Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giảng văn ở trường phổ thông trung học (lịch sử và triển vọng)...

Tài liệu Giảng văn ở trường phổ thông trung học (lịch sử và triển vọng)

.PDF
213
3
114

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH -------------------------- NGUYỄN ĐỨC ÂN GIẢNG VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC (LỊCH SỬ VÀ TRIỂN VỌNG) Chuyên ngành: Phương pháp giảng dạy Văn học Mã số: 5-07-02 LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC SƯ PHẠM – TÂM LÝ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PHÓ GIÁO SƯ TRẦN THANH ĐẠM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 1995 A. PHẦN DẪN NHẬP I. Tính cấp thiết của đề tài: 1. Giảng văn là môn học ( nói đúng hơn là một phân môn) đƣợc dạy học từ lâu ở trƣờng phổ thông. Nguồn kiến thức văn chƣơng phong phú sinh động qua các giờ học văn đã lƣu lại những kỉ niệm khó mờ phai trong tâm khảm bao thế hệ học sinh đối với bài học về con ngƣời và cuộc sống có sức kết dính và lan tỏa sâu rộng mãi. Giảng văn có sức cuốn hút mạnh bởi nó đƣa ngƣời học bƣớc vào lĩnh vực hoạt động ở đó có sự hòa quyện của rung động và suy nghĩ, của "thực" và "mơ" để cũng từ đó bƣớc vào một thế giới "có khả năng gây ra những tác động không hạn chế, gợi lên những liên tưởng bất tận"... (54.1, 19). Do đó, trong hệ thống các môn học của nhà trƣờng phổ thông, môn văn - thông qua giờ giảng văn - có vị trí và nhiệm vụ đặc biệt. Việc nghiên cứu, tìm hiểu để không ngừng bổ sung hoàn thiện khoa học giảng văn là một vấn đề đƣợc chú ý từ lâu và nó trở nên cấp thiết khi nền giáo dục đang bƣớc vào đổi mới, cải cách sâu rộng. Đặt vấn đề nghiên cứu khoa học về giảng văn tức là tìm hiểu, xem xét, xử lý các vấn đề lí luận và thực tiễn của quá trình dạy học văn trong nhà trƣờng. Quá trình này vốn có tác động liên hệ giữa nhiêu yếu tố ở những cấp độ khác nhau. Về mặt chủ quan chúng ta thƣờng đề cập tới những vấn đề thuộc đặc trƣng, tính chất, nhiệm vụ của môn học, từng xem xét các yếu tố cấu thành giảng văn. Về mặt khách quan, cũng nhƣ các môn học nói chung, giảng văn không tách khỏi sự tác động của điều kiện, môi trƣờng hoạt động giáo dục trong mối quan hệ với hoàn cảnh, tình hình chính trị - xã hội chung của đất nƣớc. Nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Chế độ nào, nhà trường ấy". 2 2. Từ nhiêu năm gần đây, khi đánh giá chất lƣợng giáo dục đào tạo của nhà trƣờng phổ thông, chúng ta đã từng đề cập tới một thực trạng đƣợc dƣ luận xã hội quan tâm đó là sự giảm sút của chất lƣợng dạy học các môn. Đặc biệt đối với môn văn, môn học vừa mang tính khoa học lại vừa là nghệ thuật, trải qua một thời gian trì trệ xơ cứng bởi những tác động của quan điểm dạy học áp đặt, chủ quan duy ý chí, chúng ta đã dạy văn theo điệu "sáo", và đã có phần máy móc khi đồng nhất văn chƣơng với tƣ tƣởng, chính trị, đạo đức, lịch sử. 2. Bƣớc vào thời kì đổi mới việc dạy học văn theo tinh thần của cải cách giáo dục (CCGD), nhờ không khí dân chủ hóa, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nhờ mở rộng cửa đón nhận, tiếp cận hệ thống kiến thức khoa học đa nghành, thói quen của lối tƣ duy cũ, duy ý chí, kiểu áp đặt và tiếp nhận thông tin một chiều đã dần dần bị loại bỏ trong dạy học. Nhƣng từ đây cũng xuất hiện một xu hƣớng của bệnh ấu trĩ tả khuynh "Đó là từ chối tất cả những gì có dính dáng đến cách dạy truyền thống". Điều này đã có ảnh hƣởng tới việc xây dựng một cơ sở vững chắc cho đổi mới dạy học văn, làm cho yêu cầu nâng cao chất lƣợng dạy học gặp mâu thuẫn : quyết tâm đổi mới thì mạnh mẽ, nhận thức lí luận về đổi mới khá đa dạng phong phú, và thực tiễn dạy học vốn là sinh động, phức tạp, trong khi đó, việc dự kiến, định hƣớng lại có phần bị động, khiên cƣỡng, nóng vội. Đến nay, sau khi hoàn thành việc thay sách cải cách ở bậc PTTH, chúng ta bƣớc đầu có cơ hội để rút ra những bài học kinh nghiệm về hiệu quả của công việc đã làm, càng hiểu sâu hơn về điều kiện để thực hiện một khối lƣợng lớn vấn đề đang đặt ra trƣớc mắt. 4. Có thể nói những bƣớc tiến triển đáng khích lệ cũng nhƣ những 3 mặt còn hạn chế, lúng túng của quá trình đổi mới dạy học văn trong thời gian qua đƣợc thể hiện chủ yếu qua quan niệm về giảng văn. Giảng văn là điểm qui chiếu của các quan điểm đổi mới toàn diện về các vấn đê thuộc nội dung và phƣơng pháp dạy học văn. Vì tác phẩm văn chƣơng là cơ sở là khâu trọng tâm để trau dồi, tích lũy kiến thức văn học, hình thành, phát triển năng lực văn cho học sinh. Vừa qua trong các bài viết trao đổi, tranh luận trên báo chí hoặc phát ngôn qua diễn đàn của các cuộc hội thảo, bồi dƣỡng cho giáo viên, vấn đề thay đổi quan điểm giảng văn đƣợc đề cập khá sôi nổi phong phú. Dù đứng ở góc độ nào các ý kiến trao đổi đều đồng tình phải từ bỏ lối giảng văn xƣa cũ. Nhƣng sau những năm bắt tay để xoay chuyển tình hình dạy văn nhƣ chúng ta mong muốn, những vấn đề về khoa học giảng văn đã đề cập vẫn chƣa làm cho đa số ngƣời dạy cảm thấy yên tâm. Những quan điểm lí luận và phƣơng pháp cách tân còn cần đƣợc thử thách để chúng ta bắt tay vào công việc đổi mới dạy văn một cách có bài bản cả về lí thuyết lẫn thực hành. II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: 1. Kể từ khi văn chƣơng đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng thì cũng đồng thời có sự lí giải, quan niệm về văn và cảm thụ văn. Đó là chuyện đã có từ xƣa. Chúng ta vẫn còn lƣu giữ khá nhiều kiến giải sâu sắc của cổ nhân bàn về văn chƣơng. Tiếp theo là các công trình nghiên cứu về dạy học Văn của các nhà nghiên cứu, nhà sƣ phạm qua các thời kỳ. Nhƣng từ chuyện bàn luận văn chƣơng tới việc dạy học văn chƣơng bao giờ cũng có một khoảng cách khá xa giữa cái thực thể sinh động và sự chính xác khoa học, giữa sự có thể và không thể giảng giải ( Khả giải bất khả giải chi gian ). 4 Môn giảng văn đƣợc định hình với tƣ cách một môn học kể từ thời kì nhà trƣờng Pháp-Việt với việc "phỏng theo lối bình giảng Âu-Tây" qua cuốn sách đầu tiên nói về giảng văn là "Quốc văn trích diễm" (Dƣơng Quảng Hàm). Nhƣng bƣớc phát triển rõ rệt của giảng văn đƣợc bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám. Giảng văn thu hút sự quan tâm của các nhà sƣ phạm, nhà nghiên cứu với sự ra đời của những công trình khởi đầu: "Giảng văn Chinh phụ ngâm" (Đặng Thai Mai) "Việt Nam thi văn giảng luận" (Hà Nhƣ Chi)... Đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trƣớc yêu cầu xây dựng nhà trƣờng mới trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, môn Văn thực sự tìm thấy vị trí, tác dụng quan trọng của nó qua một loạt các công trình nghiên cứu về giảng văn lần lƣợc xuất hiện: Mấy vấn đề giảng văn trong nhà trường (Tạ Phong Châu), Giáo trình giảng dạy văn học (Đại học sƣ phạm), Tu từ học với vấn đề giảng dạy ngữ văn (Đinh Trọng Lạc), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (nhiều tác giả), Những vấn đề nghiên cứu khoa học về giảng văn (Trần Thanh Đạm), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường, Cảm thụ văn học - Giảng dạy văn học (Phan Trọng Luận), Dạy văn dạy cái hay cái đẹp (Nguyễn Duy Bình), Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học (Đái Xuân Ninh), Suy nghĩ về giảng văn (Lê Trí Viễn). Trong quá trình chuẩn bị triển khai cải cách giáo dục ( C.C.G.D ), đặc biệt từ sau đại hội VI của Đảng với đƣờng lối đổi mới đƣợc khẳng định, mọi quan điểm tƣ duy về lí luận đều có sự nhận thức lại. Theo hƣớng đổi mới tƣ duy giáo dục, tƣ duy khoa học, chúng ta có điều kiện thuận lợi để trao đổi, thảo luận những vấn đề có quan hệ và tác động tới chất lƣợng dạy học văn. Có thể nói trong lịch sử dạy học văn ở nhà 5 trƣờng phổ thông, chƣa hề có một cuộc thảo luận nào diễn tiến với qui mô lớn và hào hứng nhƣ vậy : từ số lƣợng đôi tƣợng tham gia thảo luận cho tới nội dung đề tài thảo luận. Hầu nhƣ các khía cạnh quan trọng của công việc dạy văn đều đƣợc đƣa ra trao đổi tranh luận. Chúng ta đặt vấn đề nhìn lại bản chất môn học (văn là gì ?) về mục đích dạy học (dạy văn là dạy cái gì và để đạt tới mục đích nào ?), về phƣơng pháp dạy văn (xem xét các yếu tố trong quá trình dạy học tác phẩm văn chƣơng). Trong tinh thần thẳng thắn, cởi mở, các ý kiến trao đổi đã cố gắng đào sâu suy nghĩ để tìm ra "con đường đổi mới việc dạy học văn". Nhờ đó,trong một thời gian tƣơng đối ngắn, môn giảng văn đã thu nhận đƣợc nhiêu sự lí giải, nhận thức mới. Đó là điều kiện thuận lợi để đƣa việc dạy học giảng văn chuyển sang bƣớc phát triển mới. 2. Cho tới nay, chƣa có một công trình, một chuyên luận nghiên cứu sâu về lịch sử phát triển của môn giảng văn ở trƣờng phổ thông Việt Nam. Trong một số công trình nghiên cứu về dạy học văn, các tác giả có nói đến nguồn gốc, đặc trƣng tính chất cùng kĩ thuật giảng văn ở một số thời điểm. Nhƣng nhìn chung vẫn còn thiếu một tài liệu lí giải trình bày vấn đề giảng văn theo lịch sử quan niệm nhƣ một số công trình của nƣớc ngoài đã làm. Điều này đã dẫn đến một hệ quả là khi trao đổi tranh luận về dạy học giảng văn chúng ta không tránh khỏi những mâu thuẫn, nhầm lẫn do thiếu cơ sở khái quát đánh giá. Đặc biệt, hƣớng tiếp cận theo lịch sử quan niệm nhƣ vậy rất cần có vị trí xứng đáng trong các giáo trình về phƣơng pháp dạy văn sử dụng trong các trƣờng sƣ phạm. Bởi vì, có tìm hiểu, đánh giá đầy đủ, chính xác thành tựu của giảng văn qua từng thời kỳ, chúng ta mới tìm ra bài học bổ ích thiết thực giúp cho sự kế thừa và phát huy những mặt mạnh vốn 6 có của một môn học cũng nhƣ biết tiếp tục công việc với những suy nghĩ mới mẻ để có thể cách tân việc dạy học đúng nhƣ mong muốn. III. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu 1. Xuất phát từ nhận thức về vai trò tác dụng của giảng văn trong khóa trình dạy và học văn nói chung, từ những yêu cầu đổi mới việc dạy học giảng văn hiện nay cũng nhƣ những ý kiến trao đổi, thảo luận, qua việc triển khai CCGD ở trƣờng PTTH, chúng tôi đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nhằm làm sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về quan điểm dạy học giảng văn. Trong luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu môn giảng văn qua quá trình hình thành, phát triển của nó. Từ đó đi đến một cách nhìn tổng quát về giảng văn. Có thể xem đây là cách tiếp cận lịch sử quan niệm. Do đó, nội dung nghiên cứu có phần thiên về đúc rút, tổng kết quan niệm môn học, việc tìm hiểu phƣơng pháp dạy học giảng văn chỉ có tính kết hợp. 2. Nhằm tìm hiểu nghiên cứu quá trình hình thành phát triển của quan điểm giảng văn trong nhà trƣờng phổ thông ở Việt Nam cũng nhƣ đề xuất hƣớng tiếp cận mà chúng tôi thấy phù hợp với yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa dạy học văn, luận án sẽ đề cập tới phạm vi nghiên cứu sau đây : 2.1 - Theo hƣớng nghiên cứu lịch sử quan niệm chúng tôi căn cứ vào các thời kỳ phát triển của trƣờng PTTH Việt Nam, bắt đầu từ khi nhà trƣờng Pháp - Việt ra đời cho tới Cách mạng tháng Tám thắng lợi tạo ra nhà trƣờng mới - nhà trƣờng mang tính dân chủ và xã hội chủ nghĩa - tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa hiện nay, chúng tôi tìm ra bƣớc tiến triển của khoa học giảng văn ở trƣờng PTTH. Qua đó nhận ra những thành tựu, những hạn chế cùng những điểm có thể kế thừa và 7 cần phải cách tân để hoàn thiện việc dạy học giảng văn ở trƣờng PTTH. 2.2- Dựa vào những thành tựu đã đạt đƣợc về mặt nhận thức lí luận chủ yếu là các công trình chuyên luận tƣơng đối tiêu biểu cũng nhƣ qua thực tiễn dạy học giảng văn, chúng tôi cố gắng lí giải cơ sở khoa học - thực tiễn của giảng văn mà các nhà sƣ phạm, nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam đã góp công xây dựng qua nửa thế kỷ. Đi đến thống nhất quan điểm về giảng văn là một quá trình xây dựng công phu cả về mặt học thuật lẫn nghệ thuật sƣ phạm. Kinh nghiệm của thực tiễn dạy học văn thời gian qua đã chứng minh điều đó. Trên đà tiến mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, trƣớc yêu cầu phát triển của khoa học giảng văn trong giai đoạn đổi mới hiện nay, chúng ta cần tìm ra lời đáp cho những câu hỏi bức xúc đối với tình hình dạy học văn ở trƣờng học nƣớc ta. 2.3- Các thế hệ nhà giáo, nhà nghiên cứu sƣ phạm đã kế tục nhau khai phá con đƣờng nghiên cứu khoa học giảng văn, những thành tựu đạt đƣợc cũng hạn chế nhƣ đã nói trên không thoát khỏi ảnh hƣởng của điều kiện kinh tế - xã hội. Nhƣng có thể nói, hiện nay điều kiện thuận lợi khá nhiêu. Chúng ta cần nắm lấy cơ hội đó để góp sức làm cho việc dạy học văn phát huy đƣợc tác dụng và hiệu quả xứng đáng. Do vậy, từ những suy nghĩ, những kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy đƣợc qua quá trình giảng dạy văn ở trƣờng phổ thông và sƣ phạm, chúng tôi cố gắng đê xuất một số suy nghĩ góp phần vào việc cải tiến cách dạy học giảng văn ở trƣờng PTTH hiện nay. IV. Những đóng góp của luận án: Với suy nghĩ và cách làm qua nội dung vừa đề cập ở phần trên, 8 luận án sẽ có ý nghĩa về các mặt sau : 4.1- Về lí luận : Có thể xem luận án là một công trình tổng kết hệ thống các quan điểm về dạy học giảng văn đƣợc vận dụng từ lâu nay. Từ đó có sự tiếp thu, kế thừa và chọn lọc để tìm ra cách tiếp cận hợp lí, đúng đắn cho việc dạy học giảng văn. Trong quá trình nghiên cứu nói đó, chúng tôi cũng có tìm hiểu cách dạy học văn qua công trình của một số tác giả nƣớc ngoài để bổ sung cho lí luận dạy học giảng văn ở nƣớc ta, vừa có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại vừa nâng cao sức lôi cuốn, hấp dẫn của môn học có vi trí và tác dụng đặc biệt trong nhà trƣờng. 4.2- Về thực tiễn : Từ sự lí giải các quan điểm về nội dung và phƣơng pháp dạy học giảng văn, luận văn giúp cho những ngƣời có quan tâm tới việc dạy học văn, các giáo viên văn ở trƣờng PTTH có thêm tƣ liệu làm cơ sở bổ sung những hiểu biết cần thiết về khoa học giảng văn. Đây cũng là một công trình góp phần giúp đỡ cho việc giảng dạy bộ môn phƣơng pháp dạy văn ở trƣờng sƣ phạm bổ khuyết những điểm còn hạn chế, đặc biệt giúp cho sinh viên khoa ngữ văn có điều kiện nắm bắt sự phát triển của khoa học giảng văn để có sự chú tâm thấu đáo hơn vào công việc vốn thử thách nhiều về trình độ kiến thức và năng lực sƣ phạm của ngƣời giáo viên. V. Phƣơng pháp nghiên cứu Dựa vào cơ sở của phƣơng pháp triết học là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu sau đây : 1)- Phƣơng pháp khảo cứu, phân tích tài liệu : Để miêu tả, tái hiện một cách khách quan lịch sử hình thành và phát triển của khoa 9 học giảng văn, chúng tôi nghiên cứu các sách báo, tài liệu đã xuất bản. Trong đó, có một số tài liệu, công trình đƣợc phổ biến hẹp nhƣ các báo cáo chuyên đề, tài liệu bồi dƣỡng, các văn bản của cơ quan chỉ đạo... 2)- Phƣơng pháp hệ thống. 3)- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu. *** 10 B. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA GIẢNG VĂN Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC VIỆT NAM. I. Các chặng đƣờng phát triển của giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học: 1. Sự phân chia thời kì: Truyền thống dạy học văn ở nhà trƣờng nƣớc ta có từ lâu đời, gắn với truyền thống lịch sử văn hóa nghệ thuật của dân tộc trong quá trình xây dựng nền độc lập tự chủ. Lịch sử dạy học văn cũng chuyển biến theo quá trình xây dựng phát triển của nhà trƣờng qua các thời kì: - Nhà trƣờng dƣới chế độ phong kiến. - Nhà trƣờng Pháp - Việt (thời thực dân Pháp đô hộ ). - Nhà trƣờng mới từ sau cách mạng tháng Tám . Chúng tôi sẽ lần lƣợt tìm hiểu bƣớc phát triển của giảng văn qua từng thời kỳ nói đó, sẽ nghiên cứu sâu 02 thời kì sau, còn thời nhà trƣờng phong kiến chỉ điểm lại với ý nghĩa hệ thống. 2. Tìm hiểu các thời kì phát triển của giảng văn ở trường trung học Việt Nam 2.1 - Thời kỳ nhà trƣờng phong kiến : Kể từ khi giành đƣợc độc lập sau hơn 1.000 năm chịu ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chế độ phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển. Nhà nƣớc phong kiến đã xây dựng trƣờng học với mục đích đào tạo tầng lớp quan lại phục vụ cho chế độ. Văn chƣơng có tác dụng góp phần quan trọng đào tạo các bậc tú tài cử nhân và trên nữa là Phó bảng, Tiến sĩ. Đó là thƣớc đo năng lực trình độ của ngƣời học theo quan niệm danh vọng của một thời "Lều chiếu là thang danh vọng... Thềm trường ấy là cửa cân đai..." (50.2,7). Qua các triều Ngô, Đinh và tiền Lê là những triều đại ngắn ngủi lại luôn đƣơng đầu với 11 ngoại xâm nên nền móng giáo dục còn thiếu vững chắc. Đến khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, nhà nƣớc phong kiến tập quyền có sự ổn định, phát triển, các vua nhà Lý có điều kiện tổ chức việc giáo dục. Năm 1070 vua Lý Thánh Tông cho xây dựng văn miếu làm nơi thờ Khổng Tử, đánh dấu việc gắn nền học thuật theo tƣ tƣởng Nho giáo. Năm 1076, trƣờng học đầu tiên ở Kinh đô dƣợc mở đó là Quốc Tử Giám. Tiếp đó, vua Lý Nhân Tông mở khóa thi chọn ngƣời có tài văn chƣơng vào Hàn Lâm Viện. Sang đời Trần việc học đƣợc mở rộng. Trƣờng Quốc Tử Giám lúc đầu chỉ dành cho con em tầng lớp quan lại sau đã thu nhận những thanh niên có tài đức trong dân chúng đƣợc vào nghe giảng. Năm 1253 vua Trần Thái Tông lập Quốc Học Viện để những ngƣời có học thức cao đến giảng các tác phẩm lớn của Nho giáo. Đến cuối thế kỉ XIV Hồ Quí Ly có công cải cách một bƣớc việc học bằng mở thêm trƣờng ở các địa phƣơng (lộ, phủ, châu) cử những học quan đến đó dạy dỗ. Vào cuối thời hậu Lê giáo dục đƣợc đẩy mạnh, vua Lê Thái Tổ mở rộng trƣờng Quốc Tử Giám cho con em tầng lớp quan lại cùng ngƣời có tài trong dân chúng vào học, đồng thời mở thêm trƣờng học ở các địa phƣơng gọi là lộ học. Đây là thời điểm nền giáo dục phong kiến ở nƣớc ta phát triển ở mức cao. Năm Hồng Đức thứ 14 (1483) nền đại học đầu tiên ở nƣớc ta đƣợc tổ chức với qui mô khá lớn. Đó là Thái Học Viện đặt sau văn miếu, trong đó có Minh luận đƣờng và hai dãy giảng đƣờng ở phía đông và phía tây dành cho các xá Sinh đến nghe giảng. Vào thời Quang Trung, tuy trị vì ngắn ngủi nhƣng nhà vua có chính sách giáo dục tiến bộ: trƣờng học đã mở tới thôn xã. Quang Trung có chủ trƣơng xây dựng một nên học thuật hoàn toàn dân tộc, ngƣời giao cho Nguyễn Thiếp (La Sơn phu tử) dịch sách 12 chữ Hán ra chữ Nôm, thay việc học chữ Hán thành chữ Nôm. Nhƣng khi triều Nguyễn giành lại ngôi báu, các vua Nguyễn lại củng cố địa vị thống trị của Nho giáo, ấn định việc học việc thi chỉ dùng chữ Hán. Trong thời Nguyễn, ngoài trƣờng Quốc tử giám tại kinh đô Huế và một số trƣờng của Đốc học, Huấn đạo và Giáo thụ ở mấy tỉnh lớn, các trƣờng trong nƣớc phần lớn là trƣờng tƣ do các thầy đồ, thầy khóa, ông cử, ông tú hoặc các ông nghè, ông bảng mở ra để dạy con em trong vùng. Trƣờng phân ra 3 cấp học : Tiểu tập, Trung tập và Đại tập. Nhà trƣờng của chế độ phong kiến có đóng góp vào việc xây dựng nên móng đầu tiên của giáo dục dân tộc. Tuy vậy, về bản chất, nó gắn chặt với quyền lợi của tầng lớp thống trị và là công cụ để giai cấp phong kiến truyền bá, áp đặt ý thức hệ tƣ tƣởng phong kiến dựa vào Nho giáo - học thuyết chính thống của Khổng Mạnh - lấy ý thức hệ của chế độ Tông pháp với đại gia đình làm nên tảng, lấy khái niệm Trung, Hiếu làm tôn chỉ. Vì thế, dễ hiểu văn chƣơng là môn học góp phần đắc lực nhất để ngƣời học phải khuôn theo quan điểm Nho giáo là mẫu mực cho việc dựng nƣớc, trị dân. Văn chƣơng là điểm qui chiếu của triết học, lịch sử, đạo đức là một thứ giáo khoa tổng hợp theo quan điểm "văn sử bất phân", "văn triết bất phân", "văn dĩ tải đạo", từ Tam tự kinh, Sơ học vân tân, Ấu học ngũ ngôn thi cho đến bộ Tứ thƣ, Ngũ kinh đều đƣợc quán triệt ý thức Nho giáo, lấy đạo thánh hiền làm "chân lí tuyệt đối, được truyền thụ từ đời Tam hoàng, Ngũ đế cho tới ngày nay, áp dụng khắp bốn biển Không sai, thi thố qua muôn đời cũng vẫn đúng". Nội dung dạy học giáo điêu nói đó đã dẫn tới phƣơng pháp dạy học nhồi sọ, áp dặt. Vì "nguyên tắc ngự trị cách dạy đạo lí văn chương là nguyên tắc quyền uy. Uy tín của thánh hiền, của các nhà nho 13 ngày xưa, được tôn trọng như là chân lí tuyệt đối. Khi "đức thánh hiền" đã dạy rằng khi "tiên nho" đã giảng rằng, thôi thì cậu học trò chớ có suy nghĩ, bàn bạc, phê phán gì nữa..." (50.2,9). Cái lối dạy dựa trên quyền uy của cổ nhân, của ngƣời trên nhƣ vậy đã quyết định phƣơng pháp học: nghe thầy giảng - học thuộc lòng - nhớ suốt đời, một lối học vẹt không hơn không kém. Kết quả là ngƣời học bị tuớc bỏ khả năng suy nghĩ độc lập về mặt tƣ tƣởng, thiếu tính sáng tạo về mặt học thuật. Tuy vậy, đánh giá một cách khách quan, chúng ta cũng thấy rằng nền giáo dục phong kiến - trong điều kiện lịch sử cụ thể của nó - cũng có đóng góp tích cực cho nên quốc học của dân tộc qua chín thê kỉ tồn tại. Cho dù có rập khuôn theo học chế của các vƣơng triều Trung Hoa, nên giáo dục phong kiến Việt Nam vẫn lƣu lại những điểm son về một số thành tựu của nó. Đó là sự vun đắp cho tinh thần cần cù, hiếu học, thái độ tôn sƣ trọng đạo và tình cảm yêu mến văn chƣơng, ý thức bảo tồn truyền thống văn hiến dân tộc. Chúng ta thƣờng biết tên tuổi các văn nhân lỗi lạc để lại cho mai hậu những trƣớc tác trứ danh. Đó là Trƣơng Hán Siêu với những bài phú, bài kí nổi tiếng, Trần Thái Tông với "Khóa hư lục", Nguyên Trãi với "Ức trai thi tập" - "Quân trung tư-mệnh tập" đặc biệt với áng thiên cổ hùng văn "Bình Ngô đại cáo", Lê Văn Hƣu với bộ "Đại Việt sử kí", Phan Phu Tiên với "Đại Việt sử kí tục biên", Ngô Sĩ Liên với "Đại Việt sử kí toàn thứ", Lê Quí Đôn với những bộ sách khảo cứu uyên bác, nhất là bộ "Vân đài loại ngữ" và "Phủ biên tạp lục", Phan Huy Chú với "Lịch triều hiến chương". Đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo văn chƣơng nghệ thuật, một loạt tác phẩm viết bằng văn nôm xuất hiện xứng đáng đỉnh cao của nghệ thuật cổ điển Việt nam. Đó là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Hoa Tiên của 14 Nguyễn Huy Tự, thơ của bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hƣơng và áng văn kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Những thành tựu ƣu việt đó là kết tinh của trí tuệ và tâm hồn của ngƣời xƣa đã vƣợt lên những rào cản của lối học tầm chƣơng trích cú, thoát ra khỏi sự gò ép theo khuôn mẫu cứng nhắc của văn học cổ Trung Hoa để giữ gìn, phát huy bản sắc văn học dân tộc bằng cách bộc lộ tình cảm yêu nƣớc, thƣơng dân sâu sắc và tìm ra phƣơng thức sáng tạo trong biểu đạt nghệ thuật cũng nhƣ vận dụng nhuần nhị điển cố văn chƣơng Trung Hoa một cách thích hợp, sinh động sát với thực tế Việt nam. Điểm lại cách dạy học văn của nhà trƣờng xƣa, chúng ta thấy có các hình thức nhƣ sau: a) Lối giảng sách: Theo định kì, thấy giảng giải các kinh truyện rồi ngƣời học phải thuộc làu, phải ghi nhớ, phải nắm từng chi tiết, từng câu từng chữ của trong kinh sách kể cả lời giáo huấn của các thầy đƣợc xem là những môn đệ chính thống của Khổng Mạnh. b) Lối làm văn: Đây là một công việc đòi hỏi ngƣời học phải thể hiện sự chịu khó dùi mài rèn luyện trí nhớ để thuộc lầu luật làm văn, làm thơ, làm phú, làm tứ lục theo thể thức văn chƣơng Trung Quốc. Muốn vậy, từ năm này sang năm khác học sinh phải học đặt câu, điền chữ, làm câu đối rồi dần dần tập viết một bài luận, một bài văn sách, một bài thơ cổ phong, Đƣờng luật hay một bài phú. Đây là phần luyện tập bắt buộc có tính chất rập khuôn nó đã bóp chết sự độc lập sáng tạo về tƣ duy của ngƣời học. c) Lối bình văn, bình thơ: Là một cách biểu hiện sự cảm thụ văn chƣơng có truyền thống lâu đời ở nƣớc ta. Trên thực tế, thời ông cha ta còn học chữ Hán, bình văn, bình thơ trƣớc hết là đọc bài văn bài thơ 15 lên với giọng ngân nga, trầm bổng, có âm điệu êm ái. Dần dần nó trở thành một biện pháp trợ thủ đắc lực cho việc giảng giải và thƣởng thức văn chƣơng. Nhờ lối bình này, nhƣ chúng ta đã thấy, các nhà giáo, các học giả đời trƣớc đã đem đến cho ngƣời học, ngƣời đọc những nhận xét, phát hiện sâu sắc về giá trị của những áng thơ văn nổi tiếng qua các thời. Hình thức này thể hiện nét đặc thù của cảm thụ và truyền thụ văn chƣơng tinh tế mang dấu ấn sâu sắc của lối dạy văn truyền thống ở nhà trƣờng ta, nó đƣợc các nhà giáo, các nhà phê bình văn học vận dụng và phát huy. 2.2- Thời kỳ nhà trƣờng Pháp - Việt : Sau khi xâm lƣợc và đặt ách đô hộ nƣớc ta, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện âm mƣu cai trị thuộc địa lâu dài. Theo kế hoạch đó, nên giáo dục phong kiến bị bãi bỏ đầu tiên ở Nam bộ, tiếp đến là Bắc bộ và Trung bộ. Nhà nƣớc thực dân qui định lại việc học, bậc học theo hệ thống : a) Bậc ấu học dạy ở các trƣờng tổng sƣ, tốt nghiệp với bằng tuyển sinh. b) Bậc tiểu học dạy ở các trƣờng phủ huyện (do các huấn đạo, giáo thụ phụ trách) tốt nghiệp với bằng khóa sinh. c) Bậc trung học dạy ở các trƣờng tỉnh (do đốc học phụ trách) để luyện học sinh đi thi hƣơng. Nhà trƣờng Pháp - Việt bắt đầu hình thành. Mục đích của chúng là đào tạo một lớp ngƣời phục vụ cho chế độ thực dân, biến ngƣời dân bản xứ thành ngƣời tôi trung thành của "mẫu quốc". Thực dân Pháp tự gắn cho mình sứ mệnh "khai hóa" thuộc địa, đem nền văn minh mới để mở mang dân trí ở xứ ta. Đó là một chiêu bài lừa mị đã bị sự thật lịch sử vạch trần. Tuy nhiên, nhà trƣờng Pháp - Việt, một kiểu nhà trƣờng 16 "nhập nội", ngoài mục đích phục vụ cho chính sách thuộc địa nó cũng góp phần tạo nên bộ mặt của nhà trƣờng mới ở nƣớc ta vào thế kỉ này. Tổ chức và cách thức điêu hành nó có thay đổi căn bản, mang tính hiện đại hơn: học chế đƣợc phân nhiêu cấp từ tiểu học lên đến cao đẳng, ở mồi cấp đêu đặt yêu cầu rõ ràng về trình độ theo chƣơng trình cụ thể, hợp lí. Tri thức cung cấp cho học sinh bao gồm nhiêu bộ môn khoa học kể từ cấp tiểu học, trung học, học sinh đƣợc làm quen với những kiến thức cơ bản về toán, lí, hóa, sinh, văn, sử, địa, luân lí... Chính vì thế, nó đã có sức lôi cuốn một lớp thanh thiếu niên hăm hở bƣớc vào học đƣờng với những ngỡ ngàng mới lạ qua những buổi tựu trƣờng, những ngày nghỉ, những cuốn giáo khoa thƣ thơm mùi mực in, các bài kiểm tra, các kì thi chuyển cấp.... Rồi theo đà tiến của nhà trƣờng, một lớp giáo chức, lớp học sinh mới ngày mỗi đông. Họ nói tiếng Pháp sành sỏi, thuộc làu lịch sử Pháp, văn hóa Pháp, bởi vì trong nhà trƣờng thời đó, tiếng Việt đƣợc xếp vào vị trí thứ yếu, mỗi tuần học 2 giờ (xem nhƣ học một ngoại ngữ). Môn văn chƣơng có trong chƣơng trình dĩ nhiên phải chú ý tới văn chƣơng Pháp. Dẫu sao, so với cách học trong các trƣờng học chứ Hán trƣớc đây, môn văn trở thành một môn học có tính khoa học và nghệ thuật rõ rệt sâu sắc hơn, phƣơng pháp dạy học cũng có sự thay đổi hợp lý. Ngƣời ta chú ý đến sự phối hợp giữa các giờ học: ngữ pháp, giảng văn, làm văn để các phân môn này có sự hỗ trợ nhau trong một mục đích chung . Đặc biệt chúng ta cần chú ý tới sức lôi cuốn mạnh mẽ bởi nguồn cảm xúc, hứng thú đƣợc bồi đắp, nuôi dƣỡng qua giờ giảng văn. Việc dạy học văn của trƣờng Pháp - Việt đã nhằm vào các nội dung với mức độ và yêu cầu sau đây: 17 a) Ở cấp tiểu học và cao đẳng tiểu học: dạy học văn nhằm vào yêu cầu phát âm cho đúng, biểu hiện tƣ tƣởng tình cảm khi đọc to bài văn và đọc bài thuộc lòng, chứng minh sự hiểu biết về ngữ pháp, ngữ nghĩa về đại ý, bố cục bài văn, về giá trị văn chƣơng bài trích giảng và về ý nghĩa cảm tƣởng, nhận xét của học sinh đối với một số vấn đề đƣợc nêu lên qua việc bình giảng. Lên bậc cao đẳng tiểu học, sách tập đọc và giảng văn dùng những công trình biên soạn dựa theo giáo khoa của trƣờng cao đẳng tiểu học ở bên Pháp. Nội dung của các văn tuyển này trích dẫn tác phẩm của các nhà văn cổ điển Pháp. Kết cấu của một bài trích giảng thƣờng đƣợc mào đầu bằng phần tiểu dẫn, tóm tắt tiểu sử tác giả, nội dung tác phẩm đƣợc trích, đôi lúc còn xen vào những tóm tắt về thời đại, tƣ trào nghệ thuật mà tác phẩm ra đời. Hỗ trợ cho giảng văn, học sinh đƣợc hƣớng dẫn tham khảo các sách văn học sử. Nói chung trong hai năm đầu cấp cao đẳng tiểu học, học sinh học và đọc thuộc lòng những đoạn văn vần, văn xuôi có giá trị văn chƣơng, chú ý tới hình tƣợng văn chƣơng, âm hƣởng, tiết tấu hoặc có nội dung đặc sắc có thể bồi dƣỡng nâng cao óc quan sát và khả năng suy nghĩ phê phán của học sinh. Việc nắm hiểu từ ngữ cùng qui tắc ngữ pháp cũng là một yêu cầu quan trọng thông qua giảng văn. Từ đó giúp học sinh vào hai năm cuối bậc cao đẳng tiểu học, có thể học những bài văn khó hơn: những bài văn thời Trung cổ, thời văn hóa phục hƣng, những bài văn nghị luận, những bài văn trữ tình, anh hùng ca có giá trị trong lịch sử văn học. Học sinh cũng bƣớc đầu làm quen với các khuynh hƣớng, trƣờng phái văn học qua các thời kỳ. b) Ở cấp trung học (tú tài bản xứ) : nội dung văn học đã phong phú, vẫn dựa trên cơ sở của tập đọc, trả lời câu hỏi đọc thuộc lòng, giảng 18 văn đƣợc mở rộng qui mô và phạm vi của nó với những điểm nổi bật nhƣ sau : + Nội dung chƣơng trình sắp xếp có hệ thống dựa theo tiến trình lịch sử văn học. + Tác phẩm đƣợc sắp xếp theo loại thể: văn học dân gian anh hùng ca, văn chƣơng nghệ thuật, văn nghị luận tƣ tƣởng, văn hùng biện, kịch (bi kịch, hài kịch, kịch dram) hồi kí lịch sử, lí luận văn học. + Có những phần cấu kết theo hƣớng đồng tâm, tác phẩm đƣợc học từ cấp dƣới vẫn tiếp tục giảng và học thuộc ở bậc trung học, dĩ nhiên với yêu cầu phân tích cao hơn, sâu hơn. + Giảng văn đƣợc hỗ trợ của một số môn nhƣ : triết học, logic học, phƣơng pháp luận, lịch sử văn minh thế giới, nhất là lịch sử phát triển xã hội và văn hóa Pháp. Tóm lại, có thể nói lối dạy văn trong nhà trƣờng Pháp - Việt đã đặt cơ sở cho bƣớc tiến của công việc dạy học văn để dần dần đƣa nhà trƣờng hội nhập với xu hƣớng phát triển của thời đại - dù trong khuôn khổ của quan điểm giáo dục tƣ sản - Cũng cần thấy rằng nhờ mở mang hiểu biết, nhờ sự tích lũy nguồn cảm xúc dồi dào từ nguồn văn chƣơng Pháp. "Từ cái hay của một câu thơ của Raxin ( Racine ), cái hào hùng của một đoạn Huygô ( Hugo ) đến cái âm điệu não nùng của một trang Véclen ( Verlaine ) cái tương giao ( correspondances ) tinh vi, bất ngờ trong Bôđơle ( Baudelaire ).." (81.2,48) mà bao lớp thanh niên của thời "trường tây" nhƣ gặp "chỗ trũng, nước nào cũng tuôn" đã dâng trào khát vọng đến với văn chƣơng. Và vốn liếng đó theo họ thành hành trang để bƣớc vào cuộc đời dù họ làm gì, là nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, bác sĩ hoặc những viên chức. Lớp ngƣời đó, vẫn nhƣ lời bộc bạch của Lê 19 Trí Viễn "... trong cái rủi lại có cái may. Nắm được tiếng Pháp là nắm được một sinh ngữ khá phổ biến trên thế giới, một chìa khóa quan trọng mở cửa cho mình nhiều tri thức nhân loại" (81.2,49). Vậy là văn chƣơng có cơ hội để tỏa ý nghĩa và tác dụng của nó. Ý nghĩa, tác dụng đó đƣợc nhân thêm nhiêu lần nhờ vai trò của giảng văn - một môn học bắt đầu đƣợc định hình dĩ nhiên cũng nhập từ nhà trƣờng Pháp. Vào thời bấy giờ, ngƣời ta có thể dễ dàng làm quen khái niệm giảng văn trong các sách nói về dạy văn của ngƣời Pháp viết. Nhƣng công trình biên soạn lần đầu bằng tiếng Việt đê cập tới công việc của giảng văn là cuốn Quốc văn trích diễm của Dƣơng Quảng Hàm (1928). Đây là cuốn giáo khoa quốc văn đƣợc biên soạn dùng cho các trƣờng sƣ phạm và cao đẳng tiểu học. Vì vậy, nội dung cuốn sách gồm một số kiến thức tổng quát về văn học sử, về loại thể văn học và phần chủ yếu là tuyển các bài văn đƣợc giảng dạy theo chƣơng trình. Xét ở góc độ phƣơng pháp dạy văn, chúng ta thấy lối tiếp cận của tác giả "là phỏng theo lối bình giảng Âu - Tây để giúp các giáo sư và học sinh châm chước đó mà biến hóa đặt để thêm ra" (23.1,IX). Tác giả đã căn cứ từ tiếng Pháp thuật ngữ Explication de Textes để dẫn giải rõ về "Khoa giảng nghĩa bài và học quốc văn - chọn các bài tản văn hoặc vận văn trích ở các thơ truyện và các sách vở cũ hay lấy ở trong nền văn kim đương thành lập, các bài cắt nghĩa cứ do thiển nhập thâm : trước hết lựa những bài thông thường rồi đến những bài văn - pháp càng cao dần lên. Phát biểu đại ý và cách bố cục của bài văn, nói rõ các ý tứ liên lạc thế nào, cắt nghĩa kỹ về sự chọn tiếng về những chỗ lời văn bóng bẩy, về nghĩa các chữ nho để cho các học trò được thêm các danh từ về văn chương và khoa học thông thường, cùng am hiểu các phép tắc chính về 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất