DINH DƯỠNG VÀ ĐIỀU TRỊ
Tác giả: Nguyễn Ý Đức
Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả.
Nghiêm cấm mọi sự sao chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép
bằng văn bản của chúng tôi.
GPXB số 2-545/XB-QLXB
KHXB số 161/XBYH
In ấn và phát hành tại Nhà sách Quang Minh
416 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3, TP HCM Việt Nam
Published by arrangement between Huong Trang Cultural Company
Ltd. and the author.
All rights reserved. No part of this book may be reproduced by any
means without prior written permission from the publisher.
BS. NGUYỄN Ý ĐỨC
Dinh dưỡng
và
điều trị
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
Vài Lời Giới Thiệu
Những năm gần đây, y học phát triển cùng lúc theo hai
chiều hướng có vẻ như trái ngược nhau. Một mặt, chúng ta
liên tục chứng kiến những thành tựu vượt bực trong lãnh vực
nghiên cứu về các mặt sinh lý, bệnh lý, phòng ngừa và trị liệu,
giúp kiểm soát bệnh tật một cách hiệu quả hơn và hạn chế
đến mức tối thiểu các trường hợp tử vong. Mặt khác, những
nghiên cứu khoa học cũng ngày càng nhận rõ hơn tính ưu việt
của nền y học cổ truyền dân tộc thuận theo tự nhiên, vốn có
tự ngàn xưa, và do đó mà đại đa số quần chúng đang có chiều
hướng quay về nguồn cội, ưa chuộng một nền y học giản dị và
“nhẹ nhàng”, gần với tự nhiên hơn. Các phương thức trị bệnh
cổ truyền, sử dụng cây cỏ và các phương pháp thuận theo tự
nhiên đang được quý chuộng hơn so với các phương thức điều
trị hiện đại.
Điều lý thú là chúng ta có thể thấy được một sự dung hòa
và vận dụng hợp lý cả hai khuynh hướng nói trên trong khoa
Dinh dưỡng hiện đại, và điển hình cụ thể là bộ sách DINH
DƯỠNG VÀ AN ToàN THỰC PHẨM của Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức mà quý độc giả đang có trong tay.
Bộ sách này gồm ba quyển, có nội dung liên quan nhau,
nhưng cũng có thể sử dụng riêng rẽ như những nguồn kiến
thức chuyên biệt. Đó là:
1. Dinh dưỡng và thực phẩm: Trình bày cặn kẽ những
yếu tố dinh dưỡng căn bản cần thiết cho con người. Qua
tập sách này, độc giả sẽ hiểu rõ được vì sao chúng ta cần
ăn một tỷ lệ cân đối các loại thực phẩm thịt cá, rau quả
và khoáng chất, vitamin, cũng như cần đến bao nhiêu
là vừa đủ.
5
2. Dinh dưỡng và sức khỏe: Khi ăn một bát cơm, một
miếng thịt gà luộc, một bát canh cải hoặc con cá rô kho...
chúng ta thường muốn biết chúng được tiêu hóa, hấp
thụ ra sao, cũng như tác dụng như thế nào đến sức khỏe.
Thực phẩm có thể gây tác hại đến sức khỏe nếu không
được sử dụng, nấu nướng hay bảo quản đúng cách, đảm
bảo những nguyên tắc an toàn thực phẩm. Đó là những
nội dung chính của quyển sách này.
3. Dinh dưỡng và trị liệu: Ngoài việc sử dụng thuốc men
và các phương thức trị liệu, dinh dưỡng cũng giữ một vai
trò rất quan trọng đối với người bệnh. Một bệnh nhân
tiểu đường nếu biết cách ăn uống sẽ có thể hạn chế hậu
quả xấu khi lượng đường trong máu lên quá cao; người
huyết áp cao mà không tiết giảm muối ăn thì sẽ dễ dàng
bị tai biến não hoặc cơn suy tim... Quyển sách này đưa
ra những hướng dẫn về ăn uống để có thể hỗ trợ việc trị
bệnh, đã được các nghiên cứu khoa học và thực tế chứng
minh là mang lại hiệu quả tốt.
Người ta thường nói: “Ăn để sống chứ không phải sống để
ăn.” Thật ra, đây chỉ là một lời khuyên có tính cách luân lý
chứ không hề có ý bảo ta phải coi thường việc ăn uống, vì thực
tế là: Sống thì phải ăn. Để sinh tồn, cơ thể cần đến năng lượng
cũng như động cơ cần xăng dầu. Thực phẩm cung cấp những
yếu tố mà cơ thể hấp thụ được để tạo thành năng lượng, gọi
chung là dinh dưỡng. Do đó, dinh dưỡng chính là chìa khóa
của sức khỏe. Người ta có thể khỏe mạnh hay đau yếu do
nguồn dinh dưỡng thích hợp hay không thích hợp, phong phú
hay nghèo nàn. Dinh dưỡng là yếu tố quyết định chi phối phần
lớn, nếu không nói là toàn bộ, vấn đề sức khỏe của con người.
Vì thế, dinh dưỡng là mấu chốt của hầu hết các vấn đề bệnh
lý, và quả thật không có gì lạ khi hầu hết các nhà điều trị đều
quan tâm đặc biệt đến vấn đề dinh dưỡng.
6
Vài lời giới thiệu
Đối với phần lớn chúng ta thì khoa Dinh dưỡng còn có
nhiều lý do đáng quan tâm hơn nữa. Khoa Dinh dưỡng giúp
ta tác động đến sức khỏe một cách cụ thể, tức thời, với những
giải pháp và đề nghị thiết thực, trong tầm tay của mọi người.
Những tác hại do sai lầm về dinh dưỡng hay lợi ích của việc
sử dụng dinh dưỡng đúng cách có thể dễ dàng thấy được. Và
dù sao đi nữa, sống thì phải ăn, nay lại có thể vận dụng việc
ăn uống để trị bệnh hay phòng bệnh, quả thật là một công đôi
ba việc, nhất cử lưỡng tiện.
Do đó, chúng ta ai cũng muốn biết về việc thực phẩm mà
ta sử dụng sẽ tác động như thế nào đến sức khỏe, có thể giúp
ta phòng trị bệnh hay sẽ tạo điều kiện gây ra thêm bệnh tật.
Và khi áp dụng những hiểu biết đó vào cuộc sống hằng ngày,
chúng ta sẽ có thể trở về gần với thiên nhiên hơn, sẽ thấy
việc phòng trị bệnh trở nên dễ dàng, giản tiện hơn vì chỉ cần
sử dụng những thứ có sẵn trong tự nhiên như các loại thực
phẩm, rau củ quả, dược liệu cây cỏ...…mà vẫn có thể bảo vệ
tốt sức khỏe cho cơ thể.
Như đã nói, bộ sách của Bác sĩ Nguyễn Ý Đức là sự dung
hòa và vận dụng cả hai khuynh hướng: kiến thức khoa học
hiện đại và sự phát triển lành mạnh thuận theo tự nhiên. Đối
với những ai muốn hiểu rõ về các thành phần dinh dưỡng có
trong thực phẩm, muốn theo dõi số phận của các món ăn khi
đi vào cơ thể, hoặc nói chung là tò mò muốn tìm biết rõ hơn
về thực phẩm, bộ sách này sẽ cung cấp thật phong phú những
kiến thức về các đặc tính hóa học, sinh lý... của từng món ăn
và quá trình biến đổi của chúng trong cơ thể. Đối với những ai
muốn áp dụng ngay những hiểu biết về dinh dưỡng vào cuộc
sống gần gũi thiên nhiên hơn, sách cung cấp những kiến thức
cơ bản và thiết thực về các thực phẩm thường dùng mỗi ngày
và những tính chất có lợi hoặc có hại của chúng. Những kiến
7
Dinh dưỡng và điều trị
thức này được trình bày một cách cặn kẽ nhưng không quá
rườm rà, dễ hiểu nhưng cũng không vì thế mà trở thành sơ
lược, thô thiển.
Do đó, với những ai quan tâm đến vấn đề dinh dưỡng thì
bộ sách này thật xứng đáng là kim chỉ nam trong thực tế, là
người hướng dẫn trung thành và thực tiễn mỗi ngày, có thể
giúp ích tức thì và thiết thực. Sách mô tả một cách khoa học
các món ăn, đặc biệt chi tiết hơn là những món ăn thường
được sử dụng mỗi ngày, gợi ý những chọn lựa thích hợp mà
chúng ta luôn phải đưa ra trong cuộc sống.
Một phần quan trọng - gần như trọng tâm của bộ sách được dành để bàn đến mối tương quan giữa dinh dưỡng và
các bệnh tật thường gặp như: tiểu đường, tim mạch, huyết áp
cao, viêm gan, táo bón...… Tác giả luôn có những lời khuyên
hữu ích nhằm đặt căn bản vững chắc cho một cuộc sống khỏe
mạnh, ít bệnh tật.
Nói chung, bộ sách nhắm đến trả lời phần lớn những câu
hỏi liên quan đến vấn đề ăn uống, nhưng đặc biệt cung cấp
cho bạn đọc một cách chi tiết hơn những gì cần biết trong việc
ăn uống hằng ngày, khi đang khỏe mạnh cũng như khi có
bệnh. Với mục tiêu đề ra như vậy, bộ sách của Bác Sĩ Nguyễn
Ý Đức có thể nói là một thành quả rất đáng khen về cả hai
mặt khoa học cũng như thực dụng, bởi vì nó đáp ứng được cả
tính chính xác của một tác phẩm khoa học cũng như tính dễ
hiểu của một tài liệu hướng dẫn dành cho quảng đại quần
chúng.
Khi giới thiệu bộ sách này đến với quý độc giả, chúng tôi hy
vọng là nó sẽ mang lại những kiến thức bổ ích và thiết thực
ngay trong cuộc sống hằng ngày, giúp cho quý vị có thể tự
mình bảo vệ sức khỏe và niềm vui trong cuộc sống.
Bác Sĩ TRẦN MINH TÙNG
8
DINH DƯỠNG
VỚI BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
G
ọi là bệnh tiểu đường, nên có lúc nhiều người đã
nghĩ rằng bệnh này là do ăn nhiều đường ngọt
mà ra. Sự thực, đường và tinh bột có thể làm lượng glucose
trong máu tăng cao đột ngột khi không có đủ insulin, nhưng
đường không gây ra bệnh tiểu đường.
Insulin là chất nội tiết có nhiệm vụ chuyển hóa glucose
trong máu thành năng lượng, do đó làm điều hòa lượng
glucose trong máu. Vì vậy, tiểu đường là bệnh của một trong
nhiều cơ quan nội tiết trong cơ thể, và dinh dưỡng có một vai
trò rất quan trọng trong việc điều trị.
Trong bệnh tiểu đường, sự chuyển hóa đường glucose trong
máu bị rối loạn. Glucose là nguồn năng lượng quan trọng
cho cơ thể và chủ yếu do carbohydrat cung cấp. Chất đạm
(protein) và chất béo (lipid) cũng có thể tạo ra glucose, nhưng
không nhiều như carbohydrat.
Carbohydrat là nhóm hợp chất hữu cơ có trong tự nhiên
bao gồm các dạng đường, tinh bột, dextrin, cellulose, và
glycogen. Trong thực phẩm thì hai dạng carbohydrat chủ
yếu là đường và tinh bột. Khi đưa vào cơ thể, carbohydrat
được phân hố thành đường glucose, giữ chức năng duy trì
9
Dinh dưỡng và điều trị
các mô protein, giúp chuyển hố chất béo và cung cấp năng
lượng cho hệ thần kinh trung ương.
Khi glucose trong máu không được sử dụng hết thì nồng độ
glucose trong máu sẽ tăng cao.
Trong tình trạng bình thường, thận có khả năng giữ đường
này lại thay vì bài tiết ra ngoài. Người bệnh tiểu đường có
lượng glucose quá cao nên thận buộc phải thải bớt ra ngoài
theo nước tiểu. Từ đó có tên là bệnh tiểu đường.
Bệnh thường gia tăng với tuổi cao, nhất là từ sau 55 tuổi.
Người châu Á ít bị tiểu đường phụ thuộc vào insulin hơn là
người da trắng; nữ giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nam giới.
Điều hòa đường trong máu là trách nhiệm của chất nội tiết
insulin do tụy tạng tiết ra. Insulin chuyển đường từ huyết
tương vào các tế bào để chuyển hóa ra năng lượng. Đồng thời
insulin cũng giúp gan chuyển hố một phần glucose thành
chất béo để dự trữ trong các tế bào mỡ.
Khi vì một lý do nào mà insulin không làm được công việc
chuyển hóa này thì nồng độ đường glucose trong máu sẽ tăng
cao. Cholesterol trong máu cũng tăng cao vì thiếu insulin.
Mức độ bình thường của glucose trong máu khi đói thay
đổi trong khoảng từ 50mg/dl tới 115mg/dl máu. Khi nhịn ăn
lâu như qua đêm thì mức độ này thấp nhất, sau bữa ăn thì
nồng độ đường tăng hơi cao hơn. Máu được lấy vào buổi sáng
khi chưa ăn uống gì để thử nồng độ đường.
Nếu sau hai lần thử nghiệm liên tiếp mà nồng độ glucose
trên 140mg/dl thì xác định là bệnh tiểu đường. Nếu nồng độ
đường ở trong khoảng 115mg/dl tới 140mg/dl thì chỉ nghi ngờ
10
Bệnh tiểu đường
nhưng chưa được xác định được bệnh, cần theo dõi và có thêm
nhiều thử nghiệm khác mới có thể xác định bệnh.
Phân loại
Bệnh tiểu đường liên quan trực tiếp đến insulin, và tùy
theo cách gây bệnh của chất nội tiết này mà bệnh được phân
ra làm hai loại chính như sau:
- Loại I: Do thiếu insulin. Thường xuất hiện khi còn trẻ,
do tụy tạng không tiết ra hoặc tiết ra rất ít insulin. Vì
vậy, điều trị bệnh này chủ yếu phụ thuộc vào việc cung
cấp bổ sung lượng insulin cần thiết cho cơ thể. Loại này
chiếm khoảng 10% trong tổng số bệnh nhân tiểu đường,
nhưng rất khó kiểm sốt và người bệnh thường rơi vào
tình trạng nhiễm acid (ketoacidosis) rất nặng. Bệnh
nhân trở nên gầy ốm và bệnh tiến triển rất nhanh.
- Loại II: Do cơ thể không sử dụng được insulin, mặc dù
tụy tạng vẫn tiết ra lượng insulin như bình thường. Vì
vậy, điều trị bệnh này không liên quan đến việc cung
cấp insulin. Bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi, bệnh
nhân thường mập và bệnh diễn tiến chậm.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường chưa được xác định. Có
nhiều trường hợp do di truyền hoặc bệnh xuất hiện trong khi
có thai, sau giải phẫu, sau những căng thẳng về thể xác, tinh
thần hoặc do mập béo, nhiễm độc.
Bệnh tiểu đường loại I có thể do các virus hay độc tố gây
ra ở những người mà gen di truyền có mang mầm bệnh.
11
Dinh dưỡng và điều trị
Bệnh tiểu đường loại II có thể do nhiều nguyên nhân,
nhưng tình trạng quá cân và dư thừa chất béo của cơ thể
thường được coi là những nguy cơ gây bệnh hàng đầu.
Triệu chứng
Các triệu chứng chính của bệnh tiểu đường là rất khát
nước. Người bệnh tiểu tiện liên tục với nhiều nước tiểu, ăn
nhiều mà vẫn sút cân.
gì.
Đôi khi người bệnh tiểu đường loại II không có triệu chứng
Khi không được kiểm sốt, điều hòa, nồng độ đường trong
máu tăng cao bất thường đưa tới các biến chứng trầm trọng
cho nhiều cơ quan khác như mất thị giác, suy thận, bệnh tim
mạch với huyết áp cao, cao cholesterol, vữa xơ động mạch, rối
loạn cảm giác thần kinh, liệt hoặc cương dương và dễ bị bệnh
nhiễm trùng. Nhiều người bị nhiễm độc chi dưới trầm trọng
đến nỗi phải cắt bỏ bàn chân.
Nếu không được điều trị, người bệnh rơi vào tình trạng suy
dinh dưỡng, mặc dù trong máu vẫn đầy tràn chất bổ không
dùng đến phải thải theo nước tiểu ra ngoài mà tế bào cần đến
lại không tiếp nhận được.
Bệnh tiểu đường là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ tư
do bệnh tật gây ra tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ tử vong có thể giảm nhiều
nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm.
Dinh dưỡng với bệnh tiểu đường
Trọng tâm của việc điều trị bệnh tiểu đường là giữ cho
nồng độ đường glucose trong máu ở mức độ bình thường.
12
Bệnh tiểu đường
Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng bên cạnh dược
phẩm và các phương thức trị liệu khác. Trong một số trường
hợp, chỉ với một chế độ dinh dưỡng thích hợp cũng có thể
điều hòa được nồng độ đường trong máu.
Từ nhiều ngàn năm qua, con người đã nhận ra điều này
và luôn quan tâm đến việc xác định một chế độ dinh dưỡng
thích hợp cho người mắc bệnh tiểu đường.
Các vị lương y cổ xưa cho rằng người bệnh tiểu đường cần
phải ăn nhiều carbohydrat để bù lại lượng đường thải ra
trong nước tiểu.
Đến thế kỷ 17, nhiều người áp dụng chế độ ít tinh bột,
nhiều chất béo và chất đạm động vật. Sau đó lại chuyển
sang ít tinh bột, ít năng lượng.
Cho đến năm 1921 khi các bác sĩ Canada là Frederick
Grant Banting (1891-1941), và Charles Herbert Best (18991978) khám phá ra insulin trong tụy tạng và vai trò của nó
trong bệnh tiểu đường thì phương thức điều trị bệnh này bắt
đầu thay đổi hẳn.
Chế độ dinh dưỡng mới cho người bệnh tiểu đường được
điều chỉnh nhiều lần trong những thập niên qua với mục đích
là điều hòa lượng glucose trong máu. Chế độ này thay đổi tùy
ở từng người bệnh và bệnh nhân cần lưu ý rằng không có một
thực phẩm duy nhất nào đáp ứng được nhu cầu của tất cả
mọi người.
Với tiểu đường loại II, insulin vẫn được tụy tạng tiết ra
nhưng người bệnh không sử dụng được, chế độ ăn uống tập
trung vào việc kiểm sốt thể trọng, hạn chế tăng cân. Có tới
90% người bệnh tiểu đường loại II ở trong tình trạng béo phì.
13
Dinh dưỡng và điều trị
Trong tiểu đường loại I, bệnh nhân cần và phụ thuộc vào
insulin thì chế độ dinh dưỡng được tính toán sao cho người
bệnh vẫn có thể dùng bữa ăn chung trong gia đình nhưng có
sự thay đổi linh động về năng lượng cho thích hợp với liều
lượng dược phẩm, nhất là insulin.
Để xác định một chế độ dinh dưỡng thích hợp cho mỗi người
bệnh cần có sự cố vấn của chuyên gia dinh dưỡng hoặc bác sĩ
điều trị.
Người bệnh cũng cần được hướng dẫn để biết rõ tình trạng
bệnh của mình, thông thạo cách tự đo mức đường trong máu
và sau đó có thể tự gia giảm số năng lượng cần tiêu thụ tùy
theo tình trạng bệnh, và hiểu biết rõ công dụng các dược phẩm
đang dùng.
Sự cân đối tỷ lệ năng lượng cung cấp từ ba chất dinh
dưỡng cơ bản: carbohydrat, chất béo và chất đạm là điều rất
quan trọng. Tỷ lệ này thường được các chuyên gia xác định là
khoảng từ 50% đến 60% từ carbohydrat (tinh bột và đường),
dưới 30% từ chất béo và 15% đến 20% từ chất đạm.
Về carbohydrat thì cần giới hạn đường tinh chế ở mức 5%
và nên ăn chung với các thực phẩm khác để tránh glucose
trong máu tăng cao quá nhanh. Như vậy, phần năng lượng
còn lại là lấy từ tinh bột.
Chất béo thì nên dùng nhiều loại chất béo bão hòa của
thực vật hơn là chất béo bão hòa của động vật, và hạn chế tối
đa các dạng chất béo chưa bão hòa.1
1
Các acid béo có ba loại khác nhau: loại có dạng rắn, tức là dạng acid béo bão hòa
(saturated), dạng ít rắn hơn là acid béo chưa bão hòa dạng đơn (monounsaturated) với
các ngoại lệ là dầu ô-liu và dầu phộng, và dạng lỏng là acid béo chưa bão hòa dạng đa
(polyunsaturated). Hai dạng sau thường được chỉ chung một cách đơn giản là acid béo
chưa bão hòa (unsaturated), để phân biệt với dạng acid béo bão hòa (saturated).
14
Bệnh tiểu đường
Chất xơ (fiber) cũng có tác dụng trong việc kiểm sốt lượng
đường trong máu, giảm bớt nhu cầu insulin và giảm thiểu các
biến chứng của tiểu đường. Chất xơ có nhiều trong ngũ cốc.
Ngoài ra, cần chú ý thêm đến một số các vitamin như
vitamin B, C, E và các khoáng chất calci, kẽm, phosphor,
kali.
Nhiều chuyên gia cho rằng quá nhiều mỡ béo làm thay đổi
sự chuyển hóa của glucose và làm tăng sức đề kháng của cơ
thể với insulin. Người béo phì cũng ít vận động cơ thể, vì sự
vận động đốt bớt năng lượng và khiến cơ thể sử dụng được
insulin công hiệu hơn.
Một chế độ dinh dưỡng từ 1.000 tới 1.200 calori2 mỗi ngày
cho nữ giới, 1.500 calori tới 1.800 calori mỗi ngày cho nam
giới được nhiều chuyên gia y tế đồng ý. Số năng lượng này cần
được phân chia theo tỷ lệ: 55% carbohydrat, 30% chất béo và
15% chất đạm. Theo thống kê, nếu áp dụng chế độ này thì kết
quả tốt lên tới 95%.
Ngoài ra số năng lượng trên cũng cần được chia ra làm
nhiều bữa nhỏ trong ngày tùy theo kết quả đo mức đường
trong máu hai giờ sau mỗi bữa ăn. Có người ăn tới sáu, bảy
lần trong ngày, mỗi lần với số lượng thực phẩm nhỏ.
Trong chế độ dinh dưỡng cho người bệnh tiểu đường, việc
tiêu thụ chất ngọt là vấn đề có nhiều tranh cãi.
Trong nhiều năm qua, người bệnh được khuyến cáo là
không nên ăn đường và các thực phẩm ngọt. Từ sự khuyến
cáo này, các loại đường thay thế được đưa ra và giới thiệu
là an toàn cho người bệnh, gồm có các loại như Saccharin,
Cyclamate, Aspartame, Acesulfame...
15
Dinh dưỡng và điều trị
Gần đây việc ăn đường đã được nghiên cứu lại, và đa số
các chuyên gia đều khuyên là chỉ nên dùng khoảng dưới 5%
tổng lượng carbohydrat là đường, và dùng chung với thực
phẩm khác. Đồng thời lượng đường này cũng cần gia giảm cho
phù hợp với liều lượng các dược phẩm đang dùng.
Cũng trong chiều hướng này, vào tháng 12 năm 2001, tổ
chức The American Diabetes Association đã đưa ra một
hướng dẫn mới, theo đó người mắc bệnh tiểu đường đôi khi
có thể ăn chất ngọt, miễn là họ giữ mức độ đường trong máu
bình thường. Hướng dẫn cũng khuyên người bệnh nên ăn
nhiều thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như rau, trái cây
và năng vận động cơ thể.
16
BỆNH TIM MẠCH
B
ộ máy tuần hoàn gồm trái tim và một hệ thống
những mạch máu chạy khắp trong cơ thể. Đây
là bộ phận tiếp tế các chất dinh dưỡng thiết yếu cho mọi hoạt
động của con người. Một gián đoạn, một trục trặc dù nhỏ của
hệ thống này sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho tim và mạch máu
mà kết quả là đưa tới các bệnh tim mạch cũng như nhiều ảnh
hưởng không tốt khác cho cơ thể.
Tại nhiều quốc gia, bệnh tim mạch là nguyên nhân tử
vong hàng đầu. Bệnh động mạch vành, cơn suy tim (heart
attack), tai biến động mạch não (stroke) và huyết áp cao,
bệnh thấp tim (Rheumatic heart disease) là những bệnh
thường gặp và đều đưa tới hậu quả nghiêm trọng.
Có rất nhiều nguy cơ đưa tới bệnh tim mạch. Có những
nguy cơ không thay đổi được như tuổi tác, giới tính, chủng
tộc, di truyền... Nhưng cũng có những nguy cơ có thể thay
đổi được như nếp sống cá nhân, béo phì, nghiện thuốc lá... và
nhất là chế độ dinh dưỡng ăn uống.
Các bệnh tim mạch không phải xảy ra ngay trong đầu hôm
sớm mai, mà từ từ phát triển. Bệnh tim mạch thường xảy ra
khi cholesterol trong máu tăng cao; khi thân nhân có tiền sử
bệnh tim; khi có dấu hiệu đau thắt tim; khi có nguy cơ bệnh
tiểu đường và khi bị béo phì.
Bệnh có liên hệ nhiều hơn tới dinh dưỡng là bệnh động
mạch vành, vữa xơ động mạch (atherosclerosis) và huyết
áp cao.
17
DINH DƯỠNG
VỚI BỆNH ĐỘNG MẠCH
VÀNH
Bệnh động mạch vành (Coronary
artery disease - CAD)
Đ
ộng mạch vành là những mạch máu chạy quanh
trái tim để nuôi cơ quan này.
Sau mỗi nhịp tim đập thì máu được đưa đi nuôi khắp cơ thể
qua động mạch chủ. Riêng máu nuôi tim thì được chuyển trực
tiếp vào động mạch vành. Các động mạch này gồm hai nhánh
bao quanh trái tim như một cái vương miện. Nếu một trong
những phân nhánh bị nghẹt thì tế bào tim ở vùng đó thiếu
dinh dưỡng, thiếu dưỡng khí (oxy), gọi là sự thiếu máu cục bộ
cơ tim (myocardial ischemia) và người bệnh sẽ có những cơn
đau thắt tim (angina pectoris).
Nếu động mạch bị nghẽn vĩnh viễn thì cơn suy tim sẽ xảy
ra vì nhồi máu cơ tim (myocardial infarction) và tế bào tim
bị tiêu hủy.
Nguyên nhân
Vì sao có sự tắc nghẽn động mạch vành?
Trong đa số các trường hợp, có những mảng chất béo dần
dần đóng lại ở thành động mạch, khiến cho lòng mạch máu thu
18
Bệnh động mạch vành
hẹp dần, khiến máu lưu thông bị tắc lại và tắc hẳn theo năm
tháng. Đó là hiện tượng vữa xơ động mạch (atherosclerosis).
Vữa xơ động mạch không xảy ra bất thình lình mà từ từ
diễn tiến trong hàng chục năm. Đôi khi, sự tắc nghẽn bắt đầu
ngay từ khi còn trẻ, nhưng chưa đủ trầm trọng để đưa tới
bệnh tim ở tuổi trung niên.
Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chính của cơn suy tim,
tai biến động mạch não, hoại thư (gangrene) đầu ngón chân,
ngón tay. Các mạch máu dễ bị vữa xơ nhất là động mạch chủ
nơi bụng (abdominal aorta), động mạch vành và động mạch
não.
Nguyên nhân gây vữa xơ động mạch chưa được xác định rõ,
nhưng theo kết quả của nhiều nghiên cứu thì chất béo trong
máu và các yếu tố sau đây là những nguy cơ có khả năng gây
bệnh:
a. Tuổi tác
Hơn 50% trường hợp bệnh động mạch vành xảy ra ở người
trên 65 tuổi, cho nên nguy cơ bệnh tim tăng theo tuổi tác.
b. Giới tính
Theo thống kê thì nam giới trên 45 tuổi thường bị bệnh
tim mạch nhiều hơn nữ giới, nhưng sau tuổi mãn kinh của
nữ giới thì tỷ lệ mắc bệnh gần như nhau. Nam giới thường
có lượng cholesterol LDL (dạng cholesterol có hại) cao hơn
và HDL thấp hơn, một phần do tác dụng của hormon nam
19
- Xem thêm -