Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Kinh tế công cộng n03

.DOCX
28
452
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ. ------------------------------------------------- BÀI TIỂU LUẬN ĐỘC QUYỀN THỊ TRƯỜN G XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM. Danh sách nhóm: Nhóm học phần : N03 Giáo viên hướng dẫn: Dư Anh Thơ. MỤC LỤC: ĐẶT VẤN ĐỀ:..................................................................................................................1 NỘI DUNG........................................................................................................................2 I.TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM........................................2 II. KHÁI QUÁT VỀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG VÀ ĐỘC QUYỀN.........................8 III. TẠI SAO ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU ĐƯỢC COI LÀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG.....................................................................................................................11 IV. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM.......12 V. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM..................................................................................................................18 VI. ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU GÂY TỔN THẤT PHÚC LỢI XÃ HỘI................20 VII. KHẮC PHỤC ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM...............................21 VIII. GIẢI PHÁP.........................................................................................................23 KẾT LUẬN......................................................................................................................25 ĐẶT VẤN ĐỀ Cạnh tranh là một quy luật ,là kết quả của nền kinh tế thị trường do gồm có nhiều doanh nghiệp của nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại để tranh dành cùng một lợi ích mong mở rộng thị phần của mình trên một thị trường liên quan .Cạnh tranh là động lực của cải tiến và phát triển .Tuy nhiên ,do nhiều nguyên nhân khác nhau mà có sự tồn tại độc quyền ,cũng như một số công ty độc quyền trong nền kinh tế thị trường ,đó có thể là do nhà nước bảo hộ độc quyền về bí quyết kinh doanh,bằng sáng chế hay là do doanh nghiệp kiểm soát được toàn bộ nguồn cung cấp các nguyên liệu để chế tạo ra một sản phẩm nào đó,hay cũng có thể là doanh nghiệp độc quyền là nhờ vào các quy định của pháp luật-doanh nghiệp được Chính phủ bảo hộ độc quyền. Xăng dầu là nguồn năng lượng thiết yếu và rất quan trọng đối với mỗi quốc gia.Tuy nhiên, đây là nguồn năng lượng không thể tái tạo. Vì vậy,chúng ta phải sử dụng nguồn năng lượng này như thế nào để mang lại lợi nhuận tối đa trong kinh doanh ? Việc chuyển từ nhà nước độc quyền kinh doanh xăng dầu cho doanh nghiệp sẽ có tác động như thế nào đến nhà sản xuất và người tiêu dùng ?Vấn đề điều chỉnh giá do doanh nghiệp quyết định có sự quản lí của nhà nước có vận hành theo đúng cơ chế không ? Bên cạnh đó,kinh doanh như thế nào là đảm bảo hài hòa cac lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng ? Để được hiểu rõ hơn về những vấn đề đặt ra ở trên nhóm chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam” làm đề tài cho môn học Kinh tế công cộng . 1 NỘI DUNG: I.TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM: 1. Khái quát thị trường xăng dầu Việt Nam: Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) hiện nay được hình thành từ việc cổ phần hóa và cấu trúc lại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam theo Quyết định số 828/QĐTTg ngày 31 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ, là công ty đại chúng theo văn bản số 2946/UBCK-QLPH ngày 17 tháng 8 năm 2012 của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Lĩnh vực kinh doanh chính của Petrolimex là xuất nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, lọc - hóa dầu, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp khác để kinh doanh các ngành nghề mà Petrolimex đang kinh doanh và các ngành nghề kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh các lĩnh vực xăng dầu, dầu mỡ nhờn & các sản phẩm hóa dầu, khí hóa lỏng và vận tải xăng dầu; Petrolimex đầu tư kinh doanh vào các ngành nghề: Thiết kế, xây lắp, cơ khí và thiết bị xăng dầu; bảo hiểm, ngân hàng và các hoạt động thương mại dịch vụ khác; trong đó, nhiều thương hiệu được đánh giá là dẫn đầu Việt nam như PLC, PGC, PG Tanker, Pjico… Trong lĩnh vực xăng dầu, Petrolimex tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Cùng với 24 doanh nghiệp đầu mốikinh doanh xăng dầu khác (số liệu có đến ngày 30.11.2015), Petrolimex bảo đảm đầy đủ và kịp thời các chủng loại xăng dầu phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. 43/69 đơn vị thành viên Petrolimex trực tiếp kinh doanh xăng dầu trên địa bàn 62/63 tỉnh, thành phố. Ở nước 2 ngoài, Petrolimex có Công ty TNHH 1 thành viên Petrolimex tại Singapore, Công ty TNHH 1 thành viên Petrolimex tại Lào và đã mở Văn phòng đại diện Petrolimex tại Campuchia. Đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu; trong số hơn 14.000 cửa hàng xăng dầu thuộc tất cả các thành phần kinh tế (số liệu có đến 30.11.2015), Petrolimex sở hữu 2.352 (số liệu có đến ngày 24.11.2015) cửa hàng hiện diện trên khắp cả nước tạo điều kiện thuận lợi để người tiêu dùng sử dụng hàng hoá, dịch vụ do Petrolimex trực tiếp cung cấp. Tại các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn - nơi hiệu quả kinh doanh thấp nhưng ý nghĩa chính trị- xã hội cao, Petrolimex có thị phần cao hơn so với thị phần bình quân của toàn Tập đoàn. Tính chung trên phạm vi cả nước và căn cứ sản lượng xăng dầu thực xuất bán tại thị trường nội địa (tại Việt Nam) năm 2013, thị phần thực tế của Petrolimex khoảng 48%. Bên cạnh mặt hàng xăng dầu, tại cửa hàng xăng dầu Petrolimex còn có các hàng hóa, dịch vụ khác như dầu mỡ nhờn, gas, bảo hiểm, ngân hàng, v.v… do các đơn vị thành viên Petrolimex sản xuất, cung cấp. Petrolimex là doanh nghiệp đầu tiên áp dụng phương thức bán xăng dầu thanh toán bằng thẻ Flexicard với nhiều tiện ích và sẽ triển khai dịch vụ chuyển tiền nhanh tại Việt Nam. Tiền thân của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam là Tổng công ty Xăng dầu mỡ được thành lập theo Nghị định số 09/BTN ngày 12 tháng 01 năm 1956 của Bộ Thương nghiệp. Ngày truyền thống: 13 tháng 3 hàng năm. 2. Lịch sử hình thành và phát triển:  Giai đoạn trước năm 2000: Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu từ một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa. 3 Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh. Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá tối đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa. Nhà nước xác định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng hết. Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng giá tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau một chu kỳ kinh doanh. Phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã được điều chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý. Lệ phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc tận thu cho ngân sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố định và sau này đổi tên là phí xăng dầu. Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn, doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại tệ tự huy động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông 4 qua tỷ giá phù hợp nên đã huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu cho nền kinh tế sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.Chính chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng dầu thông qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam có thể tự cân đối được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập trung của Nhà nước từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu lúc đó. Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu thô chỉ ở mức trên 10 usd/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là (1)/ Cân đối cung - cầu được đảm bảo vững chắc; (2)/ Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá tương đối ổn định; biến động giá tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng năm; (3)/ Ngân sách Nhà nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu; (3)/ Doanh nghiệp có tích luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối, kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ. Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá rõ những nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý dẫn đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả đầu tư nên chỉ cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng nhiên liệu, nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên liệu đốt (thay thế madut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện do định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài thoát ly giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của người 5 sử dụng về thay đổi giá mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải điều chỉnh tăng giá. Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới- nguồn-thị trường đã có dấu hiệu biến động mạnh, ở mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát…đều có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế điều hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử dụng biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu dùng qua doanh nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.  Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008) Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó.Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ đồng năm 2008; loại trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá cao; chưa có đánh giá nào đề cập đến khía cạnh này song xét đơn thuần trên số liệu, nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ thống kinh doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có khả năng cạnh tranh khi mở cửa thị trường xăng dầu trong tương lai gần. Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu. 6 Cho đến thời điểm này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định 187 vẫn được coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm: - Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu). - Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu. - Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và doanh nghiệp.Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong QĐ 187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm. Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá xong sự ra đời của QĐ 187 năm 2003 và NĐ 55 năm 2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây khá lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và các đại lý, tổng đại lý khi gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với các đại lý, tổng đại lý cũng như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp hành quy định kinh doanh xăng dầu.  Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay: Có thể nói, giai đoạn này tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất những bất cập của cơ chế điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục can thiệp giá và áp dụng một cơ chế 7 điều hành trong điều kiện giá xăng dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu hướng ngược nhau đã dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã giảm sâu, Nhà nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so với giai đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm; phân khúc số tiền bù giá cho từng giai đoạn trong năm 2008 có thể thấy rõ nhận định này (khoảng 12 ngàn tỷ /11 ngàn tỷ). Từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định; Nhà nước không có biện pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán xăng để hình thành nguồn trả nợ ngân sách, tạo ra sự mấp mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh tranh; các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê duyệt), các cơ quan truyền thông khai thác và đưa ra thông tin về tăng giảm giá rất sớm, không những không có tính định hướng dư luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát sự minh bạch và đúng đắn của các nhu cầu ở trước thời điểm tăng giá.  Tổng hợp giá bán lẻ xăng dầu của Petrolimex tới tháng 4/2016: (Đvị: VNĐ/L) Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2 Xăng ron 95- II. 15.640 15.950 Xăng ron 92- II. 15.940 15.230 E5- ron 92- II. 14.440 14.720 DO 0,05 S 9.870 10.060 Dầu hỏa 8.900 9.070 ( Nguồn: Tổng công ty Petrolimex Việt Nam.) 8 II. KHÁI QUÁT VỀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG VÀ ĐỘC QUYỀN: 1. Khái niệm thất bại thị trường: Thất bại của thị trường là những trường hợp mà thị trường cạnh tranh không thể sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức xã hội mong muốn. 2. Khái niệm độc quyền: Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một nhóm các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó.Khái niệm độc quyền hiểu theo nghĩa hẹp là việc chiếm lĩnh thị trường của một công ty. Thị trường độc quyền là thị trường không có sự cạnh tranh do đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là mức giá cao hơn và sản phẩm chất lượng thấp hơn. Độc quyền là một ví dụ điển hình khi nhắc tới chủ nghĩa tư bản. Phần lớn mọi người đều tin rằng thị trường sẽ không hoạt động nếu chỉ có một người duy nhất cung cấp hàng hoá và dịch vụ vì họ sẽ không có động lực để tự hoàn thiện và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên độc quyền sẽ vẫn tồn tại vì sẽ vẫn có nhu cầu về loại hàng hoá dịch vụ đó. Ví dụ như trên thị trường có sự độc quyền về mặt hàng xăng dầu. Cho dù giá xăng có đắt và chất lượng không tốt thì bạn sẽ vẫn phải mua nó vì bạn vẫn cần phải đi lại, các công ty vẫn cần nhiên liệu để đốt, để vận hành máy móc, và ngoài ra còn rất nhiều hoạt động cần dùng đến xăng dầu. Vì độc quyền có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế và gây thiệt hại cho xã hội nên chính phủ luôn nỗ lực để ngăn ngừa độc quyền bằng các đạo luật chống độc quyền. Tất nhiên độc quyền cũng có ưu điểm trong một số lĩnh vực, ví dụ như việc cấp bằng cho phát minh mới. Việc cấp các bằng phát minh sáng chế sẽ tạo ra sự độc quyền đối với sản phẩm trí tuệ đó trong một thời hạn nhất định. Lý do của việc cấp bằng là giúp 9 cho người phát minh có thể bù đắp được khoản chi phí lớn mà anh ta đã bỏ ra để thực hiện phát minh sáng chế của mình. Về mặt lý thuyết thì đây là một cách sử dụng độc quyền để khuyến khích phát minh. Một ví dụ khác về độc quyền đó là độc quyền của nhà nước, trong đó nhà nước độc quyền cung cấp một số loại hàng hoá dịch vụ nhất định. Tuy nhiên để độc quyền nhà nước thật sự có hiệu quả thì nó phải cung cấp các hàng hoá và dịch vụ như điện, nước...ở một mức giá mà người dân có thể chịu được. 3. Phân loại độc quyền: Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền... Độc quyền bán và độc quyền mua: Khái niệm độc quyền thường dùng để chỉ độc quyền bán nhưng tương tự như độc quyền bán cũng có độc quyền mua - một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn tại một người mua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong trường hợp độc quyền mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua sản phẩm từ những người bán. Doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong trường hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao hơn và mua yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền mua vì nó sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một vài yếu tố đầu vào của nó có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào không duy nhất thì doanh nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh giá các yếu tố đầu vào nếu nó có quy mô lớn. 10 III. TẠI SAO ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU ĐƯỢC COI LÀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG:  Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên tương đối phong phú và đa dạng, trong đó không thể không kể đến dầu mỏ. Nhưng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là dầu thô, chưa qua tinh chế, phần lớn nhập khẩu các loại xăng dầu thành phẩm từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng hàng ngày. Vì thế, giá xăng dầu mang tính toàn cầu đã tác động mạnh vào những nước có sử dụng xăng dầu nhập khẩu, trong đó có Việt Nam.  Vì chưa đủ khả năng tự sản xuất xăng dầu để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước nên ta phải chịu thuế nhập khẩu cao ( theo Thông tư số 48, Bộ Tài Chính: từ ngày 18/03/2016 thuế nhập khẩu xăng khoáng và xăng sinh học là 20%, dầu diesel, dầu hỏa và dầu madut là 7%).  Chi phí vận chuyển cao.  Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành, nên có ít doanh nghiệp kinh doanh trong ngành: tính đến thời điểm hiện tại có 11 doanh nghiệp cung ứng xăng dầu, trong đó Petrolimex chiếm 60% thị phần.Các doanh nghiệp liên minh với nhau tăng giá xăng để thu được lợi nhuận cao.  Thị trường xăng dầu ít co giãn.  Do Chính phủ cả trở sự gia nhập của ngành và chính sách trợ giá của Nhà nước.  Khi giá xăng dầu tăng dẫn tới các mặt hàng khác cũng sẽ theo đó tăng giá => ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân, các doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất, quy mô sản xuất của doanh nghiệp bị thu hẹp.  Bên cạnh đó, tình hình bất ổn tại những nơi có trữ lượng dầu lớn cũng tác động không nhỏ tới thị trường xăng dầu Việt Nam. IV. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM. 1. Có ít doanh nghiệp trong ngành: 11 Ở lĩnh vực này, Petrolimex vẫn giữ vai trò chủ đạo, tập đoàn hiện đang chiếm hơn 60% tổng hạn ngạch nhập khẩu, phần còn lại thuộc về 18 doanh nghiệp xuất nhập khẩu đầu mối khác trong khi về thị phần xuất bán, Petrolimex chiếm 48% sản lượng nội địa (số liệu Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam). Thực trạng này khiến “ông lớn” nhà nước Petrolimex nắm quyền hạn lớn trong việc “gia giảm” giá thị trường, vốn được xây dựng trên giá cơ sở do cơ quan quản lý nhà nước (Liên bộ Tài chính – Công Thương) ban hành. Nhà nước định ra chuẩn (giá cơ sở), “đại gia” này đi trước thay đổi giá, vậy thị trường thuộc về ai? Và do là mặt hàng quan trọng với đời sống kinh tế, xã hội, sức tiêu thụ lớn nên không tránh khỏi hiện tượng “lợi ích nhóm” trong doanh nghiệp (gian lận trong sản xuất, pha chế, tính toán giá thành…). Trong khi nhiều ngành kinh doanh khác đã mở cửa cho các thành phần kinh tế cùng tham gia, hội nhập sâu rộng với bên ngoài như lương thực – thực phẩm, điện tử, dịch vụ (bán lẻ, viễn thông, du lịch)… thì việc Petrolimex (doanh nghiệp Nhà nước) chiếm thị phần chủ đạo khiến xăng dầu Việt Nam như đang vùng vẫy trong chiếc áo chật. Một ví dụ về loại hàng hoá rất gần với xăng dầu: Gas cũng là ngành kinh doanh thuộc họ nhiên liệu, nhưng khác hẳn với xăng về cơ chế vận hành giá. Thị trường gas nội địa có sự tham gia của gần 30 doanh nghiệp nhập khẩu đầu mối, hơn 100 doanh nghiệp sản xuất, chế biến và phân phối gas thuộc các thành phần nhà nước, tư nhân, nước ngoài. Nếu như giá xăng dầu do Nhà nước quyết định, thì giá gas lại do doanh nghiệp đăng ký với Cục quản lý giá (Bộ Tài chính) mà không cần sự chấp thuận (về cơ bản vẫn phải dựa trên giá nhập khẩu và chi phí đầu vào), trừ khi quá bất hợp lý Bộ mới can thiệp. Giá bán lẻ gas khác nhau còn phụ thuộc đầu vào và thương hiệu mỗi doanh nghiệp. Với số lượng hơn 100 thương hiệu, gas là thị trường cạnh tranh thực sự và chẳng thuộc về riêng ai. Lợi ích nhóm không phải không có nhưng cạnh tranh khốc liệt về giá, xuất phát từ cơ chế tự do là điểm khác biệt với thị trường xăng dầu. 2. Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành 12 3. Nguồn cung chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài Mỗi năm Việt Nam khai thác được khoảng 15 triệu tấn dầu thô, nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi) chế biến hơn 6 triệu tấn, đáp ứng khoảng 30% nhu cầu xăng dầu cả nước. Trong khi đó, vẫn phải nhập khẩu khoảng 10-20% dầu thô (tương đương khoảng 650.000-1,2 triệu tấn). 4. Tình hình bất ổn những nơi có trữ lượng dầu lớn 4.1. Chiến tranh Yom Kippur – Lệnh cấm dầu Cuộc chiến bắt đầu bằng cuộc tấn công vào Israel bởi Ai cập và Syria năm 1973. Mỹvà nhiều nước phương Tây khác ủng hộ Israel. Do đó một vài quốc gia Ả rập xuất khẩu dầu đã áp đặt lệnh cấm vận với các quốc gia này. Sản lượng cắt giảm từ các nước Ả rập là 5 triệu thùng/ngày, trong khi các nước còn lại tăng sản lượng lên 1 triệu thùng/ngày. Hao hụt sản lượng 4 triệu thùng/ngày kéo dài tới tháng 3/1974. Sự thiếu hụt nguồn cung trong một thời gian dài đã đẩy giá dầu tăng 400% (từ khoảng 3$/ thùng năm 1972 lên đến 12$/ thùng cuối năm 1974). 4.2. Các cuộc khủng hoảng ở Iran và Iraq a) Cách mạng hồi giáo Iran Trước Cách mạng hồi giáo năm 1979, sản lượng của Iran luôn ở mức từ 5-6 triệu thùng/ngày. Cuộc Cách mạng hồi giáo đã khiến Iran tổn thất khoảng 2 đến 2,5 triệu thùng dầu/ngày từ 11/1978 đến 6/1979. Trong nỗ lực kìm giá dầu, Ảrập Xê út và các nước thuộc OPEC khác đã nhất loạt tăng sản lượng nên lượng khai thác chỉ giảm 4% so với trước Cách mạng Hồi giáo Iran. Tuy nhiên, giá dầu vẫn bốc lên ngất ngưởng do nỗi sợ hãi của thị trường, cộng thêm việc việc Tổng thống Mỹ ra lệnh ngừng nhập khẩu dầu từ Iran khiến mỗi thùng dầu nhảy vọt từ 16 USD lên 40 USD chỉ trong vòng 12 tháng. b) Chiến tranh Iran và Iraq 13 Tháng 9/1980, Iran tấn công Iraq khiến sản lượng cả 2 nước chỉ khoảng 1 triệu thùng/ngày khiến sản lượng thế giới thấp hơn 10% so với năm 1979, giữ giá dầu lúc đó vẫn ở mức cao, 35 $/thùng năm 1981. c) Chiến tranh vùng Vịnh Tháng 8/1990 đánh dấu sự bùng nổ cuộc chiến tranh vùng Vịnh giữa Iraq và liên quân hơn 30 quốc gia do Mỹ lãnh đạo để giải phóng Kuwait. Cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh Những giếng dầu bốc cháy trong cuộc chiến vùng Vịnh thời kỳ 1990, vốn là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu thời kỳ đó. Thời điểm này, Liên Hợp Quốc áp dụng lệnh cấm xuất khẩu dầu toàn phần đối với Iraq và Kuwait. Chính lệnh cấm vận này đã lấy đi của thị trường dầu mỏ thế giới gần 5 triệu thùng mỗi ngày tạo ra cơn sốt dầu, khiến giá tăng cao, mỗi thùng dầu đắt gấp đôi chỉ trong vòng 2 tháng, từ 17 USD lên 36 USD mỗi thùng. Chỉ khi lực lượng Liên quân do Mỹ lãnh đạo đưa quân vào giải phóng Kuwait, tình trạng thiếu nguồn cung mới chấm dứt và giá bắt đầu hạ. 4.3.Cuộc nội chiến Lybia năm 2011 Năm 2011 là năm đầy biến động của thị trường dầu thế giới. Giá dầu đạt ngưỡng cao kỉ lục. Dầu WTI tăng tới hơn 100 $/thùng, trong khi dầu Brent chạm mức 120 $/thùng, mức cao nhất kể từ thời điểm bắt đầu khủng hoảng tài chính toàn cầu 9/2008. Lý do: sản lượng khai thác của Lybia giảm hơn một nửa do bạo động và sự mất kiểm soát của chính quyền tổng thống Cadafi đã đẩy các mỏ dầu mỏ và khí đốt ở đây vào tay phe đối lập. Lực lượng đối lập đã kiểm soát các cổng xuất khẩu dầu mỏ quan trọng Tobruk và Duetina. Với sản lượng khai thác 1,8 triệu thùng/ngày, Lybia xuất khẩu 90% lượng dầu khai thác, xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu, trong đó có nhiều nước đang bên bờ khủng 14 hoảng chính trị. Sự thiếu hụt dầu mỏ ở Lybia khiến các công ty dầu khí sẽ phải tìm nguồn cung tương tự của các nước có chất lượng dầu tốt tương tự Lybia như Nigeria, Angieri và vùng Biển Bắc để thay thế. Phương án này có thể làm tăng giá của các loại dầu chất lượng cao. 4.4. Nhu cầu dầu mỏ của thế giới ngày càng tăng, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi Các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ, các quốc gia Trung Đông, Châu Á, và châu Phi là nhân tố thúc đẩy nhu cầu sử dụng dầu, khiến giá dầu ngày càng có xu hướng tăng cao. Hiện nay, thế giới tiêu thụ khoảng hơn 90 triệu thùng dầu/ngày. Dẫn đầu về mức độ tiêu thụ dầu là Trung Quốc, sau đó là các quốc gia có nền kinh tế mới nổi đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Tại quốc gia đông dân nhất thế giới này, mỗi tháng có hơn 2 triệu người chuyển từ xe đạp hay xe máy sang xe ô tô nhỏ, 2 hay 3% người giàu chuyển sang sử dụng các loại xe ô tô phương Tây sang trọng. Do đó, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu tăng lên nhanh chóng. Trung Quốc tiêu thụ 357.000 thùng nhiên liệu máy bay/ngày trong năm 2010, năm 2012 con số này là khoảng 403.000 thùng/ngày. Năm 2012, mức độ lệ thuộc vào dầu mỏ nhập khẩu của nước này là 57% (theo Sách Trắng). Dự đoán tới năm 2015, Trung Quốc có thể phải nhập khẩu 370 triệu tấn dầu thô, tương đương với 65% lượng tiêu thụ dự kiến (570 triệu tấn dầu thô). Tính đến cuối tháng 7/2012, Ấn Độ đứng thứ 4 thế giới về tiêu dùng dầu mỏ và khí đốt, sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản. IEA đánh giá trong năm năm 2013 nhu cầu dầu sẽ tăng nhanh nhất tại châu Phi, nơi nền kinh tế đang ghi nhận tốc độ tăng trưởng ổn định 5. Các doanh nghiệp liên minh với nhau và tăng giá xăng để có được lợi nhuận cao hơn 6. Chính sách trợ giá của nhà nước: 7. Thuế nhập khẩu cao 15 Về thuế nhập khẩu :  Cách tính thuế nhập khẩu xăng dầu theo tỷ lệ % trên giá CIF, do yếu tố “động” của giá dầu thế giới nên gây tác động “kép” tới giá bán xăng dầu trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu xăng dầu, khó kế hoạch hoá nguồn thu.  Thu chủ yếu ở khâu nhập khẩu (tối đa 40% như hiện nay), trong bối cảnh xuất hiện nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc thu thuế như hiện nay còn trở nên bất cập.  Việc thu thuế nhập khẩu theo tỷ lệ trên giá CIF làm phức tạp hoá các thủ tục hoàn thuế nhập khẩu khi xăng dầu được tái xuất.Với xăng dầu thì thuế suất thuế nhập khẩu đang là 18%, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 10%, thuế GTGT 10%, phí bảo vệ môi trường 1.000 đồng. Trong đó, riêng thuế giá trị gia tăng được tính trên 10% của tổng giá CIF, các loại thuế, phí và lợi nhuận định mức, chi phí kinh doanh định mức… Công thức tính giá này vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý. Cụ thể: Thuế GTGT được tính bằng 10% của tổng giá CIF và các loại thuế, phí, chi phí, thậm chí quỹ bình ổn khiến các chi phí người dân phải chi trả tăng thêm 10% so với mức được quy định trong thực tế. Áp dụng công thức tính giá cơ sở dựa trên các chi phí đầu vào như trên có thể thấy giá thành mỗi lít xăng đã bị đẩy lên khoảng 8.000 đồng (chỉ riêng các loại thuế, phí). Đơn cử như bảng tính giá cơ sở ngày 24-9 với giá CIF là 117,87 USD/thùng quy đổi ra giá CIF tính giá cơ sở là 15.449 đồng/lít thì tương ứng thuế nhập khẩu: 2.764 đồng/lít, thuế tiêu thụ đặc biệt: 1.812 đồng/lít, GTGT: 2.248 đồng/lít. Như vậy, mỗi lít xăng phải gánh thêm 7.824 đồng. 8. Chi phí vận chuyển quá cao 16 9. Do các quy định của Chính Phủ làm cản trở sự gia nhập ngành: Thương nhân có đủ các điều kiện quy định dưới đây được cấp Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu:  Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có đăng ký kinh doanh xăng dầu.  Có cầu cảng chuyên dụng nằm trong hệ thống cảng quốc tế của Việt Nam, bảo đảm tiếp nhận được tầu chở xăng dầu nhập khẩu hoặc phương tiện vận tải xăng dầu khác có trọng tải tối thiểu bảy ngàn tấn (7.000T), thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê dài hạn từ năm (05) năm trở lên.  Có kho tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu dung tích tối thiểu mười lăm ngàn mét khối (15.000 m3) để trực tiếp nhận xăng dầu từ tầu chở dầu và phương tiện vận tải xăng dầu khác, thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng dài hạn từ năm (05) năm trở lên.  Có phương tiện vận tải xăng dầu chuyên dụng thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng dài hạn từ năm (05) năm trở lên để bảo đảm cung ứng xăng dầu cho hệ thống phân phối của mình.  Có hệ thống phân phối xăng dầu của mình: tối thiểu mười (10) cửa hàng bán lẻ thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu và hệ thống đại lý tối thiểu bốn mươi (40) đại lý bán lẻ xăng dầu.  Thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu nhiên liệu bay không bắt buộc phải có hệ thống phân phối quy định tại khoản 5 Điều này nhưng phải có phương tiện tra nạp nhiên liệu bay thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu của thương nhân. 10. Việt Nam chưa đủ khả năng tự sản xuất xăng – dầu để đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa 11. Do độ co giãn của cầu theo giá trên thị trường là tương đối không co giãn. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan