Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cán bộ hội nông dân việt nam ...

Tài liệu Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cán bộ hội nông dân việt nam trong giai đoạn hiện nay

.PDF
116
30151
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƢ PHẠM --------------- NGUYỄN THỊ LOAN CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƢỜNG CÁN BỘ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số: 60 14 05 Hà Nội – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƢ PHẠM --------------- CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƢỜNG CÁN BỘ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số: 60 14 05 Học viên: Nguyễn Thị Loan Lớp 1, K6, Cao học Quản lý Giáo dục Giảng viên hƣớng dẫn: PGS.TS Đặng Xuân Hải Hà Nội - 2008 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật ƣu đãi xã hội 4 1.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội 4 1.1.1.. Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội 4 1.1.2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của pháp luật ưu đãi xã hội 9 1.2. Các nguyên tắc của pháp luật ưu đãi xã hội 10 1.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật ưu đãi xã hội 15 1.4. Lược sử phát triển của pháp luật ưu đãi xã hội (từ sau Cách mạng 18 tháng Tám 1945 đến nay) 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám-1945 đến năm 1954 19 1.4.2. Giai đoạn từ 1954 đến 1975 20 1.4.3. Giai đoạn từ 1975 đến 1985 23 1.4.4. Giai đoạn từ 1986 đến 1994 24 1.4.5. Giai đoạn từ 1995 đến nay 25 Chương 2: Quy định pháp luật ƣu đãi xã hội ở Việt nam và thực 28 trạng áp dụng 2.1. Đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội 29 2.1.1. Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 29 2.1.2. Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi 29 nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 2.1.3. Liệt sĩ 29 2.1.4. Bà mẹ Việt Nam anh hùng 31 2.1.5. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động 31 2.1.6. Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh 32 2.1.7. Bệnh binh 33 2.1.8. Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học 34 2.1.9. Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, 35 đày 2.1.10. Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và 35 làm nghĩa vụ quốc tế 2.1.11. Người có công giúp đỡ cách mạng 36 2.2. Các chế độ ưu đãi xã hội 36 2.2.1. Chế độ ưu đãi trợ cấp 37 2.2.1.1. Chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 01 38 tháng 01 năm 1945 và thân nhân của họ 2.2.1.2. Đối với người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 39 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945 và thân nhân của họ 2.2.1.3. Chế độ ưu đãi đối với liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ 40 2.2.1.4. Chế độ đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng 41 2.2.1.5. Chế độ đối với Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động 41 2.2.1.6. Chế độ đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương 42 binh, thương binh loại B (gọi chung là thương binh) 2.2.1.7. Chế độ đối với bệnh binh 43 2.2.1.8. Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa 45 học 2.2.1.9. Chế độ đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng 45 chiến bị địch bắt, tù đày 2.2.1.10. Chế độ đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế 46 2.2.1.11. Chế độ đối với người có công giúp đỡ cách mạng 46 2.2.2. Chế độ chăm sóc sức khỏe 47 2.2.3. Chế độ đảm bảo về việc làm 48 2.2.4. Chế độ ưu đãi về giáo dục - đào tạo 50 2.2.5. Các chế độ khác 51 2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam hiện nay 52 2.3.1. Những thành tựu, kết quả đạt được 52 2.3.2. Những hạn chế và tồn tại 55 Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ƣu đãi xã hội 60 ở Việt Nam 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội 60 3.1.1. Pháp luật ưu đãi xã hội phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội 60 của đất nước 3.1.2. Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính toàn diện 63 3.1.3. Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính thực tiễn 64 3.1.4. Xã hội hóa hoạt động ưu đãi xã hội, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ 65 giữa ba chủ thể Nhà nước, đối tượng được hưởng ưu đãi và cộng đồng, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội 67 3.2.1. Về đối tượng hưởng ưu đãi xã hội 67 3.2.2. Về các chế độ trợ cấp ưu đãi 69 3.2.3. Hoàn thiện cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp 72 luật ưu đãi xã hội 3.2.4. Về việc xây dựng pháp luật ưu đãi xã hội 73 Kết luận 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Từ xa xưa đã có nhiều quan điểm, tư tưởng khẳng định vai trò của giáo dục đối với mỗi con người và đối với xã hội. Giáo dục được coi là một trong những nhân tố quan trọng xây dựng xã hội an lạc, phú cường. Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI và đang ở thiên niên kỷ thứ 8. Đây là thời kỳ mà cuộc cách mạng khoa học-công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Trước đây, khoa học-kỹ thuật liên quan chủ yếu tới yếu tố năng lượng và vật chất, thì ngày nay lại tập trung chủ yếu vào yếu tố thời gian, không gian và tri thức con người. Điều đó càng khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục trong việc duy trì và phát triển nguồn cung cấp các tài sản trí tuệ. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục, nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển giáo dục. Quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” được đề ra trong Đại hội Đảng khóa VIII, được ghi vào Hiến pháp 1992 (Điều 35). Nội dung của quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã thể hiện: giáo dục là nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, giáo dục là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đối với từng địa phương, từng khu vực và cả nước, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tếxã hội. Hiện nay, trên đất nước ta, sự nghiệp đổi mới tiếp tục được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; công cuộc CNH-HĐH đất nước được đẩy mạnh nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ (ĐNCB) của Đảng, trong đó cán bộ các đoàn thể nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng, là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định. Lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo phong trào quần chúng, đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, Đảng không những phải đào tạo, bồi đưỡng ĐNCB làm công tác Đảng, công tác chính quyền, còn phải đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB làm tốt công tác vận động quần chúng và chất lượng ĐNCB là yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả công tác vận động nông dân. Với tư cách là một Trường của một đoàn thể chính trị-xã hội, Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp từ T.Ư đến cơ sở đảm bảo nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ CNHHĐH đất nước, đặc biệt là sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Trường còn nhiều bất cập. Để đạt được mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp có trình độ, có năng lực thực hành, kỹ năng hoạt động thực tiễn, tự chủ, năng động, sáng tạo… phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn thì trước hết Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong bất cứ Trường đại học, cao đẳng hay Trường cán bộ nào thì đội ngũ giảng viên đóng vai trò quan trọng và quyết định đến quy mô và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; là đội ngũ giữ vai trò chủ đạo trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ, có năng lực, có tay nghề cho xã hội. Sau nhiều năm xây dựng và trưởng thành, Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể, đội ngũ giảng viên của Trường ngày một tăng lên cả về số lượng và chất lượng, công tác phát triển đội ngũ này có nhiều bước tiến đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của giảng viên ngày một cải thiện, nhờ đó đã góp phần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên so với yêu cầu phát triển của Trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều bất cập: Đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng và trình độ, chất lượng chưa cao, công tác phát triển đội ngũ giảng viên chưa được quan tâm đúng mức. Chính từ nhận thức đó, là một cán bộ quản lý cấp phòng, trực làm nhiệm vụ xây dựng, triển khai các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Trường, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ tìm các biện pháp khả thi để tham mưu cho Ban Giám hiệu giải quyết vấn đề này. Vì vậy, tôi chọn Đề tài: “Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cho mình với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường cán bộ Hội Nông dân Việt Nam nói riêng và các Trường bồi dưỡng cán bộ nói chung. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của Trường trong giai đoạn hiện nay. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài 3.2. Nghiên cứu thực trạng về công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam. 3.3. Đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam 4.2. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại… - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp xin ý kiến chuyên gia, phương pháp phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. - Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp xử lý số liệu thống kê để hỗ trợ, bổ sung việc xử lý kết quả. 6. Giả thuyết khoa học Đưa ra được các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam phù hợp, khả thi góp phần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường. 7. Phạm vi nghiên cứu: Tác giả chỉ tập trung đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam từ 2003-2008 và công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay. 8. Đóng góp của Đề tài 8.1. Về mặt lý luận Tổng quan được một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác phát triển đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam. 8.2. Về mặt thực tiễn Đánh giá được thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam; Đề xuất các biện pháp mang tính hiện thực và khả thi nhằm phát triển đội ngũ giảng viên tại Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam nói riêng và Trường bồi dưỡng cán bộ nói chung. 9. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần mở đầu; kết luận và khuyến nghị; tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn dự kiến được trình bày làm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên Chƣơng 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam Chƣơng 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN 1.1. Một số khái niệm công cụ 1.1.1. Đội ngũ giảng viên 1.1.1.1. Giảng viên Theo Luật Giáo dục năm 2005 thì giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong các trường cao đẳng, đại học và sau đại học. Giảng viên (nhà giáo) là nhân tố ảnh hưởng chính và quyết định đến chất lượng của giáo dục. Lao động của họ tạo ra sản phẩm là con người được giáo dục, đào tạo về kiến thức cơ bản, có chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng lao động đáp ứng nhu cầu của kinh tế-xã hội. Trong công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập của đất nước ta hiện nay, lao động của nhà giáo trực tiếp đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Lao động của nhà giáo đồng thời hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với nguồn nhân lực hùng hậu được đào tạo sẽ góp phần vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài mà Đảng và Nhà nước đang hướng tới. Không chỉ ý nghĩa xã hội kể trên, lao động của nhà giáo còn có ý nghĩa kinh tế quan trọng. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất vật chất và tinh thần khiến người lao động phải đáp ứng trước những thách thức mới. Người lao động buộc phải có những năng lực thích ứng, phải phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ; những thay đổi về môi trường lao động đến hệ thống quản lý điều hành sản xuất. Nó buộc người lao động phải có kỹ năng lao động sâu hơn, rộng hơn, phải có năng lực đổi mới thích ứng nhanh chóng, cập nhật nhanh các kỹ thuật công nghệ mới. Nhà giáo sẽ góp phần không nhỏ vào việc tạo ra sự thay đổi kỹ năng, cách tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ mới tạo ra chất lượng giáo dục, đào tạo tốt hơn đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế ngày một cao hơn. Điều 14, Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ vai trò của nhà giáo: “Nhà giáo có vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học”. Hiện nay trong bối cảnh giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu”, giáo dục phải liên tục được đổi mới để đáp ứng với những thay đổi không ngừng trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa và xã hội thì yêu cầu đối với đội ngũ nhà giáo cũng ngày một cao hơn. Để làm tròn vai trò quyết định của mình đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục, nhà giáo phải có tiêu chuẩn, nhiệm vụ sau: * Tiêu chuẩn giảng viên: - Có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng. Phẩm chất, lập trường tư tưởng của nhà giáo là lòng yêu nước, giác ngộ chủ nghĩa xã hội. Nó thể hiện ở niềm tin cách mạng trong sáng và cao thượng. Tình cảm này xuất phát từ lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Điều đó còn thể hiện ở lòng yêu nghề, tâm huyết với nghề và có nhu cầu làm việc tại các cơ sở đào tạo; có trách nhiệm, yêu thương học sinh, kiên trì, vị tha và chủ động trong mọi tình huống ứng xử với học sinh; có lối sống giản dị, khiêm tốn, lịch sự. - Về trình độ chuyên môn: Phải có bằng cấp đạt chuẩn, trình độ của thầy phải tương ứng với nhiệm vụ đào tạo được giao, có chuyên môn sâu trong lĩnh vực mình phụ trách, có khả năng truyền đạt và xử lý tình huống. Luôn luôn trau dồi, đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung, chương trình nhằm đạt được mục tiêu đào tạo. Đồng thời, giảng viên phải có nghiệp vụ sư phạm, thể hiện sự độc đáo không chỉ những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn cả việc xử lý những tình huống khó đòi hỏi có tính tâm lý giáo dục, nhân cách phát triển phù hợp với các yêu cầu hoạt động nghề nghiệp. Muốn có chất lượng dạy học tốt thì nhà giáo phải có trình độ sư phạm tốt, phải có hệ thống tri thức giỏi về chuyên môn, phải nắm được một hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, phải rèn luyện được những phẩm chất, nhân cách đặc trưng cho nghề dạy học. Điều kiện để hình thành trình độ sư phạm là nhà giáo phải biết tích luỹ kiến thức khoa học ở trình độ cao, phải biết nghiên cứu hoa học, phải tích cực tham gia vào các hoạt động dạy học để tích luỹ thêm kinh nghiệm và phát huy sáng tạo trong việc giải quyết các nhiệm vụ giảng dạy. * Nhiệm vụ giảng viên: - Phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, thực hiện các quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, điều lệ trường cao đẳng và quy chế tổ chức và hoạt động nhà trường. - Giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường đã quy định: viết giáo trình, phát triển tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập theo sự phân công của nhà trường, khoa, bộ môn. - Chịu sự giám sát của các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương pháp đào tạo và nghiên cứu khoa học. - Tham gia hoặc chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển giao công nghệ theo sự phân công của nhà trường, khoa, bộ môn. - Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người học, hướng dẫn người học trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống. - Không ngừng tự bồi dưỡng nghiệp vụ, cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo. - Hoàn thành tốt công tác được trường, khoa, bộ môn giao. * Quyền của giảng viên: - Được bố trí giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo, xác định nội dung các giáo trình giảng dạy phù hợp với quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Lựa chọn phương pháp giảng dạy và phương tiện giảng dạy nhằm phát huy năng lực cá nhân, đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo. - Được tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; được thi nâng bậc, chuyển ngạch giảng viên, theo quy định của pháp lệnh cán bộ, công chức. - Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần theo các chế độ, chính sách cho nhà giáo, được hưởng các chế độ nghỉ lễ theo quy định của Nhà nước và được nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Được ký hợp đồng giảng dạy và NCKH tại các cơ sở giáo dục, NCKH ngoài trường, theo quy định của Bộ Luật lao động và quy chế thỉnh giảng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. - Tham gia thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường. - Được Nhà nước xét tặng các danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục” và các danh hiệu thi đua khác. 1.1.1.2. Vai trò giảng viên Trong giáo dục, chất lượng giảng viên là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng đào tạo. Giảng viên đóng vai trò của chiếc máy cái trong quá trình đào tạo. Chất lượng giảng viên là vấn đề then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo của cơ sở đào tạo. Để xác định được chất lượng giảng viên cần tiến hành đánh giá giảng viên nói chung và hoạt động giảng dạy của giảng viên nói riêng. Vậy, cần phải có tiêu chí nào để đánh giá chất lượng giảng viên? Đây là vấn đề không phải dễ, bởi cho đến nay, chưa có thước đo chi tiết, mang tính chuẩn chung cho tất cả các trường cao đẳng, đại học để tiến hành đánh giá các mặt về phẩm chất, đạo đức, trình độ chuyên môn và kỹ năng sư phạm của người giảng viên. Theo tác giả Nguyễn Đức Chính, để đánh giá giảng viên, trước hết cần dựa vào chức trách, vai trò của người giảng viên. Tuy nhiên, theo thời gian, chức trách, vai trò của người giảng viên cũng thay đổi cho phù hợp với thực tế xã hội. Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu có chung quan điểm về cách xác định các công việc thuộc chức trách giảng viên: - Giảng dạy - Nghiên cứu khoa học - Phục vụ cộng đồng - Bổn phận công dân với tư cách là nhà khoa học Để đánh giá chất lượng giảng viên, có thể thông qua các kênh thông tin khác nhau như căn cứ vào kết quả học tập và phát triển nhân cách của sinh viên, kết quả đánh giá cán bộ định kỳ của nhà trường, của đồng nghiệp hoặc có thể thông qua phiếu thăm dò ý kiến của sinh viên... Vấn đề đặt ra là muốn đánh giá chính xác, khách quan và công bằng cần xây dựng các tiêu chí chuẩn, phù hợp và một quy trình đánh giá tốt. 1.1.1.3. Đội ngũ giảng viên Hiện tại có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “Đội ngũ”. Các khái niệm về đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như: đội ngũ cán bộ công chức; đội ngũ những người tình nguyện… tất cả đều xuất phát từ cách hiểu theo thuật ngữ “đội ngũ” thường được dùng trong lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất ta hiểu: Đội ngũ là tập hợp số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể họ cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề nhưng đều có chung mục đích; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần. Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi như: Đội ngũ trí thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ tình nguyện viên, đội ngũ cán bộ. Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người, cùng chức năng nghề nghiệp, được tập hợp thành một lực lượng”. Theo Webster: Đội ngũ là một nhóm người công nhân hoặc làm công cụ thể. Ví dụ như đội ngũ giáo viên, đội ngũ nhà báo... Như vậy, khái niệm đội ngũ có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất: Đó là gồm một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một lực lượng để thực hiện mục đích nhất định. Từ đó ta có thể khẳng định đội ngũ được cấu thành bởi các yếu tố sau: - Là một tập hợp người - Có cùng một lý tưởng, cùng mục đích - Làm việc theo kế hoạch - Gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần Đối với ngành giáo dục và đào tạo, phải xây dựng, tập hợp các thành viên để tạo ra một đội ngũ làm công tác giáo dục vừa có đức, vừa có tài. Trong đó mỗi nhóm người có nhiệm vụ riêng tập hợp thành một khối đoàn kết thống nhất, phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đó chính là Đội ngũ giảng viên. Như vậy, ĐNGV là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường cao đẳng và đại học họ gắn kết với nhau thực hiện hoàn thành nhiệm vụ, theo hệ thống, mục tiêu giáo dục, cùng trực tiếp giảng dạy và giáo dục học sinh, sinh viên, theo sự ràng buộc của những nguyên tắc có tính chất hành chính của ngành giáo dục và của nhà nước. Do chức năng và nhiệm vụ của giáo dục đại học, tiêu chuẩn ĐNGV của các trường ĐH, CĐ là rất cao: thường phải tốt nghiệp ĐH loại khá giỏi và đòi hỏi phải qua quá trình đào tạo ở mức độ cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ), có năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học và có phẩm chất đạo đức tốt. Bất kỳ GV nào không đủ những điều kiện ấy trước sau gì cũng bị đào thải khỏi đội ngũ giảng dạy đại học, cao đẳng. Quá trình giảng dạy ĐH, CĐ là quá trình sàng lọc khách quan nghiêm ngặt ĐNGV. 1.1.1.4. Phát triển đội ngũ giảng viên - Phát triển : Theo từ điển Tiếng Việt-Viện ngôn ngữ học thì “phát triển” có nghĩa là “Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, là sự vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”, theo đó cái mới, tiến bộ sẽ hình thành và thay thế cho cái cũ, cái lạc hậu. Nét đặc trưng của phát triển là hình thức xoáy trôn ốc và theo các chu kỳ. Việc hoàn thành một chu kỳ phát triển lại là cố hữu, nền tảng cho một chu kỳ mới, chu kỳ mới có sự lặp lại một số đặc điểm của chu kỳ trước đó. Theo từ điển Anh-Việt, Viện Ngôn ngữ học thì “phát triển” (develop) nghĩa là: Làm cho ai/cái gì tăng trưởng dần dần, trở lên hoặc làm cho trưởng thành hơn, tiến triển hơn hoặc có tổ chức hơn”. Ngày nay khái niệm phát triển được sử dụng để chỉ cả 3 mục tiêu cơ bản của nhân loại: phát triển con người toàn diện, bảo vệ môi trường, tạo hòa bình và ổn định chính trị. Mọi sự vật hiện tượng trong xã hội đều luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Sự biến đổi đó hoặc do sự vận động nội tại trong chính bản thân sự vật hiện tượng, hoặc dưới tác động của các tác nhân bên ngoài làm cho sự vật hiện tượng biến đổi tăng tiến về số lượng và chất lượng. Tất cả những sự tăng tiến này đều được coi là phát triển. Theo David C. Korten, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Mỹ: “Phát triển là một tiến trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những khả năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững… nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ”. Như vậy, ta có thể thấy: Phát triển là tăng trưởng tiến lên tuân theo quy luật vận động nội tại, khách quan; biểu hiện sự thay đổi tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng, cả thời gian và không gian của sự vật, hiện tượng và con người trong xã hội. - Phát triển đội ngũ giảng viên: Đội ngũ giảng viên là nguồn lực cơ bản của các trường đại học và cao đẳng. Phát triển đội ngũ giảng viên chính là phát triển nguồn nhân lực trong nhà trường; phát triển nguồn nhân lực là việc tạo ra sự tăng trưởng bền vững của mỗi thành viên và hiệu quả chung của tổ chức, gắn liền với việc không ngừng tăng lên về mặt chất lượng và số lượng của đội ngũ cũng như chất lượng sống của nhân lực. Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau về phát triển đội ngũ giảng viên dẫn đến những quan niệm về phát triển đội ngũ giảng viên. Theo Menges J.R. quan niệm mục tiêu của công tác phát triển ĐNGV: “Nhằm mục đích tăng cường hơn nữa đến sự phát triển toàn diện của người giáo viên trong hoạt động nghề nghiệp”. Theo tác giả Nguyễn Quang Tuyền về phát triển ĐNGV: “Xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, loại hình, đoàn kết, nhất trí trên cơ sở đường lối giáo dục của Đảng và ngày càng vững mạnh về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ đủ sức thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo”. Việc phát triển ĐNGV trong nhà trường chính là xây dựng đội ngũ giảng viên yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp GD - ĐT, gắn bó với nhà trường, có đạo đức trong sáng, có lý tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tham gia và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bổ sung nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Phát huy được tiềm năng con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng, có ý thức sáng tạo, tích cực nắm bắt và làm chủ tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến… ứng dụng tạo thành kỹ năng nghề nghiệp giỏi của ĐNGV. Công tác phát triển ĐNGV là phải tăng số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng, và có cơ cấu hợp lý đồng bộ, để ĐNGV đủ sức thực hiện có hiệu quả mục tiêu ĐT của nhà trường. Phát triển ĐNGV thực hiện được tốt khi gắn kết việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý với yếu tố chính sách đãi ngộ vật chất, tinh thần cho người GV; tạo động lực điều kiện môi trường sư phạm để người GV đóng góp, gắn bó lâu dài với nhà trường. Phát triển ĐNGV thực chất là phát triển nguồn nhân lực trong GD - ĐT cho các trường cao đẳng và đại học. Trong nhà trường, quản lý phát triển ĐNGV chính là xây dựng ĐNGV có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm, gắn bó với nhau trong một tập thể sư phạm đoàn kết thống nhất hỗ trợ nhau để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ trong giảng dạy và NCKH. 1.1.2. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, quản lý đội ngũ 1.1.2.1. Quản lý Theo từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1: QL khi là động từ mang ý nghĩa: - “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định - “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm việc sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc “lý” thì tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì hệ phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có “lý” và trong “lý” phải có “quản”, làm cho trạng thái hoạt động của hệ cân bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực). Sự quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau. Có nhiều cách nhìn khác nhau về khái niệm quản lý: - Nói đến quản lý không thể không nhắc đến tư tưởng sâu sắc của Các – Mác, ông nhìn nhận vấn đề quản lý dưới tư tưởng phân công và hợp tác trong lao động: “Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. - Theo Haror Koontz, QL là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt đến mục tiêu tổ chức nhất định.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất