn Bóng đè – một hiện tượng mới lạ
trong văn học Việt Nam đương đại. Cái tên Đỗ Hoàng Diệu từ đấy cũng được nhắc
đến nhiều hơn và đứng trong hàng ngũ những cây bút nữ Việt Nam đương đại nổi
bật. Đến năm 2016, Đỗ Hoàng Diệu, sau khoảng thời gian vắng bóng trên văn đàn,
đã trở lại với Lam Vỹ. Tiểu thuyết này cũng nhận được sự quan tâm của giới chuyên
môn và ít nhiều ý kiến trái chiều từ người đọc.
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến dành sự đánh giá cao cho tiểu thuyết Lam Vỹ khi
khẳng định rằng tiểu thuyết này cho thấy sự phát triển trong phong cách Đỗ Hoàng
Diệu sau hơn mười năm. Với ông, ngôn ngữ trong tác phẩm này tràn ra từ vô thức,
“bóng tối trong tâm hồn, tâm thức… không chỉ của tác giả mà của cả một thời đại”
[Dẫn theo 47]. Phạm Ngọc Tiến cũng đưa ra những cảm nhận về tiểu thuyết: “Quá
nhiều vấn đề trong cuốn sách tưởng chỉ là những quẫy đạp đi tìm hạnh phúc của
một người phụ nữ thông qua những cuộc tình. Đó là cuộc chiến của đạo đức, giáo
lý, tôn giáo là lối sống đủ mọi khía cạnh của thời hiện đại” [Dẫn theo 47]. Nhà văn
2
cho rằng Đỗ Hoàng Diệu đã xây dựng nên một không gian đan xen thực và ảo bị
giới hạn bởi thời gian, đạo đức, luân lý. Đồng thời khẳng định Lam Vỹ ngập trong
nỗi buồn.
Đồng tình với đánh giá của nhà văn Phạm Ngọc Tiến, biên tập viên Diệu Thủy
nhận xét: “Lam Vỹ vẫn tiếp tục lối viết ma mị của Bóng đè. Đỗ Hoàng Diệu là
người có khả năng viết rất hay về bóng tối, có khả năng thuyết phục người đọc về
tính chất quyến rũ của bóng tối” [Dẫn theo 48]. Diệu Thủy cho rằng, chính bóng tối
trong Lam Vỹ đã đưa người đọc lần về quá khứ, khám phá văn hóa và nhận diện
chiều sâu tâm hồn con người.
Trái với quan điểm của Phạm Ngọc Tiến, Nhà văn Nguyễn Trương Quý cho
rằng tiểu thuyết này “có độ tươi tắn của một người hiểu đời, rất sinh động” [Dẫn
theo 48]. Trương Quý tìm thấy trong Lam Vỹ một giọng văn đa thanh và giễu nhại
cùng màu sắc huyền thoại thông qua hình tượng nhân vật Thơ. “Sở trường của Diệu
trong cuốn sách được bộc lộ, Diệu thực sự nhìn nhận ra xa bối cảnh văn hóa của
nhân vật gốc, nhìn thấy những điều níu kéo, giữ chân của nhân vật trong bối cảnh,
như con chim mãi không bay được, cho đến tận cái kết. Một cách thể hiện giá trị
kép của những người sống trong hai nền văn hóa như Diệu” [Dẫn theo 48]. Với
Trương Quý, Lam Vỹ là tác phẩm đưa người đọc đến với câu chuyện của người nữ,
giúp bạn đọc thấu hiểu về thân phận và giá trị của họ.
Dương Tường cho rằng sự trở lại của Lam Vỹ chính là “sự trỗi dậy bản ngã
viết văn” [Dẫn theo 48] của Đỗ Hoàng Diệu. Dịch giả khẳng định tiểu thuyết Lam
Vỹ là cuốn tiểu thuyết thành công trong đời văn của nữ nhà văn này.
Theo nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Lam Vỹ tạo nên sự nhất quán
trong các sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu. Phạm Xuân Nguyên đã chỉ ra xung đột
chính trong tiểu thuyết Lam Vỹ là xung đột của nhóm người yếu thế - những người
nữ bị mất tiếng nói và địa vị - với quyền lực số đông - người nam cùng những
khuôn phép kìm hãm sự tự do của người phụ nữ.
Đậu Thị Thương cũng đã để lại những suy nghĩ khi Đọc tiểu thuyết Lam Vỹ
của Đỗ Hoàng Diệu. Đậu Thị Thương đi vào phân tích ngôn ngữ nghệ thuật trong
tiểu thuyết và nhận xét đây là “ngôn ngữ của dòng tâm thức kì dị. Thứ ngôn ngữ của
một tâm hồn vốn thống khoái và sầu mộng của chính nhân vật Lam Vỹ đã ở vào
ngòi bút nhà văn” [64]. Tác giả đã chỉ ra những câu văn dài hơi trong Lam Vỹ bắt
3
nguồn từ dòng xúc cảm mãnh liệt. Cùng với đó, tác giả cho rằng, bóng tối lan tỏa
khắp tác phẩm cùng đôi cánh Lam Vỹ là những hình ảnh ẩn dụ, “cần những người
đọc có vốn đời sống lịch sử và con người đã và đang diễn ra trong xã hội này, để
vừa đọc vừa tái hiện qua những hồi cố” [64].
Nguyễn Thị Ngân trong luận văn Tiểu thuyết các nhà văn nữ Việt Nam giai
đoạn từ 1986 đến 2010 – từ góc nhìn nữ quyền đã cho rằng nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Lam Vỹ là kiểu nhân vật nổi loạn với “niềm kiêu hãnh về cái đẹp cứu rỗi”
[43, tr.84]. Tác giả cho rằng các nhân vật nữ trong tiểu thuyết này là biểu hiện cho
diễn ngôn ngữ giới đầy mới mẻ của nhà văn. Đỗ Hoàng Diệu đã cho nhân vật nữ
của mình đối thoại và ““gây hấn” với những ràng buộc cố hữu đã đẩy người phụ nữ
ra vị trí “ngoài lề”” [43, tr.84]. Từ việc phân tích các biểu hiện về ý thức giới của
các nhân vật nữ, Nguyễn Thị Ngân khẳng định Đỗ Hoàng diệu đã xây dựng được
hình ảnh mới về người nữ trong thời đại nữ quyền.
Trong Những cái "bóng đè" lên người phụ nữ trong truyện của Đỗ Hoàng
Diệu, Hoàng Thị Kim Dung đã phác thảo chân dung của những người góp phần tạo
nên thân phận bị kịch của người nữ qua việc phân tích các nhân vật nam trong tiểu
thuyết Lam Vỹ. Tác giả khẳng định, ám ảnh nối dõi tông đường cùng quan niệm
Nho giáo lạc hậu còn xuất hiện trong xã hội hiện đại “chính là những "bóng đè" - đè
nặng lên cuộc đời của bao kiếp người phụ nữ. Và hình ảnh những thế hệ đàn ông
trên là dẫn chứng minh họa cho sự "hãm hiếp" tập thể người phụ nữ” [8, tr.36].
Đúng với dự đoán của nhà văn Phạm Ngọc Tiến, Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu
đã gây nên sự tranh cãi giữa bạn đọc. Bên cạnh những phản ứng tích cực, một bộ
phận độc giả đã đưa ra ý kiến đối lập. Trạch Nam đã cho rằng Đỗ Hoàng Diệu đang
lặp lại trong lối mòn khi viết về thân phận người nữ. Theo tác giả, Lam Vỹ cùng các
sáng tác mới của Đỗ Hoàng Diệu “thực chất chỉ tiếp nối chủ đề lớn mà Đỗ Hoàng
Diệu đã ấp ủ, thai nghén để viết nên Bóng đè: thân phận của người đàn bà trong một
xã hội nam quyền chật đầy những giáo điều” [42]. Các độc giả trên trang web
https://www.goodreads.com cũng đã để lại những phản hồi sau khi đọc tiểu thuyết
này. Phần lớn bạn đọc cảm thấy thất vọng vì cho rằng tiểu thuyết Lam Vỹ quá tập
trung vào việc đả kích tư tưởng Nho giáo mà không để nhân vật nữ chính vượt lên
khỏi nó.
4
Có thể thấy, mặc dù nhận được sự quan tâm của giới phê bình, độc giả trong
và ngoài nước nhưng chúng tôi cho rằng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu về tiểu thuyết Lam Vỹ cũng như tiếp cận tiểu thuyết này bằng lý thuyết nữ
quyền và phê bình văn học nữ quyền. Vậy nên ở khóa luận này, chúng tôi mạnh dạn
tìm hiểu với hi vọng sẽ có những phát hiện về nội dung cùng hình thức nghệ thuật
của tiểu thuyết Lam Vỹ dưới góc nhìn phê bình văn học nữ quyền, góp phần vào quá
trình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền của Việt Nam.
Đồng thời, chúng tôi mong muốn khẳng định tài năng nghệ thuật, những đóng góp
của Đỗ Hoàng Diệu đối với văn học nước nhà cũng như chỉ ra điểm hạn chế của nhà
văn này.
3. Mục đích nghiên cứu
- Khám phá những đặc điểm, đặc sắc của tiểu thuyết từ góc nhìn nữ quyền.
- Khẳng định giá trị, sự đóng góp của tiểu thuyết Lam Vỹ đối với tiểu thuyết nữ
quyền và tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
- Làm sáng tỏ sự mới mẻ, độc đáo trong cách tư duy của Đỗ Hoàng Diệu khi nói về
các vấn đề nữ quyền.
- Thấy được đóng góp cùng vị trí của Đỗ Hoàng Diệu trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Lam Vỹ của Đỗ Hoàng
Diệu (NXB Hội Nhà văn, 2016).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những yếu tố liên quan đến vấn đề nữ quyền (ý thức nữ
quyền, yếu tố phái tính, lối viết nữ) được thể hiện ở hai bình diện nội dung và hình
thức trong tiểu thuyết Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Xem xét, đánh giá các vấn đề nữ quyền được thể hiện ở nội dung và nghệ thuật.
- Khái quát các vấn đề đã xem xét để đưa ra các nhận định về vấn đề cần xác định
trong khoá luận.
5.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu
5
So sánh tiểu thuyết Lam Vỹ với tiểu thuyết của các nhà văn nữ như Thuận,
Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban, … để xác định nét riêng của Đỗ Hoàng Diệu ở mảng văn
học này.
5.3. Phương pháp phê bình văn học nữ quyền
Vận dụng quan điểm, phương pháp nghiên cứu phê bình văn học nữ quyền để
nghiên cứu tiểu thuyết Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu.
5.4. Phương pháp loại hình
Dựa trên các đặc trưng của tiểu thuyết để xem xét, đánh giá tiểu thuyết Lam
Vỹ ở phương diện thể loại khi thể hiện các vấn đề nữ quyền
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu khoa học hỗ trợ khác.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa
luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: LAM VỸ TRONG DÒNG Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TIỂU THUYẾT
NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI.
Chương 2: THIÊN TÍNH NỮ VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT
LAM VỸ.
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THIÊN TÍNH NỮ VÀ Ý THỨC NỮ
QUYỀN TRONG TIỂU THUYẾT LAM VỸ.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LAM VỸ TRONG DÒNG Ý THỨC NỮ QUYỀN
CỦA TIỂU THUYẾT NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái quát lý thuyết nữ quyền và phê bình văn học nữ quyền
1.1.1. Nữ quyền và lý thuyết nữ quyền
1.1.1.1. Nữ quyền
Những năm gần đây, dù gây nên nhiều tranh cãi nhưng không thể phủ nhận,
vấn đề nữ quyền (women’s right) nhận được nhiều sự quan tâm và đã tạo ảnh hưởng
rõ rệt lên nhận thức của mọi người trên toàn thế giới. Nữ quyền thường được nhắc
đến cùng các khái niệm như “giới” (gender), “phái tính” (sex) hay “nữ tính”
(femininity). Nếu “giới” là những yếu tố sinh lý tự nhiên được chọn lọc ngẫu nhiên
và chịu sự tác động, chi phối của xã hội thì “nữ tính” lại đi sâu vào bản thể, gồm
những tính chất, đặc trưng nổi bật của người phụ nữ mang chuẩn mực văn hóa – xã
hội, được đặt trong sự phân biệt với nam tính (tính chất của người nam). Nữ tính
vừa có sự ổn định, vừa biến đổi không ngừng để phù hợp với từng nền văn hóa khác
nhau. Trong khi đó, phái tính là sự tổng hòa những đặc điểm sinh học và xã hội của
từng giới, là “sự liên kết giữa giới tính và những bản tính đặc trưng cho từng phái
riêng biệt” [73, tr.10]. Đặt trong mối liên hệ giữa các khái niệm, có thể thấy rõ, “nữ
quyền” không chỉ dừng lại ở việc thể hiện các đặc tính của phái mà còn hướng đến
một mục đích khác. Theo Kamla Bhasin, “Nữ quyền là sự nhận thức về sự thống trị
gia trưởng, sự bóc lột và áp bức ở các cấp độ vật chất và tư tưởng đối với lao động,
sự sinh sản và tình dục của phụ nữ trong gia đình, ở nơi làm việc và trong xã hội nói
chung, là hành động có ý thức của phụ nữ và nam giới làm thay đổi tình trạng đó”
[Dẫn theo 73, tr.34]. Nữ quyền được Hoàng Bá Thịnh định nghĩa “là quyền phụ nữ
và hiểu đầy đủ thì đó là đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Với niềm tin
dựa trên nguyên tắc cho rằng phụ nữ phải có các quyền và cơ may trong cuộc sống
như nam giới về chính trị, kinh tế, luật pháp…” [Dẫn theo 73, tr.34]. Có thể hiểu nữ
quyền là quyền lợi của nữ giới về mọi khía cạnh trong mối tương quan với nam giới
cùng mục tiêu bình đẳng giới và tạo nên quy chuẩn riêng của giới nữ. Đây được
7
xem như tiền đề lý thuyết đấu tranh cho quyền của người nữ và vấn đề nam nữ bình
quyền. “Nữ quyền” là khái niệm gắn với nhân vị giới và ý thức giới của người nữ.
Từ lâu, người phụ nữ đã luôn có ý thức xác tín cá biệt nữ. Thế nhưng, khái
niệm nữ quyền chỉ thực sự xuất hiện và được đón nhận khi Chủ nghĩa nữ quyền
(feminism) ra đời. Lúc này, người nữ đã thể hiện ý thức giới, lan tỏa ý thức này
nhằm hướng đến bình đẳng giới, bảo vệ người nữ trước những quan niệm, định kiến
xã hội và khẳng định vị thế của giới mình. Từ những quan điểm manh nha đến hệ ý
thức là sản phẩm của cả một hành trình phát triển không ngừng. Có thể thấy được
sự cố gắng của người nữ trong việc đấu tranh cho giới mình và làm chủ đời sống
của chính mình. Qua đó, bản sắc, giá trị nội tại của nữ giới được nhấn mạnh, sự
khác biệt trong phái tính và nữ tính được đề cao.
1.1.1.2. Lý thuyết nữ quyền
Lý thuyết nữ quyền là sự thức nhận, nỗ lực chống lại những bất công phụ nữ
phải gánh chịu trong mọi mặt của đời sống cũng như tiến hành chấm dứt sự áp đặt,
thống trị của nam quyền đang đè nén quyền của phụ nữ. Đây cũng là tiếng nói đòi
được đối xử bình đẳng, được bộc lộ tài năng và giá trị của mình. Lý thuyết nữ
quyền “từ chối xác nhận một quyền uy hay chân lý “nam tính”” [73, tr.39], phủ
nhận hoàn toàn các lý thuyết mang tính áp chế, chủ quan của nam giới. Các nhà nữ
quyền cho rằng sự bất bình đẳng giới đã khiến người nữ trở thành kẻ dưới và chịu sự
thống trị của người nam. Niềm tin người nữ là kẻ dưới do bản tính đã in sâu vào tâm
thức của phái nam khiến họ có những hành động, thái độ hạ thấp vị thế người nữ. Các
nhà nữ quyền hướng đến xây dựng thế giới bình quyền, tự do cùng với quan điểm: thái
độ đối với tự do chính là yếu tố đánh giá giá trị con người. Để làm được điều đó, người
nữ phải ý thức được bản thể và độc lập với cái tôi của nam giới. Sự ra đời của lý thuyết
nữ quyền đã tạo nên khúc ngoặc nữ quyền (feminist turn), không gian xã hội được mở
rộng tối đa để người nữ tham gia, tự định nghĩa về giới mình và giải cấu trúc những
định kiến vốn tồn tại lâu trong xã hội về giới nữ.
Trong lý thuyết nữ quyền, vấn đề quyền lực cũng được các nhà nữ quyền quan
tâm kiến giải. Quan niệm về nguồn gốc của quyền lực cũng có nhiều khác biệt. Nếu
các nhà nữ quyền xã hội chủ nghĩa nhận định quyền lực xuất phát từ chế độ nam trị
thì các nhà nữ quyền hậu cấu trúc nghiên cứu từ sự khuất phục của người bị thống
trị hay có người xem quyền lực là “sự tạo quyền (power as empowerment)” [73,
8
tr.38]. Vậy nên, có thể hiểu, quyền lực là sự thống trị (power as domination) qua các
biểu hiện như áp bức, nam trị hay sự khuất phục. Vấn đề này bắt nguồn từ sự mất
cân bằng quyền lực giữa hai phái khi người nam luôn chiếm nhiều lợi thế quyền lực
hơn người nữ. Điều này được thể hiện qua cách đàn ông được xem là “phái mạnh”,
“trụ cột” trong khi đàn bà bị mặc định là “phái yếu”, “kẻ lệ thuộc”. Bên cạnh đó,
các nhà nữ quyền còn xem quyền lực là cách thể hiện dấu ấn cá nhân cùng sức
mạnh tiềm tàng của phụ nữ. Bởi với họ, quyền lực không là sự hạn chế quyền lực
của người khác mà là cùng nâng cao và phát triển.
Lý thuyết nữ quyền rất đa dạng, là sự kết hợp giữa nhiều loại lý thuyết. Trong
phần Những vấn đề của lý thuyết nữ quyền cùng bài viết Phê bình nữ quyền (trích
trong chương 6 của Đọc bản hướng dẫn lí thuyết văn học đương đại (A Reader’s
Guide to Contemporary Literary Theory, 1989)), Raman Selden đã đưa ra hai lí do
tạo nên sự phân hóa trong lý thuyết nữ quyền. Một là, một số nhà nữ quyền “mong
ước tránh được “những sự cố định và xác quyết” của lí thuyết” [51] mang tính nam.
Hai là, nhiều nhà phê bình nữ quyền muốn tự do về mặt diễn ngôn thông qua việc
“phát triển một diễn ngôn nữ giới không thể bị ràng buộc về khái niệm như là thuộc
về một truyền thống lí thuyết được thừa nhận (và bởi vậy có lẽ do nam giới tạo ra)”
[Dẫn theo 74, tr.20]. Tác giả cũng chỉ ra năm tiêu điểm có liên quan đến phần lớn
các cuộc thảo luận về giới tính: sinh học, kinh nghiệm, diễn ngôn, vô thức, những
điều kiện kinh tế và xã hội.
Trước hết, lý thuyết nữ quyền được biết đến với hai công trình nổi tiếng Căn
phòng riêng (Virginia Woolf) và Giới thứ hai (Simone de Beauvoir). Hai tác phẩm
cùng hướng đến quan điểm người nữ cần thể hiện bản thân để xác quyết vị thế của
mình. Lý thuyết nữ quyền cũng lên án sự đàn áp đẳng cấp – giới tình (sex – class
oppression) thông qua các tác phẩm Tình chị em mãnh liệt (Sisterhood is Powerful,
1970) của Robin Morgan và Người phụ nữ trong xã hội kỳ thị giới tính: Nghiên
cứu về Quyền lực và Sự không có Quyền lực (Women in Sexist Society: Studies in
Power and Powerlessness, 1971) của Vivian Gornick và Barbara K. Moran. Lý
thuyết nữ quyền cũng vận dụng quan điểm khẳng định vai trò của “quyền uy giống
cái” trong lý thuyết phân tâm học của Lacan và Kristeva. Từ đó vạch trần sự bất
công nữ giới phải gánh chịu và sự phụ thuộc của giới nữ trong mọi hoạt động đời
sống xã hội bởi quan điểm đàn ông là kẻ mạnh, đàn bà là kẻ yếu, mà gốc rễ sâu xa
9
là chế độ nam quyền. Lý thuyết nữ quyền chính trị hình thành với hai đại diện tiêu
biểu là Kate Millet và Michèle Barret. Đặc biệt, Kate Millet trong sáng tác của mình
– Chính trị về giới tính (Sexual Politics, 1970) – đã chỉ ra sự bất công nữ giới phải
chấp nhận từ khi còn thơ ấu hay khái niệm “giới tính” đều bị chi phối, áp đặt bởi
chính trị. Quyền lợi chính trị của phụ nữ cũng nhận được sự ủng hộ thông qua các
công trình về giới nữ như Nghĩ về phụ nữ (Thinking about Women, 1968) của Mary
Ellmann, Bay lên từ bệ phóng (Up from the Pedestal, 1968) của Aileen Kraditor,
Phụ nữ và Luật pháp (Women and the Law, 1969) của Leo Kanowitz, Ai cũng đã
dũng cảm (Everyone was Brave, 1971) của William O’Neil…Lý thuyết nữ quyền về
tính dục đã đưa ra các luận điểm về phái tính, giới tính và tính dục. Trong đó, tác
phẩm Biện chứng về tính dục: Lý do của cách mạng nữ quyền (The Dialectic of Sex:
The Case for Feminist Revolution, 1979) của Shulamith Firestone đã cho rằng bất
bình đẳng giới được sản sinh từ cấu trúc xã hội gia trưởng và cấu trúc sinh học.
Người phụ nữ bị áp đặt quan điểm về việc mang thai, sinh con và nuôi dưỡng con
cái. Từ đó, bà ủng hộ sự can thiệp của công nghệ sinh sản vào việc mang thai của
người nữ cũng như quyền được tránh thai, phá thai và được hỗ trợ nuôi dạy con cái.
Với bà, phân biệt giới tính sẽ biến mất hoàn toàn nếu sự khác biệt cơ bản giữa nam
và nữ – việc mang thai và sinh con – được giải quyết triệt để. Lý thuyết nữ quyền
hậu cấu trúc hướng đến hai vấn đề: Một là đa tính dục, sự khác biệt trong cảm nhận
về tính dục giữa hai giới qua hai tác phẩm nổi bật của Luce Irigaray là Ảo ảnh về
người phụ nữ – tha nhân (Speculum of the Other – woman, 1974) và Giới tính này
không chỉ là Một (This sex which is not One, 1977). Hai là đề cập đến lối viết nữ
(l’écriture feminine) trong tác phẩm nổi tiếng Tiếng cười của nàng Méduse (Le Rire
de la Méduse) của Hélène Cixous. Như vậy, học thuyết của các nhà hoạt động nữ
quyền đã có ảnh hưởng sâu rộng đến chủ nghĩa nữ quyền, tạo nên một hệ thống lý
thuyết nữ quyền với nhiều quan điểm, đánh giá khác nhau.
1.1.2. Phê bình văn học nữ quyền
Hiện nay, văn học nữ quyền (feminist literature) được biết đến thông qua
nhiều cách hiểu khác nhau. Tác giả Nguyễn Giáng Hương xem văn học nữ quyền
như một dòng văn học phản kháng, văn học dấn thân. Theo tác giả, “dòng văn học
này chỉ được viết bởi phụ nữ…Văn học nữ quyền không tồn tại tách biệt với văn
học nữ, nó nằm bên trong mảng văn học nữ với một ý đồ đấu tranh bình đẳng giới
10
rõ rệt hơn. Văn học nữ quyền cùng với phong trào bình đẳng giới là điều kiện để
văn học nữ nói chung phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng” [21]. Khác với
Nguyễn Giáng Hương, Lưu Tuệ Anh khẳng định sáng tác của các nhà văn nam có
thể thuộc dòng văn học này và không phải sáng tác nào của tác giả nữ cũng đều là
văn học nữ quyền. Lưu Tuệ Anh khẳng định giới tính không là tiêu chí xác định văn
học nữ quyền, phải dựa trên nội dung để nhận biết tác phẩm có thuộc dòng văn học
này hay không. Nội dung của tác phẩm phải nói về “sự sinh tồn và giải phóng phụ
nữ.” [Dẫn theo 14, tr.18]. Như vậy, chúng tôi cho rằng văn học nữ quyền chỉ dòng
văn học viết về người nữ, có vị trí quan trọng trong nền văn học nữ, chủ yếu do các
tác giả nữ sáng tác. Dòng văn học này gắn với quyền và vai trò của người nữ cùng
nỗ lực đi sâu vào phân tích, đánh giá, tái hiện thế giới phong phú, phức tạp của họ
cũng như thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan dưới góc nhìn của nữ giới. Văn học
nữ quyền là sự kết tinh giữa sáng tác văn học nữ quyền và phê bình văn học nữ
quyền.
Ở từng giai đoạn, văn học nữ quyền được thể hiện ở những khía cạnh khác
nhau. Vào thời kỳ trước, các vấn đề về người nữ được viết dưới hệ quy chiếu giá trị
và quan điểm nam quyền. Sự thống trị, lúc này, vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức
người nữ khiến họ chưa hoàn toàn làm chủ ngòi bút mà sáng tác văn chương dưới
góc nhìn của nam quyền bằng thứ “ngôn ngữ do đàn ông sinh ra” (Dale Spender)
[25]. Sau này, khi người nữ ý thức về tính tự trị và tính chủ thể của mình thì cũng là
lúc văn học nữ quyền thực sự xuất hiện. Như nhà nghiên cứu Lưu Tư Khiêm đã
từng nhận định văn học nữ quyền gắn với “tinh thần nhân văn hiện đại, lấy nữ tính
làm chủ thể ngôn từ, chủ thể trải nghiệm, chủ thể tư duy, chủ thể thẩm mỹ” [Dẫn
theo 14, tr.18]. Văn học nữ quyền gắn với tiếng nói, ngôn ngữ, tư duy và sự thể
nghiệm của người nữ. Đặt biệt là ý thức chống đại tự sự, chống lại sự thống trị nam
quyền dưới hình thức hợp thức hóa sự khác biệt giữa hai giới và áp đặt lên con
người sinh học của giới nữ. Chỉ khi người nữ đặt toàn bộ thân thể và tâm trí vào
trang viết, văn học nữ quyền mới thoát khỏi hệ thống tạo nghĩa của nam giới, phát
triển cùng lối viết mới, diễn ngôn mới do chính người nữ sáng tạo nên.
“Văn học nữ quyền là thứ văn học kháng cự lại tình trạng mất tiếng nói của nữ
giới” (Trần Thiện Khanh) [25]. Trong không gian văn bản nghệ thuật, người nữ có
xu hướng giải ảo quyền lực nam giới và nâng cao vị thế của giới mình. Giờ đây,
11
người nữ toàn quyền thể hiện quan điểm của mình về mọi vấn đề, cả những vấn đề
bị cấm kị. Văn học nữ quyền cho thấy phụ nữ là một cá thể tự chủ, độc lập, sống
cho chính mình chứ không vì người khác, theo người khác. Người nữ toàn quyền
giải kiến tạo bản thể giới - thứ mà trước đây được tạo nên và thừa nhận bởi diễn
ngôn nam giới, mang đến một định nghĩa mới về giới mình. Văn học nữ quyền là
minh chứng cho việc người nữ tìm lại được tiếng nói, quyền được nói và viết.
Người nữ không còn “thụ động như một thân phận” [25] mà là một chủ thể tự do
bộc lộ những mong cầu, khát vọng của mình. Họ không là một ngoại lệ cũng không
dị biệt, họ là một phần chính của xã hội và có sức ảnh hưởng đến sự biến chuyển
của xã hội.
Dòng văn học này là thế giới giá trị riêng của nữ giới, nơi họ được thỏa sức tự
do thể hiện mọi khát vọng chính đáng của mình. Ở đây, mọi vấn đề tầm thường, phi
chuẩn mực nhất – theo quan điểm của nam quyền là đi ngược lại cái tự nhiên, cái
định sẵn – đều được người nữ nói về. Đó là những khao khát tính dục, vấn đề ngoại
tình hay ham muốn tình dục đồng tính – những vấn đề bị nam giới phủ định, ngăn
cản người nữ được sống đúng với nhu cầu nhục thể của mình. Bởi vậy mà văn học
nữ quyền được xem là vùng đất nghệ thuật giải quy phạm hóa. Trong dòng văn học
nữ quyền, nữ giới và nữ tính được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau, được
nhìn từ các góc độ như văn hóa, ý thức hệ, chính trị, …
Trong dòng chảy văn học thế giới, văn học nữ từ lâu đã được hình thành trong
dáng vẻ nguyên sơ nhất. Đến khi chủ nghĩa nữ quyền ra đời và phát triển, đặt biệt là
sự ra đời của Giới thứ hai, văn học nữ quyền mới thực sự định hình, trải qua ba giai
đoạn phát triển lớn. Giai đoạn đầu tiên gắn với Beauvoir cùng sáng tác của bà - Giới
thứ hai. Bà đã đưa ra những nhận định về cấu trúc xã hội giới tính, sự bị áp đặt của
các chủ thể mang giới tính, khẳng định khả năng của nữ giới và đề ra những yêu cầu
hướng đến xã hội bình đẳng. Nhận thức của Beauvoir đã trở thành một trong những
giá trị cốt lõi của lý thuyết văn học nữ quyền. Bà đã tạo nên một cú đánh trực diện
vào hệ giá trị mà chế độ nam quyền đã tạo dựng suốt hàng thế kỉ. Giai đoạn thứ hai
có sự xuất hiện của phê bình văn học nữ quyền. Đây là giai đoạn mà các nhà văn nỗ
lực tìm lại tiếng nói đã mất và các nhà phê bình văn học tiếp cận, khảo sát sáng tác
của các nữ tác giả da màu, các vấn đề đồng tính nữ trong văn học. Văn học nữ
quyền giai đoạn này vừa phản kháng nam quyền, giải mã thế giới nữ vừa nghiên
12
cứu phái nam dựa vào góc nhìn của người nữ. Giai đoạn thứ ba, từ đầu thiên niên kỷ
thứ ba đến nay, là sự chuyển mình của văn học nữ quyền. Dòng văn học này đào
sâu vào bản thể con người trước sự tác động lớn của chủ nghĩa hậu cấu trúc và hậu
hiện đại. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng tiếp tục tìm kiếm lời giải cho câu hỏi về
ngôn ngữ. Văn học nữ quyền đã phát triển mạnh mẽ và thâm nhập vào đời sống xã
hội trên toàn thế giới. Dòng văn học này đã góp phần thay đổi vị trí của giới nữ, phá
vỡ cục diện nam quyền của nền văn chương nhân loại. Tùy thuộc vào từng thời
đoạn và xã hội khác nhau mà quan điểm về nữ giới và các vấn đề liên quan được
biểu đạt theo màu sắc, chủ âm riêng. Điều này làm nên một dòng văn học nữ quyền
đa sắc, phong phú và phức tạp.
Ý thức nữ quyền là một khía cạnh có sức ảnh hưởng lớn đến các hoạt động nữ
quyền. Ý thức là sự phản ánh có sáng tạo và cải biến thế giới khách quan trong quan
hệ với con người. “Theo chiều ngang, ý thức bao gồm các yếu tố như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi; theo chiều
dọc, ý thức bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức” [22, tr.39]. Vậy
nên, ý thức nữ quyền là những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, gắn chặt trong ý thức,
tiền ý thức và tồn tại sâu trong vô thức của chủ thể. Dưới sự tác động của hoàn
cảnh, ý thức nữ quyền được biểu hiện dưới những trạng thái khác nhau. Trong văn
học nữ quyền, ý thức nữ quyền là dòng chảy bất tận, luôn xuất hiện ở mọi giai đoạn
văn học với cấp độ biểu hiện đậm nhạt khác nhau. Ý thức nữ quyền trong văn học là
sự lên tiếng của người viết về một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của nữ giới
với những chiêm nghiệm, suy tư, quan điểm trước các vấn đề trong đời sống, về
khát vọng giải phóng giới, bình đẳng giới và khẳng định giá trị riêng của mình
thông qua những đặc trưng và cảm quan thuộc về giới nữ. Ý thức nữ quyền trong
văn học không chỉ là ý thức thuộc về người sáng tạo mà nó còn xuất hiện trong góc
nhìn phê bình văn học nữ quyền và tồn tại trong nội tại văn bản nghệ thuật.
Phê bình văn học nữ quyền (Feminist literary criticism) là một khuynh hướng
được hình thành trong cái nôi của chủ nghĩa nữ quyền. Sự ra đời của phê bình văn
học nữ quyền là sự bùng nổ của chủ nghĩa nữ quyền, tạo thế vững chắc cho hành
trình đấu tranh của nữ giới và chiếm vị trí quan trọng trong tư tưởng của nhân loại.
Loại phê bình này đã tác động rất lớn đối với sự phát triển của văn học nữ trong nền
văn học thế giới nói chung và văn học nữ quyền nói riêng. Nó thúc đẩy quá trình
13
sáng tác của các nhà văn nữ quyền, tìm lại và công nhận những tác phẩm văn học
nữ quyền tưởng chừng đã rơi vào quên lãng.
Phê bình văn học nữ quyền được hiểu là vận dụng tư tưởng, lý thuyết nữ
quyền để thâm nhập vào tác phẩm văn học với đối tượng nghiên cứu trung tâm là
người nữ (women centerted). Loại phê bình này phân tích, lí giải các phương diện
cả về nội dung lẫn hình thức trong từng sáng tác văn học nữ quyền trong từng giai
đoạn cụ thể. Từ đó vừa khám phá, đánh giá mọi vấn đề thuộc đời sống mang tính
nam quyền đã chèn ép cuộc đời người nữ vừa sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật
của riêng giới nữ thông qua cái nhìn, cảm quan, sự thể nghiệm của nữ giới về thế
giới phản ánh và thế giới được phản ánh trong tác phẩm văn học. Phê bình văn học
nữ quyền cũng là phê bình diễn ngôn giới tính – nơi bộc lộ sự kháng cự của phái nữ
với thiết chế nam quyền, sự khẳng định bản thể của người nữ trong xã hội và khát
vọng xác lập bình đẳng giới. Không chỉ vậy, phê bình văn học nữ quyền còn hướng
đến người sáng tạo và người đọc trong mối quan hệ với các sáng tác văn học nữ
quyền. Theo Annis Pratt, phê bình văn học nữ quyền hướng đến bốn mục tiêu
chính: “một, cố gắng phát hiện và tái hiện các tác phẩm văn học của phụ nữ; hai,
phân tích và đánh giá các khía cạnh hình thức văn bản của các tác phẩm ấy; ba, tìm
hiểu xem những tác phẩm ấy đã phản ánh quan hệ nam nữ ra sao; bốn, mô tả những sự
phát triển của các các yếu tố liên quan đến huyền thoại và tâm lý liên quan đến người
phụ nữ trong văn học” [Dẫn theo 14, tr.19]. Elaine Showaiter đã bổ sung thêm một
nhiệm vụ nữa của văn học nữ quyền là: “xác lập cái khung lý thuyết và mỹ học riêng
để phân tích các tác phẩm văn học của phụ nữ, để phát triển những mô hình phê bình
dựa trên kinh nghiệm riêng của phụ nữ hơn là chỉ tiếp nhận những mô hình và lý thuyết
do nam giới dựng lên” [Dẫn theo 14, tr.19]. Không chỉ vậy, phê bình văn học nữ quyền
còn thiết lập văn học sử thuộc về nữ giới, nhìn nhận lại vai trò, giá trị của nữ giới trong
tương quan với nam giới cũng như tái phát hiện văn hóa nữ giới. Phê bình văn học nữ
quyền là sự khơi gợi và chuyển tải các giá trị nhân sinh tốt đẹp, các yếu tố thẩm mỹ
đậm tính nữ quyền trong sáng tác văn học nữ quyền đến với người đọc.
Sinh thành từ chủ nghĩa nữ quyền, phê bình văn học nữ quyền cũng tồn tại qua
nhiều giai đoạn khác nhau. Phê bình văn học nữ quyền bắt đầu hình thành sau sự
mở đường của hai nhà nữ quyền Virginia Woolf và Simone de Beauvoir. Tiểu luận
A room of One’s Own (Căn phòng riêng, 1929) của Virginia Woolf được xem là
14
- Xem thêm -