TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾẾ VÀ KINH DOANH QUỐẾC TẾẾ CHUYẾN NGÀNH K
------------o0o------------
KHÓA LUẬN TỐẾT NGHIỆP
Đ ẾỀ TÀI:
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔNG CỐNG TY VIẾỄN THỐNG QUÂN ĐỘI
TRONG BỐẾI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾẾ QUỐẾC TẾẾ
Họ và tên sinh viên: Lê Mai Trang Lớp: Anh 7
Khóa: 42B – KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫẫn : PGS. TS Phạm Duy Liên
Hà Nội, tháng 11/2007
Trƣờng Đại học Ngoại
Thƣơng
nghiệp
Khóa luận tốt
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những thập niên gần đây, hội nhập và toàn cầu hóa đã diễn ra nhanh
chóng, trở thành xu thế khó có thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới. Đây là sự
vận động tất yếu khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, phân công lao động, kinh tế thị trường và cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại. Theo xu thế đó, các quốc gia đã và đang tiến hành các hoạt động mở cửa để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như để vươn mình ra thế giới. Không ai phủ nhận
lợi ích của quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế với các nước đang phát triển
như giúp các nước này thu hút được nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…
Những nhân tố này góp phần to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, cũng cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, sự hội nhập kinh tế đồng
nghĩa với việc dỡ bỏ dần các hàng rào bảo hộ, các công ty nước ngoài có điều kiện
thuận lợi để thâm nhập vào thị trường nội địa, đặc biệt là các công ty đa quốc gia.
Họ có tiềm lực mạnh về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ… Điều này sẽ tạo ra
một sự cạnh tranh gay gắt đối với các công ty trong nước trên chính thị trường nội
địa. Một môi trường cạnh tranh gay gắt vừa là động lực buộc các các công ty trong
nước phải tự mình đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời cũng là
nguyên nhân chính gây ra hiện tượng các công ty trong nước bị thu hẹp thị trường,
thua lỗ, thậm chí là phá sản. Từ đó gây nên những ảnh hưởng không nhỏ cho nền
kinh tế.
Là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng hoạt động trong lĩnh vực viễn
thông, lĩnh vực hạ tầng, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước, Tổng công ty Viễn
thông Quân đội – Viettel không nằm ngoài vòng xoáy hội nhập này. Để xây dựng
và định vị thương hiệu Viettel trên thị trường cũng như thực hiện vai trò chủ đạo
của mình trong nền kinh tế quốc gia, Viettel đã không ngừng vươn lên, mở rộng
mạng lưới viễn thông trên cả nước, phát triển cung cấp nhiều dịch vụ mới, tiên tiến,
hiện đại với mục tiêu: “Quan tâm - Chăm sóc - Sáng tạo - Đột phá”. Song các mối
quan hệ ngày càng mở rộng thì cơ hội cho các doanh nghiệp đến càng nhiều nhưng
Lê Mai Trang
A7K42B
1
Lớp
thách thức đặt ra cũng không nhỏ. Viettel luôn bị đe dọa bởi các đối thủ cạnh tranh
hiện tại và tiềm ẩn ở cả trong và ngoài nước. Do đó, vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh của Viettel là nhiệm vụ hàng đầu để giúp doanh nghiệp này đứng vững ở thị
trường trong nước cũng như vươn ra cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cũng như tính cấp bách của vấn đề, em đã quyết
định chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Viễn thông
Quân đội – Viettel trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài cho khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Vận dụng những kiến thức và lý luận được trang bị ở nhà trường để áp dụng
vào thực tiễn hiện trạng tình hình cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại nói
chung và của Tổng công ty Viễn thông Quân đội – Viettel nói riêng. Trên cơ sở đó
đưa ra những đánh giá và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty Viễn thông Quân đội – Viettel.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quá trình hoạt động kinh doanh của
Tổng công ty Viễn thông Quân đội - Viettel trong mối quan hệ tác động qua lại với
môi trường kinh doanh.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
Viễn thông Quân đội - Viettel từ năm 2000 đến nay khi nền kinh tế Việt Nam có
nhiều biến đổi rõ rệt.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cở sở phương pháp luận khi
tiến hành nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố hình thành nên
năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Viễn thông Quân đội – Viettel, bên cạnh đó
khóa luận cũng kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp… để làm rõ hơn đối tượng cần nghiên cứu, từ đó nắm
chắc được tình hình kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
5. Nội dung.
Ngoài phần lời nói đầu, phần kết luận và phần phụ lục, khoá luận tốt nghiệp
được chia làm ba chương như sau:
- Chương 1. Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Chương 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Viễn thông
Quân đội – Viettel trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng
công ty Viễn thông Quân đội – Viettel.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH.
1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh không phải là một khái niệm mới nhưng để có được một định
nghĩa thống nhất và rộng rãi về nó thì rất khó khăn. Nguyên nhân ở đây là khái
niệm “cạnh tranh” được sử dụng ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, ở nhiều cấp độ khác
nhau (cá nhân, doanh nghiệp, quốc gia) và với nhiều mục đích khác nhau (lợi
nhuận, phúc lợi xã hội…). Trên thực tế, cạnh tranh là một khái niệm thường được
sử dụng nhiều nhất trong khoa học kinh tế nhưng nó cũng không được định nghĩa
một cách cụ thể và rõ ràng. Trước đây, khi nghiên cứu về CNTB, Các Mác đã đề
cập đến vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo quan điểm của Các Mác: “Cạnh
tranh TBCN là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận
siêu ngạch”[13, trang 19]. Ở đây, Các Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong xã
hội TBCN, mà đặc trưng của chế độ xã hội này là sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu.
Cạnh tranh là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh
được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều
thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, cạnh tranh có thể được hiểu như sau: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh
doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm giành giật khách
hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi
nhuận cao”[18, trang 16]. Chủ thể kinh doanh ở đây là các cá nhân, các doanh
nghiệp, các nền kinh tế hay các quốc gia. Trong khái niệm cạnh tranh này không có
cạnh tranh của hàng hoá vì bản thân hàng hoá không phải là một chủ thể kinh doanh
và do đó nó không thể tự cạnh tranh được. Nói cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi
của chủ thể và vì vậy chỉ có hành vi của doanh nghiệp kinh doanh, của các cá nhân
kinh doanh và của một nền kinh tế, không có hành vi của hàng hoá. Như vậy thì
cạnh tranh được coi là một phương thức vận động của thị trường. Đối với người
mua họ muốn mua được hàng hóa chất lượng cao với mức giá hợp lý. Còn ngược
lại, các doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hóa lợi nhuận, họ phải hạ chi phí
sản xuất và tìm cách giành giật từng khách hàng và thị trường về phía mình và như
vậy cạnh tranh sẽ xảy ra.
* Một số điều kiện cơ bản để xuất hiện cạnh tranh trong kinh tế là:
- Phải tồn tại một thị trường nghĩa là phải có một nền kinh tế thị trường.
- Thị trường đó phải có tối thiểu hai thành viên bên cung hoặc bên cầu cung
cấp hay tiêu thụ cùng một loại sản phẩm, dịch vụ hoặc các sản phẩm, dịch vụ tương
tự nhau hoặc có tính chất thay thế cho nhau.
- Mức độ đạt mục tiêu của thành viên này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ
đạt mục tiêu của thành viên khác (chẳng hạn việc mở rộng thị phần của một doanh
nghiệp sẽ có nguy cơ làm mất thị phần của các doanh nghiệp còn lại, làm giảm
doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp còn lại).
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển của
nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của mỗi sản phẩm,
mỗi doanh nghiệp, và mỗi quốc gia. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường, cạnh tranh sẽ tạo ra cho doanh nghiệp sự linh hoạt, nỗ lực
phấn đấu đổi mới công nghệ, năng suất, nguồn nhân lực... và buộc doanh nghiệp
phải hướng vào thị trường để định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh
tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi
và khắc phục những yếu điểm để vươn lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào
có chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng lợi
nhuận và tăng thu nhập cho người lao động. Doanh nghiệp nào không có chính sách
cạnh tranh hiệu quả thì sẽ không thể phát triển sản phẩm và mở rộng mạng lưới
khách hàng, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang
tính tương đối, có thể là lớn ở thời điểm này nhưng lại yếu ở thời điểm khác. Như
vậy, doanh nghiệp phải luôn luôn nhìn nhận cạnh tranh, điều kiện cạnh tranh như là
một trong các căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển trước mắt cũng
như lâu dài. Cạnh tranh có thể đem lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người
khác, song xét dưới mức độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác dụng tích cực
như: chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ chu đáo hơn... Giống như quy luật sinh
tồn và đào thải trong tự nhiên, quy luật của cạnh tranh là thải loại những thành viên
yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ
trợ đắc lực cho quá trình phát triển của toàn xã hội.
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
Đã có rất nhiều nhà kinh tế học tiến hành nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh
hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phần lớn trong số họ đều gắn năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị
trường hoặc gắn năng lực cạnh tranh với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo
thị phần mà doanh nghiệp đó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh
doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi
nhuận, bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trước tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh
tranh được áp dụng ở phạm vi xí nghiệp: “Một xí nghiệp được xem là có khả năng
cạnh tranh khi xí nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường cùng với
các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản
phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các
đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn”[18, trang 23]. Theo
khái niệm này, năng lực cạnh tranh chỉ bó hẹp ở việc giảm chi phí sản xuất, các xí
nghiệp nếu muốn có năng lực cạnh tranh trên thị trường thì chỉ cần tìm cách tối
thiểu hóa chi phí sản xuất, nghĩa là sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tương
tự nhưng với giá thành rẻ hơn các xí nghiệp khác là đã có được năng lực cạnh tranh
cao hơn trên thị trường. Khái niệm về năng lực cạnh tranh này còn khá phiến diện
và thô sơ, nó chưa đề cập đến khía cạnh cải tiến sản phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của thị trường.
Trong điều kiện hoàn cảnh mới các nhà kinh tế học đã đưa ra những lý thuyết
về năng lực cạnh tranh mới như lý thuyết của Heckser – Ohlin. Sau đó lý thuyết này
được nhà kinh tế Samuelson bổ sung nên được gọi là mô hình Heckser - Ohlin Samuelson, lý thuyết này phân tích lợi thế cạnh tranh theo các nhân tố. Đến Paul
Krugman, Helpman,… các ông đã phân tích lợi thế cạnh tranh dựa vào quy mô, sự
khác biệt hóa. Michael Porter thì đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh dưới cái
nhìn của một nhà quản trị chiến lược. Ông cho rằng: “Để có thể cạnh tranh thành
công, các doanh nghiệp phải có lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có chi phí
thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hóa sản phẩm nhằm đạt được những mức
giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần đạt được
những lợi thế cạnh tranh ngày càng tinh vi hơn. Qua đó có thể cung cấp những hàng
hóa hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu quả hơn”[15, trang 29].
Theo khái niệm này, vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp
phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Hay nói cách khác, doanh nghiệp
phải duy trì tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở bám sát nhịp độ phát triển của thị trường,
hoặc chủ động tạo lập nên sự phát triển của thị trường. Theo Michael Porter, việc hạ
thấp giá thành (chi phí) sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh không phải là
cách thực hiện thông qua các biện pháp tiêu cực như cắt giảm tiền lương, chi phí
môi trường, chi phí bảo hộ lao động, chi phí phúc lợi… mà là việc sử dụng hiệu quả
các nguồn lực xã hội.
Như vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể, khác nhau về năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song tựu chung lại, ta có thể hiểu: “Năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp chính là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng sáng tạo
mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách
hàng (so với các đối thủ cạnh tranh) và đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế”[6, trang 25]. Năng lực cạnh
tranh xuất phát từ việc doanh nghiệp sở hữu những nguồn lực (hữu hình và vô hình)
mang tính độc đáo, khó bị sao chép và có giá trị, đồng thời doanh nghiệp có khả
năng để khai thác sử dụng hiệu quả nguồn lực đó. Doanh nghiệp có thể chỉ có
những nguồn lực thông thường nhưng lại có khả năng đặc biệt mà các đối thủ
không có để kết hợp, sử dụng các nguồn lực này theo một cách thực độc đáo nào đó
và thu được lợi nhuận cao. Mặt khác, doanh nghiệp có thể có những nguồn lực độc
đáo nhưng chỉ có khả năng thông thường thì lợi thế cạnh tranh cũng mờ nhạt và
kém bền vững. Lợi thế cạnh tranh sẽ mạnh nhất nếu doanh nghiệp vừa có các nguồn
lực độc đáo, khó sao chép và có giá trị, vừa có khả năng đặc biệt để khai thác nhằm
tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Cách tiếp cận theo nguồn lực có thể giải thích những lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp xuất phát từ việc sở hữu các nguồn lực hữu hình, dễ sao chép (như
một dây chuyền công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến) thì lợi thế chỉ tồn tại
nhất thời, vì các đối thủ cạnh tranh có thể dễ dàng tìm cách sở hữu nguồn lực giống
như của doanh nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh dựa
vào những nguồn lực vô hình (như uy tín thương hiệu, nghệ thuật quản lý…) thì lợi
thế sẽ có xu hướng lâu bền hơn, các đối thủ khó sao chép hơn. Điều này đã được
chứng minh trong thực tế nhiều doanh nghiệp khi thay đổi người lãnh đạo đã biến
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, thậm chí có nguy cơ phá sản, trở thành
doanh nghiệp năng động, hiệu quả.
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Các yếu tố môi trường vĩ mô
1.1. Yếu tố kinh tế.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn và tổng hợp đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Vì các yếu tố kinh tế thì rất phong phú và đa dạng nên sau đây
chúng ta chỉ đi sâu phân tích một số yếu tố kinh tế chính có ảnh hưởng lớn nhất đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
-
Tốc độ tăng trưở ng của nền kinh tế: Nếu tốc độ này cao sẽ làm phát
sinh thêm các nhu cầu mới do thu nhập của người lao động tăng lên và dẫn đến khả
năng thanh toán đối với các hàng hoá và dịch vụ cũng tăng lên. Đây là cơ hội lớn
để các doanh nghiệp hình thành, mở rộng sản xuất và phát triển. Nhưng đồng thời
với cơ
hội này thì cũng có những mối đe doạ mới, đó là xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh
tranh, chi phí và tiền lương sẽ tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
-
Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự
tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỉ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở
nên không lường trước được. Nếu lạm phát liên tục, các hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp trở thành công việc hoàn toàn may rủi, làm cho tương lai kinh doanh
trở nên rất khó đoán. Sự bất trắc này khiến các doanh nghiệp dè dặt khi rót tiền vào
đầu tư. Do đó, lạm phát cao luôn là nguy cơ đối với các doanh nghiệp.
-
Tỷ lệ lãi suất: Tỷ lệ lãi suất có tầm quan trọng rất lớn khi người tiêu
dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hoá như: nhà
ở, ôtô, trang thiết bị sản xuất… được bán theo phương thức trả chậm hay trả góp.
Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giảm lãi suất là một
cơ hội để mở rộng sản xuất kinh doanh và ngược lại lãi suất tăng là mối đe dọa
cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức chi phí về
vốn của doanh nghiệp (mức chi phí này luôn là nhân tố chủ yếu khi quyết định
tính khả thi của chiến lược). Nếu một doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh bằng nguồn vốn vay, quyết định vay vốn sẽ chỉ đem lại thành
công lớn cho doanh nghiệp khi tỷ lệ lãi suất thấp và ít biến động. Ngược lại sẽ là
thất bại khi các dự đoán đưa ra khả năng tăng mạnh lãi suất.
-
Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nướ c: Yếu tố này có tác
động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh
nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá, các
doanh nghiệp trong nước sẽ giảm sức cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi
đó giá bán của hàng hóa tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh
tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng
nhập khẩu giảm, và như vậy sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị
giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi giá trị đồng tiền trong nước
thấp hơn so với đồng tiền ngoại tệ thì giá cả hàng hoá trong nước sẽ rẻ hơn tương
đối so với hàng nước ngoài,
sẽ làm giảm sức ép từ các doanh nghiệp nước ngoài và tạo nhiều cơ hội để tăng sản
phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên nó cũng là mối đe dọa đối với những doanh nghiệp sử
dụng phần lớn nguyên vật liệu là ngoại nhập.
- Quan hệ giao lưu quốc tế: Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể tạo
ra cả cơ hội và nguy cơ cho việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của
một doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì mở rộng giao
lưu quốc tế mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nhưng
cũng tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh hơn ở thị trường trong nước.
Như vậy, có rất nhiều vấn đề trong yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghịêp. Có những yếu tố là
nguy cơ, có những yếu tố là cơ hội, có những yếu tố là cơ hội đối với doanh nghiệp
này nhưng lại là nguy cơ đối với doanh nghiệp khác. Ngoài những yếu tố nêu trên,
còn một số yếu tố kinh tế khác cần phải kể đến là: tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài
chính, tiền tệ, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người…
1.2. Yếu tố công nghệ
Nhóm yếu tố này có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm xuất
hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoàn thiện hơn công nghệ sản xuất hiện có, đặc
biệt là trong lĩnh vực điện tử, viễn thông, tin học, xây dựng, công nghệ sinh học và
công nghiệp nói chung. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh
nghiệp, qua đó tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những
nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh
tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh
tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa
học công nghệ cao. Chính vì vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản
xuất kinh doanh là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao sức cạnh tranh
của mình. Các doanh nghiệp thường phải dành số vốn nhất định cho nghiên cứu,
ứng dụng và phát triển công nghệ để hạn chế ảnh hưởng do sự thay đổi của môi
trường khoa học công nghệ gây ra. Đồng thời các doanh nghiệp có thể dựa vào các
nguồn vốn mua các phát minh, sáng chế, áp dụng ngay công nghệ mới để vượt lên
trước các đối thủ cạnh tranh. Khi nghiên cứu về yếu tố công nghệ ta cần phải chú ý
tới chi phí cho nghiên cứu và phát triển, sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền và chính
sách của nhà nước về công nghệ.
1.3. Yếu tố chính trị và pháp luật
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm
bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh
tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh
tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần trên mọi lĩnh vực. Chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước.
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế phải tuân theo các quy định của
Chính phủ. Những quy định này có thể là cơ hội hoặc thách thức với các doanh
nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những tiến trình ra quyết
định của địa phương hoặc đất nước nơi mà doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
kinh doanh. Có như vậy, họ mới thực sự chủ động trước sự thay đổi của môi trường
chính trị và pháp luật.
1.4. Yếu tố môi trường văn hoá, xã hội, dân số
Khi thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi hoặc khi trình độ dân trí lên cao thì
doanh nghiệp sẽ hoạt động thế nào? Những nguy cơ nào đe dọa, những cơ hội nào
có thể nắm bắt? Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên nhân cách và lối sống
của người tiêu dùng, đồng thời cũng là cơ sở để cho các nhà quản lý lựa chọn và
điều chỉnh các quyết định kinh doanh. Các yếu tố này thường tiến triển chậm nên
đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự biến động về các
yếu tố xã hội ngày càng có tác động mạnh hơn đến hoạt động của các doanh nghiệp
như: tỷ lệ sinh đẻ, sự lão hoá dân số, quy mô của gia đình… Một ví dụ cụ thể như
phong trào nâng cao sức khoẻ sẽ tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất
các sản phẩm đồ uống không có chất làm ngọt hay chiết xuất từ hoa quả. Đồng thời
nó lại cũng là mối đe dọa đối với các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá, rượu, bia vì
sản phẩm của các doanh nghiệp này có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tiêu
dùng.
1.5. Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế.
Cũng giống như các yếu tố khác, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
cũng có tác động hai mặt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xu
hướng toàn cầu hoá mở ra rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đưa đến cho
doanh nghiệp không ít nguy cơ và mối đe dọa. Toàn cầu hoá sẽ giúp mở rộng thị
trường hoạt động của doanh nghiệp, xoá bỏ các rào cản kinh tế, giúp doanh nghiệp
tiếp thu được những tiến bộ khoa học công nghệ một cách nhanh chóng nhưng đồng
thời nó cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm ẩn
cùng ngành ngày càng tăng, và sức ép của các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập
vào thị trường nội địa cũng tăng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước phải
nhận thức rõ toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ
buộc phải nâng cao sức cạnh tranh, phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội do quá trình
này tạo ra nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và hạn chế nguy cơ, thách
thức.
2. Các yếu tố môi trường kinh doanh trong ngành
Các nhân tố này tác động trực tiếp đến môi trường hoạt động của doanh
nghiệp, và vì vậy ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngành kinh
doanh là ngành hoạt động trong đó bao gồm các doanh nghiệp cùng tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ có thể thay thế lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu căn bản
nào đó của người tiêu dùng. Michael Porter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh”
(1985) và “Chiến lược cạnh tranh” (1980) (Trường Quản trị kinh doanh Harvard) đã
đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp các nhà quản lý phân tích môi trường
ngành. Lập luận của Porter là mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực tác
động có thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. Một tác động cạnh
tranh yếu có thể được coi là cơ hội khi nó cho phép doanh nghiệp chiếm được lợi
nhuận nhiều hơn. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh được thể hiện cụ thể dưới sơ đồ sau:
Hình 1.1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Sự đe doạ của những đốối thủ tiềềm ẩn
Sức ép của ngƣời cung ứng
Sức ép của khách hàng
Cạnh tranh của các đốối thủ đang hoạt động trong ngành
Sự đe doạ của các sản phẩm thay thềố
(Nguồn: Chiến lược cạnh tranh của M. Porter (năm 1996), Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội.)
2.1. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành là yếu tố quan
trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe doạ cho các doanh nghiệp. Nếu sự cạnh tranh này là
yếu, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội để nâng giá, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm thu được lợi nhuận cao hơn và nhiều hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay
gắt sẽ dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt về giá cả, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh để
chiếm lĩnh thị phần càng nhiều càng tốt. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
ngành thường chịu sự tác động tổng hợp của 3 yếu tố: cơ cấu ngành, mức độ cầu và
những trở ngại ra khỏi ngành.
-
Cơ cấu ngành là sự phân bố về số lượng và quy mô của các doanh
nghiệp trong ngành. Có thể phân làm 2 loại cơ cấu chính là ngành phân tán và
ngành tập trung (mức độ phân tán hay tập trung của các ngành là không giống
nhau). Đặc trưng của ngành phân tán là: các doanh nghiệp nhỏ bé, không có sức
mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó
mức lợi nhuận phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí, nhưng khả năng này lại bị hạn
chế do quy mô của các doanh nghiệp nhỏ, sản phẩm của các doanh nghiệp này
thường phải chịu tỷ lệ lớn hơn chi phí về Marketing hoặc chi phí nghiên cứu và
phát triển để tạo ra sự khác biệt hoá về sản phẩm. Trong khi đó, đặc trưng của
ngành tập trung là các doanh nghiệp hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có
nghĩa là hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận của các doanh nghiệp khác trong ngành. Mối đe dọa lớn với các
doanh nghiệp trong ngành tập trung là cạnh tranh bằng giá nên họ thường có xu
hướng cạnh tranh về chất lượng hoặc mẫu mã và tránh né tối đa các cuộc chiến
tranh về giá cả.
-
Mức độ cầu: Tăng cầu sẽ tạo cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm
giảm áp lực cạnh tranh vì tăng cầu là tăng sức mua của người tiêu dùng hiện tại,
làm cho doanh nghiệp có thể tăng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến thị
trường của các doanh nghiệp khác. Ngược lại, cầu giảm sẽ làm cho mức độ cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp mạnh mẽ hơn. Sự biến động của mức độ cầu phụ
thuộc vào sự phát triển của ngành.
-
Những trở ngại ra khỏi ngành: Những trở ngại này sẽ là mối đe dọa khi
cầu đang có xu hướng giảm. Nếu trở ngại này khó vượt qua sẽ buộc các doanh
nghiệp phải ở lại ngành mặc dù hoạt động kinh doanh không hứa hẹn gì tốt đẹp
và nó sẽ
làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Một số trở ngại chủ yếu là:
máy móc thiết bị khó có thể sử dụng vào ngành khác nên muốn ra khỏi ngành doanh
nghiệp buộc phải bán toàn bộ tài sản này, chi phí cố định lớn, sự gắn bó về tình cảm
đối với ngành…
2.2. Khả năng cạnh tranh của đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là những đối thủ mới tham gia vào ngành hoặc hiện không ở
trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành. Đối
thủ mới tham gia vào ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp
do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một
phần thị trường. Do vậy, những doanh nghiệp đang hoạt động tìm mọi cách để hạn
chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Doanh
nghiệp phải biết được đối thủ nào mới xuất hiện. Nó có bị cản trở xâm nhập thị
trường từ phía các đối thủ khác không? Có thể làm gì để cản trở đối thủ này? Cường
độ cạnh tranh đặc trưng bởi số lượng đối thủ cạnh tranh và tỷ trọng đối thủ ngang
sức chiếm bao nhiêu trong số đó? Các đối thủ ngang sức có những điểm nào mạnh
hơn, điểm nào yếu hơn? Đánh giá chung bằng hệ thống điểm thì doanh nghiệp đứng
vị trí thứ mấy? Làm gì để vươn lên vị trí trội hơn? Một loạt các câu hỏi trên, doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ và trả lời chi tiết nếu muốn giành được lợi thế cạnh
tranh trên thị trường.
Nghiên cứu về trở ngại đối với những đối thủ tiềm ẩn khi muốn xâm nhập
vào một ngành, nhà kinh tế học Joe Bain đã xác định 3 trở ngại chủ yếu là:
-
Sự ưa chuộng sản phẩm: Đó chính là sự ưa thích của người mua đối với
sản phẩm của các doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Sự ưa chuộng này làm giảm
bớt sự thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn do để phá vỡ được “lòng
trung thành” này là khó khăn và tốn kém.
-
Các ưu thế về chi phí thấp: Những lợi thế về chi phí thường bắt nguồn
từ phương pháp sản xuất tốt, sự quản lý hiệu quả đầu vào sản xuất, có nguồn vốn
kinh doanh ổn định với lãi suất thấp…
- Xem thêm -