Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kinh tế - Quản lý Tiêu chuẩn - Qui chuẩn Thực trạng Thương mại điện tử Việt Nam hiện nay...

Tài liệu Thực trạng Thương mại điện tử Việt Nam hiện nay

.DOC
28
2105
108

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến mạnh mẽ trên toàn thế giới, nhất là CNTT đã dẫn đến sự xuất hiện một phương thức kinh doanh thương mại hoàn toàn mới, đó là TMĐT. Việc áp dụng CNTT trong hoạt động kinh tế đem lại những lợi ích to lớn cho toàn xã hội. Người ta không còn phải mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc,… cho những giao dịch kinh tế. Việc áp dụng TMĐT trong hoạt động kinh doanh là một xu thế tất yếu của thời đại. TMĐT là lĩnh vực hoạt động kinh tế không còn xa lạ với nhiều quốc gia. Nó đã và đang phát triển mạnh mẽ, làm cho khoảng cách giữa thế giới thực và thế giới ảo ngày càng được thu hẹp hơn. Và sự phát triển của Internet sẽ là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng mua bán trên phạm vi toàn cầu. Các nước trên thế giới đã và đang sẵn sàng nhập cuộc. Dự báo trong thời gian tới, TMĐT sẽ đem lại một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các doanh nghiệp. Theo nghiên cứu, hơn 40% dân số trên thế giới đã kết nối trực tuyến. Các chuyên gia cho rằng, bước sang năm 2016, TMĐT ắt hẳn sẽ có những xu hướng rõ rệt. Di động sẽ tiếp tục là công cụ giúp cho TMĐT lên ngôi trong năm 2016, chỉ bằng những thao tác đơn giản, liền mạch trên màn hình điện thoại như việc vào ứng dụng gọi xe Uber, nhấn nút tìm kiếm xe và hoạt động thanh toán cũng thuận tiện, nhanh chóng. Chính sự tương tác này đã kéo gần khoảng cách (đã rút ngắn khoảng cách) giữa thứ mà khách hàng muốn có và khả năng đạt được nó. Ngoài ra, ví điện tử sẽ là xu hướng tiếp theo được khách hàng quan tâm và lựa chọn, bằng chứng là số lượng tài khoản đăng ký sử dụng đang ngày một tăng dần. Đây là tín hiệu tốt bởi ví điện tử và cổng thanh toán trực tuyến là nhân tố quyết định trong thị trường TMĐT. Dự đoán trong năm 2016, có 8 loại ngành hàng sẽ có sức nóng trong thị trường TMĐT bao gồm: thời trang thể thao, sản phẩm chăm sóc em bé (đạt hơn 44 tỷ USD trong năm 2015), sản phẩm giáo dục, nội thất trang trí nhà cửa, các sản phẩm thủ công, sản phẩm chăm sóc thú cưng (đạt hơn 2 tỷ USD trong năm 2015), thực phẩm và du lịch. Trong quá trình hội nhập, ngành TMĐT của Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới. Mặc dù vậy, so với các nước thuộc khu vực châu Á và trên thế giới, TMĐT ở Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn đầu, chưa thực sự bùng nổ và tạo ra tiếng vang rộng rãi đối với khách hàng. Nhưng nhiều dự báo cho thấy TMĐT ở nước ta sẽ bùng nổ trong tương lai. Thứ nhất, dịch vụ Internet ở Việt Nam đang phát triển chóng mặt, một phần lớn là nhờ sự sôi động của thị trường điện thoại và cơ sở hạ tầng được đầu tư đúng 1 mức. Theo số liệu do VNTA (Bộ Thông tin & Truyền thông) công bố thì tính đến hết tháng 06/2015, Việt Nam đã có 45,50 triệu người dùng Internet, tỷ lệ người dân Việt Nam sử dụng Internet là 48%, xếp thứ 6 trong khu vực châu Á về số lượng người dùng, sau Trung Quốc (674 triệu), Ấn Độ (354 triệu), Nhật Bản (114,90 triệu), Indonesia (73 triệu), Philippines (47,10 triệu) và đứng thứ 17/20 quốc gia có lượng người dùng Internet nhiều nhất thế giới. Và trong vòng chưa đầy 5 năm, lượng người dùng Internet của Việt Nam đã tăng hơn gấp rưỡi, từ 28 triệu năm 2011 lên 45,50 triệu vào tháng 06/2015 (đạt 162,50%). Việt Nam hiện có hơn 120,60 triệu thuê bao di động, với tỷ lệ 133 thuê bao di động/100 dân. Số thuê bao điện thoại cố định tiếp tục sụt mạnh, chỉ còn 6,70 triệu thuê bao, tương đương tỷ lệ 7,40 thuê bao/100 dân. Số thuê bao băng rộng cố định đạt hơn 7,30 triệu thuê bao, tức 8 thuê bao/100 dân và 100% xã trong cả nước đã có điện thoại. TMĐT tại Việt Nam là một không gian cực kỳ đông đúc với rất nhiều người tham gia. Mặc dù kinh tế vĩ mô đang bị ảnh hưởng, thế nhưng tăng trưởng ở thị trường di động và Internet vẫn tiếp tục diễn ra, đặc biệt là khi chi phí truy cập Internet và cước thuê bao điện thoại đang giảm dần. Vì vậy, xu hướng TMĐT trên nền tảng di động sẽ thúc đẩy thị trường này trong năm 2016. Thị trường TMĐT Việt Nam mới chỉ thực sự tấn công mạnh mẽ qua lĩnh vực mạng xã hội như facebook, zalo, youtube, google+,… Tuy nhiên, sắp tới để thực sự bùng nổ, các doanh nghiệp hay những người bán hàng cần tạo dựng ứng dụng bán hàng có thể sử dụng trên thiết bị di động hay xây dựng các website mua hàng trực tuyến thực sự tiện ích, đơn giản, dễ dùng để khách hàng có những trải nghiệm mua hàng thú vị, nhanh chóng tạo được sức hút mạnh mẽ. Thứ hai, VECOM cũng đưa ra con số thống kê khá khả quan trong “Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam 2015”. Kết quả khảo sát năm 2015 và các năm trước đó, có thể thấy cả ba loại hình giao dịch phổ biến và có quy mô lớn nhất là B2C (Doanh nghiệp với Người tiêu dùng), B2B (Doanh nghiệp với Doanh nghiệp, G2B (Chính phủ với Doanh nghiệp) đều phát triển nhanh.  Với loại hình B2C, các doanh nghiệp đẩy mạnh bán hàng trên các thiết bị di động với tỷ lệ 26% website có phiên bản di động, đầu tư nhiều hơn cho tiếp thị trực tuyến. Tỷ lệ doanh nghiệp có doanh thu từ kênh bán hàng trực tuyến tăng lên là 43%, ổn định là 49% và chỉ giảm tại 8% doanh nghiệp tham gia khảo sát. Ước tính quy mô giao dịch của Ngày mua sắm trực tuyến 2015 cao gấp 3 lần so với năm 2014.  Với loại hình B2B, có tới 70% doanh nghiệp sử dụng e-mail và 36% sử dụng website của đối tác để mua hàng. Quy mô của các hợp đồng mua hàng trực tuyến có thể được thể hiện qua tỷ lệ tổng giá trị các đơn hàng doanh 2 nghiệp đã mua qua hai hình thức trên so với tổng chi phí của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy một nửa doanh nghiệp (49%) có giá trị mua hàng trực tuyến dưới 20% chi phí, 34% doanh nghiệp có giá trị này bằng 21 – 50% chi phí và 17% doanh nghiệp có giá trị mua hàng trực tuyến chiếm từ 51% trở lên. So với năm 2014 có thể thấy xu hướng các doanh nghiệp đã đẩy mạnh mua hàng hóa và dịch vụ trực tuyến.  Với loại hình G2B, tỷ lệ doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ công trực tuyến năm 2015 lên tới 73%. Nhiều dịch vụ công trực tuyến đã đạt tới mức 4, tức là doanh nghiệp có thể thanh toán trực tuyến. Trong đó, có tới 83% doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ khai báo thuế điện tử và 25% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ hải quan điện tử. Tổng số doanh nghiệp đã đăng ký nộp thuế điện tử qua cổng của Tổng cục Thuế đạt hơn 90,70% số doanh nghiệp đang hoạt động. Trong đó, 81,90% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế điện tử thành công tại ngân hàng thương mại. Thứ ba, Việt Nam là một trong những thị trường TMĐT có tiềm năng lớn ở châu Á với lượng người tiêu dùng trẻ đông đảo, nhưng thị trường này vẫn chưa phát triển xứng tầm với tiềm năng hiện có. Kết quả một cuộc thăm dò do Bộ Công thương tổ chức gần đây cho thấy, trong số 3.400 doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trên toàn quốc tham dự điều tra, có tới 60% đơn vị chấp nhận phương thức kinh doanh B2B (trong đó 95% chấp nhận đơn đặt hàng trực tuyến). Một phần ba số doanh nghiệp nói rằng, TMĐT chiếm từ 15% trở lên tổng thu nhập của họ. Hiện giao dịch TMĐT chiếm 2,50% GDP của Việt Nam, tương ứng với gần 2 tỷ USD và dự kiến sẽ đạt tới 6 tỷ USD vào năm 2015. Tuy nhiên, bất chấp tiềm năng lớn như vậy, tăng trưởng TMĐT ở Việt Nam đang bị kiềm chế do sự thiếu tin tưởng vào việc mua bán trên mạng cũng như việc thanh toán tiền – hàng trực tuyến. Các yếu tố từng kìm hãm TMĐT vài năm trước, như hạ tầng CNTT, khung pháp lý, đã phần nào được khắc phục. Các rào cản hiện nay là lòng tin của người tiêu dùng, về bảo vệ thông tin cá nhân và bảo vệ người tiêu dùng, về giải quyết tranh chấp trong giao dịch mua bán trực tuyến. Mặc dù việc thanh toán hiện có thể đã trở nên dễ dàng nhờ sự hợp tác giữa các trang TMĐT và các ngân hàng, song chúng vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ ở Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến người dùng là khó giải quyết nhất khi phát triển TMĐT. Phải làm sao để giành được niềm tin của khách hàng, làm sao để khách hàng cảm thấy thoải mái, cảm thấy mua hàng qua mạng là lợi ích, điều này mới khuyến khích họ mua hàng qua mạng và thúc đẩy TMĐT phát triển. Bên cạnh đó, ngành TMĐT cũng có những hạn chế về kỹ thuật và thương mại như tốc độ đường truyền Internet chưa ổn định, chi phí truy cập cao, gian lận và nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ… Vì vậy, nhóm quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu thực trạng phát triển của ngành thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” nhằm tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá thực trạng phát triển 3 ngành TMĐT ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích khắc phục những hạn chế nêu trên, tạo niềm tin vững chắc cho người tiêu dùng để đưa ngành TMĐT của Việt Nam ngày càng phát triển hơn nữa. 2. Mục tiêu nghiên cứu  Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng phát triển ngành TMĐT ở Việt Nam hiện nay.  Đánh giá thực trạng phát triển ngành TMĐT ở Việt Nam hiện nay.  Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để giúp cho ngành TMĐT ở Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Phạm vi về không gian Đề tài được thực hiện tại Việt Nam. 3.2. Phạm vi về thời gian Số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu từ năm 2005 đến năm 2015. 3.3. Phạm vi về nội dung Nghiên cứu thực trạng phát triển ngành TMĐT ở Việt Nam hiện nay và không giới hạn. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp thu thập số liệu Số liệu sử dụng trong đề tài được thu thập trên Internet. 4.2. Phương pháp phân tích số liệu - Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và so sánh để mô tả và đánh giá thực trạng phát triển ngành TMĐT ở Việt Nam hiện nay. - Từ những mô tả và đánh giá ở trên đề xuất các giải pháp, kiến nghị để giúp cho ngành TMĐT ở Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. 4 PHẦN NỘI DUNG I. Khái quát về thương mại điện tử I.1. Định nghĩa Có nhiều định nghĩa về TMĐT. Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu, TMĐT (E-commerce, Electronic commerce) là việc thực hiện các hoạt động thương mại dựa trên các công cụ điện tử, đặc biệt là Internet và www. Hay một định nghĩa khác, TMĐT là hình thái hoạt động thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn được gọi là “Thương mại không giấy tờ”). Còn theo WTO, “TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet”. Theo Nghị định 52/2013NĐ-CP về TMĐT thì: Hoạt động TMĐT là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. TMĐT vẫn mang bản chất như các hoạt động thương mại truyền thống. Tuy nhiên, thông qua những phương tiện điện tử mới, các hoạt động thương mại được thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi phí và mở rộng không gian kinh doanh. I.2. Các mô hình thương mại điện tử Hiện nay, có nhiều cách khác nhau để phân chia các mô hình TMĐT. Nếu phân chia theo đối tượng tham gia thì có ba đối tượng chính bao gồm: Chính phủ (G – Government), Doanh nghiệp (B – Business) và Người tiêu dùng/Công dân (C – Consumer/Citizen). Nếu kết hợp đôi một ba đối tượng này sẽ có chín mô hình TMĐT theo đối tượng tham gia là: G2G, G2B, G2C, B2G, B2B, B2C, C2G, C2B, C2C. 5 Hình 1 Các mô hình thương mại điện tử  G2G (Government to Government – Chính phủ với Chính phủ): là hình thức giao dịch trực tuyến không mang tính thương mại giữa các tổ chức chính phủ, phòng ban và chính quyền này với các tổ chức chính phủ, phòng ban và chính quyền khác với nhau. Hình thức này sử dụng nhiều ở nước Anh.  G2B (Government to Business – Chính phủ với Doanh nghiệp): là hình thức tương tác trực tuyến không mang tính thương mại giữa Chính phủ (địa phương và trung ương) và thành phần doanh nghiệp thương mại. Đây là một trong ba yếu tố chính trong Chính phủ điện tử. Một số hình thức giao dịch điển hình đó là: thanh tra, giám sát doanh nghiệp (về đóng thuế, tuân thủ luật pháp,…); thông tin về quy hoạch sử dụng đất, phát triển đô thị; cung cấp các thông tin về luật, quy chế, chính sách và các dịch vụ hành chính công trực tuyến cho doanh nghiệp chủ yếu thông qua Internet.  G2C (Government to Citizen – Chính phủ với Công dân): là mối liên kết thông tin giữa Chính phủ và các công dân. G2C có thể xảy ra trong các mức độ như đảng phái, bang và địa phương.  B2G (Business to Government – Doanh nghiệp với Chính phủ): là mô hình thương mại giữa doanh nghiệp/công ty và khối hành chính công. Nó bao hàm việc sử dụng Internet cho hoạt động đấu thầu, mua bán công, xin cấp giấy phép,… Ở Việt Nam, việc cấp phép cho các sàn giao dịch TMĐT hiện đang được thực hiện qua mô hình này.  B2B (Business to Business – Doanh nghiệp với Doanh nghiệp): mô tả các giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp, chẳng hạn như giữa các nhà sản xuất với người bán buôn, hoặc giữa một người sỉ với người bán lẻ. Mô hình này ngày càng được nhân rộng, nó chiếm đa số doanh số của TMĐT, khoảng 80% và phần lớn các chuyên gia dự đoán rằng TMĐT B2B sẽ tiếp tục 6 phát triển nhanh hơn B2C. Một trong những mô hình TMĐT B2B thành công nhất trên thế giới phải kể đến đó là Alibaba.com của Trung Quốc.  B2C (Business to Consumer – Doanh nghiệp với Người tiêu dùng): là hình thức TMĐT giao dịch giữa các doanh nghiệp/công ty và người tiêu dùng (khách hàng). B2C còn gọi là dịch vụ bán lẻ trực tuyến của các công ty qua mạng Internet cho khách hàng là những người tiêu dùng cuối cùng, mua hàng với mục đích phục vụ tiêu dùng cá nhân. Đây là loại giao dịch quen thuộc và phổ biến nhất trong TMĐT, thường được thực hiện qua thông qua các chương trình Tiếp thị liên kết. Những công ty thành công với mô hình B2C phải kể đến như là Amazon, Lazara, Walmart,… Riêng Lazara đang là một trong những sàn giao dịch có doanh thu lớn nhất ở Việt Nam.  C2G (Citizen to Government – Công dân với Chính phủ): mô hình này dùng để thực hiện các giao dịch giữa công dân và Chính phủ như đóng thuế, phí, lệ phí,…  C2B (Consumer to Business – Người tiêu dùng với Doanh nghiệp): hình thức TMĐT này giúp người tiêu dùng có thể tìm hiểu, so sánh giá cả và chất lượng hàng hóa giữa các doanh nghiệp.  C2C (Consumer to Consumer – Người tiêu dùng với Người tiêu dùng): là hình thức TMĐT giữa những người tiêu dùng với nhau. Loại hình TMĐT này được phân loại bởi sự tăng trưởng của thị trường điện tử và đấu giá trên mạng, đặc biệt với các ngành theo trục dọc nơi các doanh nghiệp/công ty có thể đấu thầu cho những cái họ muốn từ các nhà cung cấp khác nhau. Đây là một tiềm năng lớn cho việc phát triển các thị trường mới. Ví dụ như eBay, cho phép đấu giá trực tuyến cho những mặt hàng được bán trên website của mình. Kết quả khảo sát của VECOM cho thấy trong số chín mô hình trình bày ở trên thì ba loại hình giao dịch phổ biến và có quy mô lớn nhất tại thị trường Việt Nam là B2C, B2B, G2B. I.3. Các hình thức hoạt động thương mại điện tử - Thư điện tử (E-mail): Các đối tác (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng. Đây là một thứ thông tin dưới dạng “phi cấu trúc”, nghĩa là thông tin không phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận. 7 - Thanh toán điện tử (Electronic payment): Là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (Electronic message) thay cho việc trao tay tiền mặt, việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng,… - Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial electronic data interchange): chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử. + Tiền mặt Internet (Internet cash) + Túi tiền điện tử (Electronic purse, còn gọi tắt là “Ví điện tử”) + Thẻ thông minh (Smart card) + Giao dịch ngân hàng số hoá (Digital banking), và giao dịch chứng khoán số hoá (Digital securities trading) - Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange) Là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. - Giao gửi số hoá của các dung liệu: Dung liệu (Content) là các hàng hóa mà người ta cần đến nội dung của nó (chính nội dung là hàng hóa). Ngày nay, các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm,… cũng được đưa vào danh mục các dung liệu. Trước đây dung liệu cũng được trao đổi dưới dạng hiện vật bằng cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng, quầy báo,…) để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gửi theo mạng, gọi là “giao gửi số hoá” (Digital delivery). - Bán lẻ hàng hóa hữu hình: Tận dụng tính đa năng phương tiện của môi trường Web và Java, người bán hàng xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” để thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hoá hiển thị trên màn hình, xác nhận mua hàng, và trả tiền bằng thanh toán điện tử. I.4. Chỉ số thương mại điện tử Chỉ số EBI được xây dựng dựa trên phương pháp đánh giá mức độ ứng dụng TMĐT của Trung tâm Phát triển quốc tế thuộc Đại học Havard. Phương pháp này xem xét mức độ ứng dụng TMĐT dựa trên bốn nhóm tiêu chí lớn là: nguồn nhân 8 lực và hạ tầng CNTT, giao dịch TMĐT B2C, giao dịch TMĐT B2B và cung cấp dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan nhà nước tới doanh nghiệp G2B. (i) Nhóm 1: Nguồn nhân lực và hạ tầng CNTT (Trọng số nhóm: 20%)    Nguồn nhân lực: trọng số 50% Máy tính và kết nối Internet: trọng số 45% Đầu tư cho CNTT: trọng số 5% (ii) Nhóm 2: Giao dịch TMĐT B2C (Trọng số nhóm: 30%)      Sử dụng e-mail trong bán hàng: trọng số 25% Sử dụng website trong kinh doanh: trọng số 40% Sử dụng các sàn TMĐT: trọng số 15% Thanh toán điện tử: trọng số 15% Bảo vệ thông tin khách hàng: trọng số 5% (iii) Nhóm 3: Giao dịch TMĐT B2B (Trọng số nhóm: 30%)     Ứng dụng các phần mềm ứng dụng và bảo mật thông tin: trọng số 20% Nhận đơn đặt hàng trực tuyến: trọng số 35% Đặt hàng trực tuyến: trọng số 35% Hiệu quả kinh doanh trực tuyến: trọng số 10% (iv) Nhóm 4: Dịch vụ công trực tuyến (Trọng số nhóm: 20%): gồm ba phân nhóm nhỏ sau 1. Phân nhóm các tiêu chí từ điều tra EBI: trọng số 60% Cho điểm theo điều tra Chỉ số EBI. Tổng hợp và cho điểm theo thang điểm 100.     Thường xuyên tra cứu thông tin trên các website của các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương: trọng số 20% Sử dụng các dịch vụ công trực tuyến liên quan tới kinh doanh như các thủ tục đăng ký, cấp phép, khai báo,…: trọng số 40% Tìm kiếm thông tin liên quan tới đấu thầu trên các website của các cơ quan nhà nước: trọng số 10% Lợi ích của các dịch vụ công trực tuyến: trọng số 30% 2. Phân nhóm từ cuộc điều tra PCI: trọng số 30% Trong Phiếu điều tra PCI có hai câu hỏi liên quan tới cung cấp thông tin trên website các địa phương. Trong cơ sở dữ liệu công bố trên website www.picvietnam.org, kết quả có được từ hai câu hỏi này được tổng hợp với tiêu chí Độ mở của trang web của tỉnh với thang điểm là 20, năm 2010 biến thiên từ 0 tới 19 theo từng tỉnh, năm 2011 từ 9 tới 20. Tổng hợp thông tin theo từng tỉnh, cho điểm theo thang 100. 9 3. Phân nhóm từ xếp hạng dịch vụ công trực tuyến trên website các tỉnh do Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành: trọng số 10% Xếp hạng này cơ bản mới đo khía cạnh cung cấp các dịch vụ công trên website, chưa phản ảnh mức độ sử dụng của các doanh nghiệp và hiệu quả sử dụng các dịch vụ công này.  Ý nghĩa: EBI giúp cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp có thể đánh giá một cách nhanh chóng mức độ ứng dụng TMĐT và so sánh sự tiến bộ giữa các năm theo từng địa phương, đồng thời hỗ trợ việc đánh giá, so sánh giữa các địa phương với nhau dựa trên một hệ thống các chỉ số. Trên cơ sở điều tra hơn 3.000 doanh nghiệp khắp cả nước, VECOM đã sử dụng phương pháp đánh giá sự sẵn sàng ứng dụng TMĐT của Trung tâm Phát triển quốc tế thuộc Đại học Havard để xây dựng chỉ số cho từng tỉnh. Mặc dù VECOM đã hết sức cố gắng nhưng do năm 2012 là lần đầu tiên triển khai xây dựng chỉ số EBI trong điều kiện khó khăn về nguồn lực nên chưa thể đánh giá được tất cả các địa phương trên cả nước. Sau quá trình nỗ lực hoàn thiện, đến nay chỉ số EBI đã trở thành công cụ đánh giá một cách khách quan về TMĐT cả nước cũng như từng địa phương, góp phần vào việc xây dựng chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh. II. Thực trạng phát triển ngành thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay II.1. Tình hình cơ sở hạ tầng cho ngành thương mại điện tử II.1.1. Công nghệ thông tin CNTT là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin. Từ lâu, CNTT đã là nền tảng của “Kinh tế số hóa” nói chung và “TMĐT” nói riêng. Về công nghệ tính toán, người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm 1968. Đến đầu những năm 1980, máy tính bắt đầu được nhập khẩu vào Việt Nam, mở đầu thời kỳ phát triển nhanh về tin học. Năm 1995 là một cột mốc thời gian quan trọng trong lịch sử phát triển CNTT ở nước ta – Chương trình Quốc gia về CNTT được triển khai trên cả nước, đây cũng là năm các công ty hàng đầu thế giới như Compaq, HP, … bắt đầu tham gia vào thị trường Việt Nam, lượng máy vi tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 150%/năm. Doanh thu công nghiệp CNTT Việt Nam năm 2013 đạt trên 39,50 tỷ USD, tăng 55,30% so với năm 2012 nhờ lĩnh vực công nghiệp phần cứng, điện tử tăng 59,70% với doanh thu trên 36,70 tỷ USD và chiếm tới 93% tổng doanh thu của ngành công nghiệp CNTT. Công nghiệp phần mềm và nội dung số cũng tăng trưởng mạnh, lần lượt là 12,70% và 13,90%. Xuất khẩu sản phẩm CNTT năm 2013 đạt 34,76 tỷ USD, tăng trên 51,70% so với năm 2012. Đặc biệt, trong lĩnh vực CNTT, Việt Nam đã xuất siêu 8,40 tỷ USD trong năm 2013. Tuy nhiên, hoạt động phần 10 mềm chủ yếu là dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng. Số công ty kinh doanh mảng này còn ít, sản phẩm phần mềm chủ yếu là các chương trình văn bản tiếng Việt; giáo dục, văn hóa, kế toán tài chính, khách sạn, quản lý văn thư, điều tra thống kê ít có các phần mềm trọn gói có giá trị thương mại cao. Bảng 1: Thống kê lượng người sử dụng Internet của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014 Năm Lượng người sử dụng Internet Tỷ lệ dân số sử dụng Internet ĐVT 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Triệu người 10,71 14,6 8 17,72 20,83 22,78 26,78 30,55 31,31 32,33 35,34 % 12,90 17,67 21,05 24,40 26,55 31,11 35,07 35,58 36,02 38,95 Nguồn: VNNIC và VECITA Việt Nam gia nhập mạng toàn cầu tương đối chậm: tháng 11 năm 1997 mới chính thức bắt đầu kết nối mạng Internet, tới đầu năm 1999 mới có khoảng 17.000 thuê bao, chủ yếu thông qua ba nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn nhất là Công ty điện toán và truyền số liệu (VDC), Công ty phát triển đầu tư công nghệ (FPT) và Viện CNTT (Netnam) thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia. Dù vậy, những con số thống kê qua các năm trong giai đoạn 2005 – 2014 ở bảng 1 đã cho thấy xu hướng phát triển rất nhanh của Internet tại Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn này thì lượng người sử dụng Internet đã tăng gần 230%. Tỷ lệ dân số sử dụng Internet bình quân mỗi năm tăng 2,89%. Đặc biệt năm 2010, lượng người sử dụng Internet tăng đến hơn 4 triệu người so với năm 2009, tương đương 17,56%. Năm 2012, tỷ lệ dân số sử dụng Internet của Việt Nam đạt 35,58%, đứng thứ tư khu vực Đông Nam Á sau Singapore (70%), Maylaisia (55,30%), Brunei (50%). Năm 2013, Việt Nam nằm trong Top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng người dùng Internet nhanh nhất khu vực châu Á và đã liên tục nằm trong Top 20 quốc gia có số người sử dụng Internet nhiều nhất thế giới từ năm 2010. Hiện nay, tỷ lệ dân số sử dụng Internet đã lên đến hơn 38,95%, một con số khá ấn tượng cho thấy tiềm năng phát triển ngành TMĐT của Việt Nam là rất lớn. Theo số liệu của Ban chỉ đạo quốc gia về CNTT, đến nay máy vi tính các loại nhập vào Việt Nam đã lên tới tổng số gần 500.000 chiếc. Hiện nay hầu như mọi cơ quan, tổ chức nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân đều sử dụng máy tính cá nhân. Theo báo cáo năm 2012 của VNNIC, Việt Nam hiện nay có khoảng hơn 31 triệu người sử dụng Internet, con số hiện tại chắc chắn còn cao hơn nhiều. Ngoài ra, số thời gian sử dụng Internet trung bình hàng ngày của người Việt Nam rất cao (4,50 giờ đối với máy tính và 1,50 giờ đối với các thiết bị di động), cao hơn một số quốc gia như Trung Quốc, Hong Kong, Nhật Bản. 11 Nguồn: Globalwebindex Hình 2 Thời gian sử dụng Internet hàng ngày của một số quốc gia (giờ) Người dân sử dụng Internet hàng ngày tại gia đình, cơ quan và tại mọi nơi với các thiết bị di động có kết nối Wifi, 3G. Đây chính là điều kiện rất tốt để TMĐT có thể phát triển bùng nổ trong thời gian tới cũng như sự gia tăng các doanh nghiệp và hình thức TMĐT. II.1.2. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực cho TMĐT là một thách thức không nhỏ mà các doanh nghiệp TMĐT Việt Nam phải đối mặt. Theo số liệu của VECITA (Bộ Công thương), từ năm 2005 đến năm 2012 các trường đại học và cao đẳng đào tạo TMĐT đã tăng lên tổng số 88 trường. Đến năm 2014, một số trường mở rộng đào tạo TMĐT, nhưng so với năm 2012 vẫn xấp xỉ trên dưới 90 trường. Điều đó chứng tỏ đào tạo TMĐT sẽ chững lại trong thời gian tạm thời để tạo đà phát triển trong các giai đoạn tiếp theo. Cơ cấu nguồn nhân lực cho TMĐT gồm hai bộ phận chính:  Nguồn nhân lực CNTT – Truyền thông (phần cứng, phần mềm, mạng truyền thông): đảm bảo cơ sở hạ tầng công nghệ, các phương tiện kỹ thuật cho TMĐT; đồng thời đảm bảo duy trì, vận hành, phối hợp với nguồn nhân lực Quản trị kinh doanh nhằm hoàn thiện, nâng cấp các hệ thống TMĐT lớn.  Nguồn nhân lực Quản trị kinh doanh TMĐT: sử dụng các phương tiện kỹ thuật do nguồn nhân lực CNTT – Truyền thông tạo nên để tiến hành các hoạt động kinh doanh, hoạt động thương mại. Trong cuộc hội thảo “Tổng kết 10 năm đào tạo chính quy ngành TMĐT và hướng phát triển” do VECITA tổ chức sáng ngày 19/06/2015. Ông Trần Hữu Linh – Cục trưởng VECITA cho biết, theo ước tính hiện tại, nước ta có khoảng 500 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh. Căn cứ theo kết quả khảo sát hàng năm đối với một bộ phận ứng dụng thường xuyên TMĐT, có hơn 80% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho thấy nhu cầu nhân lực TMĐT được đào tạo là rất cần thiết đối với chính doanh nghiệp đó. Trong giai đoạn sắp tới chắc chắn nhu cầu đó sẽ tăng lên nhiều lần khi Việt Nam trở thành quốc gia có lượng ứng dụng CNTT trong hoạt 12 động quản lý, sản xuất kinh doanh lớn, do đó việc tiến hành trao đổi thương mại qua mạng sẽ ngày càng phổ biến hơn. II.1.3. Kinh tế - xã hội Qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế phát triển và tăng trưởng ổn định. Từ 2005 đến nay, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 07/11/2006 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế - xã hội đất nước. Việc trở thành thành viên WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vào năm 2007. Tuy nhiên, ngay sau đó do tác động khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đã dẫn đến sụt giảm tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2008 – 2011. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2007 – 2014 (5,94%) thấp hơn giai đoạn 2001 – 2006 (7,27%). Từ khi thực hiện đường lối “Đổi mới”, nhất là khi Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, khối doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển và có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của kinh tế đất nước. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng 500.000 doanh nghiệp, chiếm gần 90% số doanh nghiệp của cả nước. Trong giai đoạn 2006 – 2015, so với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển. Trong thời gian tới, khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng 40% GDP của cả nước. Theo công bố từ Tổng cục Thống kê, tính chung cả nước năm 2015, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 3.242,90 nghìn tỷ đồng, tăng 9,50% so với năm 2014. Điều đó cho thấy hoạt động bán lẻ trên thị trường khá sôi động, mạng lưới phân phối hàng hóa mở rộng và đa dạng về ngành nghề kinh doanh với các hệ thống siêu thị, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tự chọn,… tại nhiều địa phương. Thị trường bán lẻ tại Việt Nam hiện nay đang là một trong những miếng bánh béo bở mà các ông lớn như Sài Gòn Co.op, BigC, VinGroup, Lotte,… đang cạnh tranh với nhau để giành thị phần. II.1.4. Pháp luật và chính trị Việt Nam là một quốc gia có nền chính trị ổn định. Hệ thống pháp luật luôn được đổi mới và hoàn thiện qua từng năm. Giai đoạn 2005 – 2015 chứng kiến những thành tựu lớn trong hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội (thể chế kinh tế thị trường, hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân,...) đã có pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, dù đã có luật bảo hộ bản quyền và quyền sở hữu trí tuệ nhưng luật này chỉ mới áp dụng tương đối 13 tốt trong lĩnh vực truyền hình và phim ảnh, ở những khía cạnh khác trong lĩnh vực CNTT thì nhìn chung vẫn chưa hiệu quả. Tháng 11/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử. Để thực thi Luật này trong đời sống, tháng 06/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về TMĐT. Đầu năm 2007, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Nội dung chủ yếu của Nghị định 57/2006/NĐ-CP thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong hoạt động thương mại, ngoài ra có một số quy định cụ thể khác. Cho tới cuối năm 2012, TMĐT ở Việt Nam phát triển nhanh và đa dạng, đồng thời cũng xuất hiện những mô hình mang danh nghĩa TMĐT thu hút rất đông người tham gia nhưng gây tác động xấu tới xã hội. Ngày 16/05/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về TMĐT thay thế cho Nghị định 57/2006/NĐ-CP. Nghị định mới đã quy định những hành vi bị cấm trong TMĐT, quy định chặt chẽ trách nhiệm của các thương nhân cung cấp các dịch vụ bán hàng trực tuyến, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về TMĐT. Một trong những mục tiêu quan trọng của Nghị định mới là tạo môi trường thuận lợi hơn cho TMĐT, nâng cao lòng tin của người tiêu dùng khi tham gia mua sắm trực tuyến. II.2. Thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn 2005 – 2015 Có thể nói Việt Nam thực sự bắt đầu tham gia hoạt động TMĐT từ cuối năm 1997. Tuy những điều kiện cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển của TMĐT còn chưa hoàn thiện và đầy đủ, nhưng do các hoạt động hội nhập sâu rộng của nước ta cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, Việt Nam đã và đang dần trở thành một trong những thị trường TMĐT lớn ở châu Á với một lượng lớn người sử dụng. Việc đánh giá tình hình phát triển TMĐT của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và pháp luật cũng như các nhà đầu tư. Trên quy mô toàn cầu, những tổ chức như ITU hay EIU hàng năm đưa ra các chỉ số định lượng về sự phát triển CNTT hay kinh tế số. Ở Việt Nam, VECOM đã tiến hành hoạt động xây dựng chỉ số EBI lần đầu tiên vào năm 2012. Chỉ số EBI cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các địa phương về hiện trạng ứng dụng và mức độ sẵn sàng cho TMĐT. Theo đại diện VECOM, chỉ số EBI của Việt Nam 2015 có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương dẫn đầu và các địa phương có số điểm thấp. Thống kê từ chỉ số EBI 2015 cho thấy, điểm trung bình của nhóm 5 tỉnh có chỉ số cao nhất (63,40) so với nhóm 5 tỉnh có chỉ số thấp nhất (32,90) lên tới hơn 30,50 điểm; cao hơn khoảng cách chênh lệch 20,30 và 18 điểm 14 của các năm 2014 và 2013. Dựa trên thống kê chỉ số EBI của ba năm 2013 – 2014 – 2015 thì sự chênh lệch về mức độ ứng dụng và phát triển TMĐT ở các địa phương đang tăng dần theo thời gian. Từ mô ôt nước nằm trong nhóm các nước châ ôm phát triển TMĐT trên thế giới theo thống kê năm 2005 thì đến nay với sự phát triển của Internet, 3G và các thiết bị di động, đặc biệt là smartphone cùng hàng ngàn thẻ ngân hàng phát hành mỗi ngày, TMĐT Việt Nam đang đứng trước thời cơ bùng nổ với doanh thu dự kiến lên đến 4 tỷ USD trong năm 2015. Những nỗ lực đẩy mạnh TMĐT của Việt Nam đã mang lại hiệu quả nhất định. Theo VECITA, TMĐT đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng một phần ba dân số Việt Nam truy cập Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%, trong đó tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%. Cũng theo kết quả điều tra khảo sát năm 2014 của VECITA, giá trị mua hàng trực tuyến của một người trong năm ước tính đạt khoảng 145 USD và doanh số thu từ TMĐT B2C đạt khoảng 2,97 tỷ USD, chiếm 2,12% tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước. Sản phẩm được lựa chọn tập trung vào các mặt hàng như đồ công nghệ và điện tử (60%), thời trang, mỹ phẩm (60%), đồ gia dụng (34%), sách, văn phòng phẩm (31%) và một số các mặt hàng khác. Tại Việt Nam, phần lớn người mua sắm sau khi đặt hàng trực tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán tiền mặt (64%), hình thức thanh toán qua ví điện tử chiếm 37%, và hình thức thanh toán qua ngân hàng chiếm 14%. Báo cáo mới nhất của eMarketer, một hãng nghiên cứu đến từ Mỹ cũng cho thấy, Việt Nam là thị trường bùng nổ của smartphone với 30% dân chúng sử dụng. Thời gian online trên thiết bị di động cũng chiếm tới một phần ba ngày của người tiêu dùng Việt Nam. Sự phổ cập của Internet, 3G và các thiết bị di động đã chắp thêm sức mạnh cho TMĐT Viê ôt Nam cất cánh. Căn cứ vào những số liệu nêu trên và ước tính giá trị mua hàng trực tuyến của mỗi người vào năm 2015 tăng thêm 30 USD so với năm 2013, thì dự báo doanh số mua bán trực tuyến của Việt Nam năm 2015 sẽ đạt 4 tỷ USD. Các doanh nghiê ôp trong và ngoài nước đang chạy đua cạnh tranh thị phần với nhiều chiến lược kinh doanh mới, trong đó, kinh doanh trên ứng dụng điện thoại thông minh được dự báo sẽ diễn ra rất sôi động. Đă cô biê tô hơn nữa, Google đã trở thành thành viên của VECITA và không giấu diếm kỳ vọng thu được 30 triệu USD mỗi năm từ thị trường này. Alibaba và eBay cũng đã nhanh chân tìm được đại diện chính thức, trong khi Amazon và Rakuten đang tiến tới việc thiết lập quan hệ đối tác hoặc mua cổ phần tại các hãng TMĐT Việt Nam. Một số doanh nghiê ôp Thái Lan, Hàn Quốc cũng đang tìm đường đầu tư, có thể thông qua một doanh nghiê ôp khác hoặc tự thực hiện. Trong nước, mặc dù chưa có tên tuổi nào nổi bật hẳn lên nhưng số lượng các công ty tham gia lĩnh vực này đã “trăm hoa đua nở” 15 với một số tên tuổi có thể kể đến như Vật Giá, VCCorp, Chợ Điện Tử (Peacesoft), Mekongcom,.... Hiện tại, kinh doanh trong lĩnh vực TMĐT tại Việt Nam đang diễn ra hết sức sôi động, đã có nhiều công ty đạt được thành công lớn để vươn lên chiếm lĩnh thị trường nhưng cũng không ít kẻ thua cuộc phải rời bỏ cuộc chơi. Giai đoạn 2014 – 2015 được coi là thời điểm bùng nổ của thị trường TMĐT tại Việt Nam khi các công ty liên tục nhận được vốn đầu tư “khủng” từ trong và ngoài nước. Cuối năm 2014, Lazada được đầu tư thêm 249 triệu USD từ nhóm nhà đầu tư, dẫn đầu bởi Temasek (Singapore), giúp nâng tổng vốn mà tập đoàn này nhận được từ khi thành lập lên 647 triệu USD. Các công ty khác như Zalora, Tiki,… cũng liên tục được rót thêm vốn, đặc biệt thị trường càng sôi động hơn khi VinE-com nhảy vào cuộc chơi lớn với ngân sách 735 tỷ đồng. Có thể thấy cuộc chiến giành thị phần của các trang TMĐT tại Việt Nam là rất gay gắt và không hề đơn giản, đòi hỏi sự đầu tư rất lớn để thu hút và giữ chân khách hàng. Nếu không mạnh về tài chính, các công ty buộc phải tìm những đối sách phù hợp khác như tập trung vào số lượng mặt hàng, cạnh tranh về giá hoặc dịch vụ hậu cần, chăm sóc khách hàng,… để có thể tồn tại và phát triển. Với mạng lưới và mô hình đầu tư của những “ông lớn” như VinE-com hay Lazada, cơ hội cho các doanh nghiệp TMĐT quy mô nhỏ vươn lên dàn hàng ngang sẽ ngày càng hẹp lại. Bảng thị phần doanh thu của Top 10 sàn giao dịch TMĐT Việt Nam, cũng đang thể hiện sự “lép vế” của các website khác với khoảng cách khá rộng so với Lazada – website đang dẫn đầu thị trường với 36,10% thị phần doanh thu. Chẳng hạn, website TMĐT đứng thứ hai về doanh thu sau Lazada là Sendo, chỉ chiếm 14,40%. Zalora đứng thứ ba với 7,20%. Tiki ở vị trí thứ tư chỉ chiếm 5,40% doanh thu. Và doanh nghiệp đứng vị trí thứ mười – Rongbay, chỉ chiếm được 0,30% doanh thu. Như vậy, những doanh nghiệp TMĐT không có tên trong Top 10 sẽ có tỷ trọng doanh thu thấp hơn 0,30% hoặc 0,00…% trên thị trường. Cơ hội để các doanh nghiệp nhỏ như vậy tồn tại và tiếp tục phát triển, theo các chuyên gia, sẽ phải đi vào xu hướng cộng sinh với doanh nghiệp TMĐT khác hoặc đi sâu vào phân khúc ngách, đầu tư TMĐT ngành dọc… Nguồn: Bộ Công thương Hình 3 Thị phần doanh thu của Top 10 sàn giao dịch thương mại điện tử (tính đến năm 2014) 16 TMĐT hiện đang là một trong những ngành được Nhà nước ta chủ trương thúc đẩy phát triển. Và để phát triển nền kinh tế số hóa nói chung và TMĐT nói riêng, Chính phủ và Nhà nước cũng đã có nhiều hỗ trợ, ưu đãi về thuế dành cho các giao dịch TMĐT; đồng thời đã ban hành nhiều bộ Luật, Nghị định nhằm hướng tới hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành TMĐT phát triển. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ còn ban hành quyết định chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương phối hợp xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển TMĐT cho giai đoạn tiếp theo. Điển hình là Dự thảo quyết định phê duyệt “Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐTgiai đoạn 2016 – 2020” do Bộ Công thương soạn thảo đã đề ra hai quan điểm trọng tâm, đó là: 1. TMĐT là một trong những kết cấu hạ tầng quan trọng của lĩnh vực thương mại và của xã hội thông tin; là phương thức giúp doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất nhập khẩu, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu; giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. TMĐT là lĩnh vực có hàm lượng ứng dụng công nghệ cao, tốc độ phát triển nhanh. Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt triển khai, Nhà nước đóng vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi trường cho TMĐT phát triển. Chính sách quản lý được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi ứng dụng TMĐT. Bên cạnh đó, Dự thảo cũng đặt ra mục tiêu cụ thể về quy mô phát triển cho thị trường TMĐT Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 như sau: Đến năm 2020 ngành TMĐT trong nước sẽ đạt tới mức 30% dân số tham gia mua sắm trực tuyến, với giá trị mua hàng trực tuyến đạt trung bình 350 USD/người; Doanh số TMĐT B2C tăng 20%/năm, đạt 10 tỷ USD, chiếm 5% so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước; Khuyến khích phát triển TMĐT xuyên biên giới, gắn TMĐT với hoạt động xuất nhập khẩu, chiếm 15% doanh số TMĐT B2C vào năm 2020. III. Đánh giá thực trạng phát triển ngành thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay III.1. Thành tựu Hiện nay TMĐT Việt Nam được đánh giá là có rất nhiều tiềm năng để phát triển, mặc dù vẫn còn nhiều bất cập và tồn tại cần xử lý nhưng đây thực sự là một miếng bánh hấp dẫn. Mục tiêu đẩy mạnh phát triển TMĐT giai đoạn 2011 – 2015 đã bước vào giai đoạn cuối. Đã có những khó khăn, đã có những cái tên phải ra đi một cách bất ngờ, song không thể phủ nhận TMĐT đã có một bước tiến vô cùng mạnh mẽ với những thành tựu đạt được trong những năm qua: 17 - TMĐT đã và đang giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những bước tiến mới trong quá trình hoạt động sản xuất như tiết kiệm chi phí tìm hiểu đối tác, giao dịch và ký kết hợp đồng, mở rộng thị trường tới rất nhiều khu vực trên thế giới mà không mất quá nhiều chi phí và nhân lực. - Thời gian thực hiện giao dịch TMĐT không giới hạn: Nhờ viê ôc sử dụng các phương tiê nô điê nô tử với công nghê ô hiê nô đại và công nghê ô truyền dẫn không dây…, giúp người tham gia giao dịch tiến hành tự đô nô g hóa mô tô số bước trong giao dịch TMĐT (như mua hàng trực tuyến qua website) và loại bỏ sự chênh lê ôch về thời gian giữa các quốc gia. Do đó dù ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ thời điểm nào các cá nhân, doanh nghiê ôp cũng có thể tiến hành được các giao dịch TMĐT. - TMĐT tạo ra thị trường cho người bán và người mua gặp nhau trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể cập nhật những tin tức về khách hàng thường xuyên và làm dài thêm danh sách khách hàng tiềm năng thông qua các trang miền điện tử. - Việc áp dụng TMĐT giúp doanh nghiệp giảm rất nhiều chi phí như: chi phí thuê cửa hàng, chi phí bán hàng và marketing, chi phí trong giao dịch. Ngoài ra, quảng cáo qua mạng là hình thức quảng cáo kinh tế nhất. Thông qua trang web, doanh nghiệp có thể tự giới thiệu về mình trên quy mô toàn cầu mà không cần các phương tiện thông tin đại chúng có chi phí cao. Việc thanh toán có thể gửi và nhận bằng hệ thống điện tử, mang lại hiệu quả cao, tốc độ xử lý nhanh, độ chính xác đáng tin cậy và chi phí thấp, giảm bớt được các nhầm lẫn sai sót. - Chia sẻ thông tin nhanh chóng và dễ dàng: Thông tin trên mạng vô cùng phong phú và đa dạng, được đăng tải với mục đích truyền bá rộng rãi nên người tiêu dùng thuận tiện và dễ dàng trong việc thu thập thông tin, vừa nhanh, vừa đầy đủ. Hơn nữa, họ có thể chia sẻ kinh nghiệm cho nhau dưới hình thức diễn đàn, câu lạc bộ, hiệp hội ngành hàng, quỹ,… - Lợi ích đối với xã hội: Thúc đẩy nền CNTT phát triển, tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hóa. CNTT những năm qua đã có được mức tăng trưởng mạnh mẽ, nền kinh tế đang phát triển dần tới “Nền kinh tế số hóa” hay còn gọi là “Nền kinh tế mới” lấy tri thức và thông tin làm nền tảng phát triển. Việc ứng dụng CNTT để các cơ quan của Chính quyền từ trung ương đến địa phương đổi mới phương thức làm việc, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân. Do đặc thù của ngành nghề kinh doanh, một số ngành triển khai ứng dụng TMĐT nhanh và mạnh hơn các ngành khác, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Nhiều website sàn giao dịch, website rao vặt, siêu thị bán hàng trực tuyến ra đời ngày càng nhiều với những mặt hàng được bán phổ biến gồm: hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử, CD, VCD, nhạc...), thiệp, hoa, quà tặng, 18 hàng thủ công mỹ nghệ,... Các dịch vụ ứng dụng TMĐT nhiều như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin (thông tin tổng hợp, thông tin chuyên ngành...), giáo dục và đào tạo. - TMĐT là hình thái phát triển cao của hội nhập và toàn cầu hóa. Đến nay, Việt Nam đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của Liên Hợp Quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UN/CEFACT, hợp tác với các tổ chức và quốc gia tiên tiến về TMĐT cũng như các nước có kim ngạch thương mại lớn với Việt Nam như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản… Đây là điều kiện thuận lợi góp phần giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế nói chung và TMĐT nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Trong những năm đổi mới và phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận rõ vị trí quan trọng của TMĐT trong sự nghiệp công nghệ hóa, hiện đại hóa. Theo Chỉ thị 58/CT-TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghệ hóa, hiện đại hóa”, phát triển TMĐT là một trong các dự án ưu tiên của Chính phủ. Như vậy, TMĐT nước ta sẽ có những thuận lợi cơ bản về chính sách hỗ trợ của Nhà nước như: các chính sách hỗ trợ vốn, thuế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất các sản phẩm điện tử. Bên cạnh đó, Luật CNTT và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng tạo nên một hành lang pháp lý khá thuận lợi cho việc triển khai các khía cạnh liên quan đến hạ tầng CNTT của hoạt động ứng dụng TMĐT. - Hạ tầng viễn thông Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước phát triển khá nhanh. Về cơ bản, mạng điện thoại đã được số hóa. Mạng lưới viễn thông trong nước và quốc tế luôn được đầu tư phát triển và hiện đại hóa. Do Luật Giao dịch điện tử đã có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội nên việc đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho TMĐT cũng trở nên cấp thiết. Nhiều trường đại học trên cả nước đã thành lập bộ môn TMĐT, có trường đã thành lập khoa TMĐT, ngoài ra còn triển khai các khóa tập huấn TMĐT kéo dài trong phạm vi một tuần theo nhu cầu của doanh nghiệp. III.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được thì TMĐT Việt Nam cũng còn có những hạn chế cần khắc phục. - Việt Nam với một phần ba dân số sử dụng Internet, 60% trong số họ lên mạng để tìm hiểu thông tin về sản phẩm trước khi mua hàng, 60% doanh nghiệp đã triển khai với khách hàng doanh nghiệp, 95% trong số đó nhận đơn hàng trực tuyến… TMĐT Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để khởi sắc và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tin tưởng thấp cùng với hạ tầng thanh toán trong kinh 19 doanh online manh mún khiến cho nền TMĐT Việt Nam như một gã khổng lồ còn mải ngủ quên. - Giữa thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp nội thay vì tìm cách marketing bản thân hoặc liên kết thì lại giẫm lên nhau mà sống. Những hiện tượng như cạnh tranh không lành mạnh, phá giá thị trường, cắt xén đủ thứ, kể cả chất lượng để có lợi nhuận, ăn cắp ý tưởng ngày một nhiều. - Mặc dù được đánh giá là đất nước có tốc độ phát triển Internet vào loại bậc nhất trên thế giới nhưng độ trễ và giải pháp công nghệ so với thế giới của Việt Nam lại được tính bằng năm. Điều đó cũng thể hiện TMĐT Việt Nam mới chỉ biến đổi về lượng mà chưa thực sự có sự chuyển biến về chất. - Tuy TMĐT và Internet đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam nhưng giao dịch mua bán vẫn theo truyền thống cũ. Thanh toán trực tuyến ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ do phần lớn người dân chưa tin tưởng về bảo mật của kênh thanh toán trực tuyến, khi giao dịch trực tiếp qua ngân hàng thì người mua không được đảm bảo an toàn nếu hàng hóa không đúng như quảng cáo. Người Việt vẫn quen với việc dùng tiền mặt hơn là thanh toán bằng thẻ. Khi mua hàng qua mạng, người Việt vẫn quen thanh toán bằng tiền mặt khi giao hàng, việc này dễ dẫn đến tình trạng người dùng hủy đơn hàng dù hàng đã chuyển đến tận cửa, làm mất chi phí của người bán hàng. Ngoài ra, người dùng thanh toán bằng tiền mặt thường chi tiêu ít hơn người dùng thẻ. - Khách hàng tỏ ra không mấy tin tưởng khi mua hàng trên mạng. Họ cảm thấy không được bảo vệ quyền lợi hoặc bảo mật thông tin. Người dùng cũng có tâm lý e dè khi mua hàng online, thường để người khác dùng thử dịch vụ rồi mình mới thử; hoặc nhiều khách hàng lại có tâm lý muốn sờ tận tay sản phẩm, thấy an toàn mới mua. - Về địa lý, một hạn chế của Việt Nam hiện nay là tỷ lệ đô thị hóa còn thấp, thấp nhất trong khu vực. Điều này sẽ tạo hạn chế cho sự phát triển TMĐT, vì sức mua của người dân nông thôn yếu hơn người dân đô thị. Việc phổ biến Internet ở nông thôn cũng ít hơn, và việc giao nhận hàng ở khu vực nông thôn hạn chế hơn do cơ sở hạ tầng chưa phát triển, do đó việc tiếp cận khu vực nông thôn – khu vực rộng lớn nhất ở Việt Nam là thách thức. Việt Nam cũng có vùng địa lý hẹp và dài, phân rõ hai cực Nam – Bắc nên việc giao hàng toàn quốc sẽ khó khăn. - Các hạn chế về kỹ thuật: + Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy, lo ngại về an toàn và tính riêng tư của người dùng; + Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người dùng, chi phí truy cập Internet vẫn còn cao, nhất là trong TMĐT; 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan