Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng anh đối với các trường trung học phổ t...

Tài liệu Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng anh đối với các trường trung học phổ thông huyện thường tín, hà tây

.PDF
106
16939
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA SƯ PHẠM NGUYỀN THỊ THUÝ PHƯƠNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TIẾNG ANH ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN THƯỜNG TÍN HÀ TÂY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI 2008 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo giai đoạn 2001 - 2010 phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước đã xác định các mục tiêu ưu tiên của Giáo dục - Đào tạo là "nâng cao chất lượng đào tạo nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kĩ thuật lành nghề”. Đây là bước phát triển tiếp theo của mục tiêu Giáo dục - Đào tạo nhằm "phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá" đã được xác định trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996). Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục đối với việc dạy và học ngoại ngữ là phải đào tạo ra nguồn nhân lực lao động có chất lượng cao, trong đó có khả năng sử dụng ngoại ngữ như là một công cụ để giao tiếp, nghiên cứu và học tập. Từ thực tế đó, trong những năm gần đây việc dạy và học ngoại ngữ đã được chú trọng. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã quy định ngoại ngữ là môn học bắt buộc đối với học sinh trung học phổ thông và là môn thi tốt nghiệp Quốc gia ở bậc học này. Nhiệm vụ dạy ngoại ngữ của các trường Trung học phổ thông là phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết và tư duy bằng chính một ngoại ngữ nào đó để sau ba năm học các em có một lượng kiến thức nhất định có thể tiếp tục theo học ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp hoặc bước vào cuộc sống tìm việc làm. Quản lý việc dạy và học ngoại ngữ có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đào tạo trong nhà trường phổ thông. Quản lý tốt sẽ giúp giáo viên và học sinh làm việc hiệu quả trong từng khâu của quá trình dạy và học, như việc xây dựng kế hoạch năm học của bộ môn, của cá nhân, kế hoạch dự giờ, thăm lớp, việc chỉ đạo ra đề kiểm tra, đề thi; các hình thức ngoại khóa bộ môn, hội thảo, biện pháp khắc phục chuyển di tiêu cực của tiếng mẹ đẻ, tiếng địa phương trong 2 việc học ngoại ngữ của học sinh. Các biện pháp này nhằm tác động trực tiếp đến người dạy và người học để họ kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy và học, thực hiện đầy đủ, khoa học quá trình kiểm tra, đánh giá trên cơ sở công bằng, khách quan đáp ứng các yêu cầu do mục tiêu giáo dục đề ra. Trong thực tiễn giảng dạy ngoại ngữ ở nhà trường phổ thông nói riêng và ở các bậc khác nói chung, hiện nay việc quản lý quá trình dạy và học vẫn còn nhiều bất cập, chậm đổi mới, nhiều học sinh chỉ chú trọng học ngoại ngữ để đối phó khi thi, khả năng giao tiếp kém; người dạy và người học đều ngại hoặc không có thói quen sử dụng các phương tiện hiện đại như đài, băng cassette, máy tính, máy chiếu và khai thác mạng internet trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp Đại học không đáp ứng được yêu cầu khi được phỏng vấn để tuyển dụng vào các công ty nước ngoài. Theo số liệu thống kê của các trung tâm Anh ngữ quốc tế tại Việt Nam, tháng 11 năm 2005 thì trình độ Anh ngữ của học sinh Việt Nam là dưới mức trung bình. Một ví dụ cụ thể là mùa tuyển sinh 2004, ông Phan Quốc Khánh - Hiệu trưởng trường ĐH Quốc tế (ĐHQG TP HCM) cho biết khi kiểm tra chất lượng đầu vào của 215 SV thì chỉ có 27 SV (12,5%) đủ điểm ngoại ngữ tối thiểu tức là 500 điểm TOEFL như yêu cầu. Là một giáo viên trực tiếp dạy ngoại ngữ, tôi thấy mình cần nghiên cứu để tìm ra những biện pháp nhằm quản lý tốt hơn việc dạy và học ngoại ngữ hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ của trường Trung học phổ thông. Với lý do này, tôi chọn đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh đối với các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây" là đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ quản lý giáo dục. 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất những biện pháp quản lý thích hợp và hiệu quả hoạt động dạy học môn tiếng Anh cho các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu 3 Hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh cho các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý dạy học ngoại ngữ ở các trường Trung học phổ thông 4.2. Nghiên cứu thực trạng việc tổ chức dạy học ngoại ngữ ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Tây. Đánh giá các ưu, nhược điểm trong công tác tổ chức và quản lý hoạt động này 4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ (tiếng Anh) ở các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây 5. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tiến hành nghiên cứu tại 3 trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín: Trường Trung học phổ thông Thường Tín, trường Trung học phổ thông Vân Tảo và trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi. 6. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau. 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Sưu tầm sách, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Điều tra, khảo sát các hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây. - Phỏng vấn ý kiến của phụ huynh học sinh. - Phân tích và tổng kết kinh nghiệm quản lý. 6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học và xử lý số liệu để phân tích 4 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn được trình bày trong ba chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh tại các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây. Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh phù hợp với các trường Trung học phổ thông huyện Thường Tín, Hà Tây 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Trên thế giới Quản lý hoạt động dạy và học ngoại ngữ là một phần quan trọng trong chương trình phát triển giáo dục ở nhiều nước trên thế giới. Các hình thức hoạt động dạy và học ngoại ngữ diễn ra phong phú, đa dạng và đều nhằm mục đích thúc đẩy quá trình hội nhập của các nước, phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước. Xin nêu một số điển hình về hoạt động dạy và học ngoại ngữ ở một số quốc gia trên thế giới: Cùng với việc ổn định hệ thống chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế, hệ thống Giáo dục - Đào tạo luôn được quan tâm đầu tư đặc biệt là công tác quản lý giáo dục. Hiện nay đất nước Singapore đang có những bước cải cách giáo dục về cả nội dung sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên, công nghệ quản lý ... rất nổi bật trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống giáo dục phổ thông ở Singapore bao gồm 172 trường TH; 158 trường THCS; 16 trường THPT. Sau khi tiếp nhận chức thủ tướng, thủ tướng Goh Chok Tông đã phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục lâu dài của Bộ giáo dục trong đó có điểm nhấn là toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông tại Singapore phải sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ bắt buộc bên cạnh tiếng Trung sử dụng như ngôn ngữ thứ hai. Vì học toàn bằng tiếng Anh nên nhiều gia đình ngoại quốc sẵn sàng gửi con em đến học ngay từ bậc tiểu học với mức đóng góp học phí rất cao, giúp cho Singapore có khoản thu nhập kinh phí lớn từ nguồn thu nhập này. Singapore đặc biệt chú ý đến chất lượng đào tạo, ngoài việc không ngừng trang bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ dạy và học, số lượng học sinh trong một lớp cũng chỉ cho phép không quá 25 em. Việc chú trọng học và sử dụng tiếng Anh này cũng đã giúp Singapore có nguồn nhân lực đạt chuẩn quốc tế cao do trực tiếp tiếp nhận những tri thức khoa học mới nhất. Tại Trung Quốc việc dạy và học ngoại ngữ cũng được hết sức chú trọng. Chính phủ Trung Quốc cho rằng cần xem các hoạt động này là một 6 phần quan trọng trong chương trình giáo dục chung của quốc gia. Để nâng cao chất lượng và tăng cường số lượng người học ngoại ngữ, chính phủ đã đưa ra các quy định về trách nhiệm của giáo viên và nhà trường, tăng cường các nguồn lực và các điều kiện cho việc tổ chức các hoạt động dạy và học ngoại ngữ. Để chuẩn bị cho các hoạt động đón Thế vận hội 2008 tổ chức tại Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã phát động phong trào toàn dân học ngoại ngữ. Các trung tâm dạy ngoại ngữ được mở ra với quy mô lớn và đặt dưới sự quản lý của nhà nước về nội dung, chương trình và công khai mức thu học phí để đảm bảo quyền lợi cho người học. Đối với hệ thống giáo dục quốc dân, sau một loạt các cuộc cải cách nhỏ, tháng 2 năm 1993 "Đề cương về cải cách và phát triển giáo dục” của TW Đảng cộng sản Trung Quốc chính thức ra đời bắt đầu cuộc cải cách đổi mới sâu rộng trong giáo dục, quy định tiếng Anh phải được đưa vào dạy chính thức từ bậc tiểu học nhằm phục vụ thiết thực cho việc hội nhập mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Trung Quốc trở thành thị trường khổng lồ cho việc "xuất khẩu ngôn ngữ” của nước Anh. Theo ông Gordon Brown - Bộ trưởng tài chính Anh cho biết" Trong 20 năm qua, số người nói tiếng Anh ở Trung Quốc dường như đã vượt xa số người sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ trên toàn thế giới. Đây là cơ hội lớn đối với nước Anh”. Chính phủ Anh cũng cho phép các sinh viên Trung Quốc đang học tập tại các trường đại học tại Anh được phép ở lại và làm việc thêm một năm nữa sau khi tốt nghiệp. Tại Nhật Bản, chính phủ thể hiện rõ quyết tâm đẩy mạnh hoạt động dạy và học tiếng Anh ứng dụng ở quy mô toàn bộ nền giáo dục. Cụ thể: Trong vài năm gần đây tiếng Anh bắt đầu được đưa vào tiểu học, mục đích rèn kỹ năng giao tiếp đơn giản bước đầu cho học sinh, tránh gò ép về ngữ pháp và từ vựng. Đối với bậc THCS (cấp 2), tiếng Anh được coi là 1 trong 5 môn chính, được đánh giá quan trọng ngang với môn Quốc ngữ, Toán, Xã hội, Lý, Hóa với thời lượng 4tiết/ tuần, mỗi tiết 50 phút. ở bậc THPT (cấp 3), tiếng Anh được coi 7 như giáo dục phổ cập với tỷ lệ theo học lên đến 95%. Tiếng Anh được dạy như một ngoại ngữ duy nhất, rất ít trường dạy thêm các ngoại ngữ khác. Ở Ý cũng sử dụng Tiếng Anh phổ biến, là nước xếp thứ 15 về % số người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2 (Second language), ở châu Âu với 28%. Các nước có số người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ 2 nhiều nhất là Đan Mạch (79%), Thụy Điển (76%), và Hà Lan (75%). Tiếng Anh là môn học bắt buộc ở bậc học phổ thông ở nước này. Thanh niên Ý học tiếng Anh để có cơ hội tìm việc làm nhiều hơn. Tại các trung tâm Anh quốc, tiếng Anh nói (Spoken English) được nhiều người theo học nhất. Họ có chương trình quảng bá tiếng Anh trên các xe buýt, tại các bến xe. Nhiều sinh viên Ý đã sang Mỹ làm thêm nhân kỳ nghỉ hè để có cơ hội giao tiếp bằng tiếng Anh. Tại Anh, người Anh tự hào vì ngôn ngữ của họ đã và đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, song việc dạy và học ngoại ngữ trong nhiều năm qua không được chú ý. Theo một kết quả khảo sát do hội đồng Châu Âu thực hiện thì khoảng 66% người dân Anh không nói được bất kỳ thứ ngôn ngữ nào ngoài tiếng mẹ đẻ, đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước châu Âu được khảo sát. Bà Isabella More, giám đốc trung tâm ngôn ngữ quốc gia cho biết: Sự suy giảm số học sinh học ngoại ngữ sẽ làm cho học sinh thiếu kỹ năng cần thiết khi tốt nghiệp cũng như ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chính phủ Anh đang lên kế hoạch chi 115 triệu bảng cho việc đưa ngoại ngữ vào các trường học. Những ngôn ngữ được dạy tại quốc gia này chủ yếu là Tây Ban Nha, Pháp, Đức và tiếng Trung Quốc. Các chuyên gia Anh cho rằng nền kinh tế của Trung Quốc đang tăng trưởng nhanh chóng và sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, không những thế Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, hiện đang là thị trường xuất khẩu ngôn ngữ lớn nhất của Anh, 40 trường tiểu học của London đã đưa chương trình tiếng Trung Quốc vào nhà trường, lên kế hoạch kết nghĩa với các trường của Bắc Kinh. Tại Hàn Quốc sau khi giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của chính quyền Nhật Bản và sau cuộc chiến tranh năm 1953, Hàn Quốc đã nhanh 8 chóng xây dựng được một cơ sở giáo dục hạ tầng, mở rộng cung ứng giáo dục, tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục cơ sở và giáo dục bậc cao phục vụ cho "chiến dịch phát triển hướng ngoại”. Từ sau khi vượt qua khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 1997, Hàn Quốc tiếp tục thực hiện cuộc cải cách giáo dục để tiến vào thế kỷ 21 với tham vọng trở thành một nước có nền giáo dục tốt nhất thế giới. Chiến lược phát triển giáo dục của Hàn Quốc được hoạch định theo yêu cầu của mục tiêu, xây dựng một quốc gia hiện đại hóa với 3 đặc trưng cơ bản đó là: - Một quốc gia phúc lợi, công bằng, ổn định, dân chủ. - Một xã hội phồn vinh, bình đẳng, công nghiệp hóa định hướng thông tin cao. - Một hệ thống tự do, năng động của một xã hội mở và định hướng toàn cầu. Để phục vụ cho chiến lược đó chính phủ Hàn Quốc đã tăng cường mạnh mẽ việc dạy và học ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân từ bậc tiểu học trở lên. Tiếng Anh thực sự là nhu cầu cấp thiết trong quan hệ làm ăn, giao dịch của Hàn Quốc vì đối tác chủ yếu của họ là Mỹ và các nước phương Tây. 1.1.2. Ở trong nước Vào những năm đầu thập kỷ 90, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, xu thế hội nhập quốc tế, phong trào học ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh ngày càng phát triển. Việc quản lý dạy và học ngoại ngữ cũng đã dần được các cấp, ngành chú trọng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của toàn xã hội. Hoạt động dạy và học ngoại ngữ đã được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông từ bậc tiểu học. Song tình hình dạy và học cũng có nhiều bất cập, chương trình chưa đồng bộ, chưa đảm bảo tính liên thông từ bậc THPT lên đại học, ngay trong các bậc học phổ thông đã không đảm bảo tính liên thông. tình trạng các trường tiểu học sử dụng các nguồn tài liệu giảng dạy khác nhau như giáo trình "Let’s go" hoặc "Let’s learn 1 + 2" của NXB Oxford. Giáo viên được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau như Đào tạo Tại chức, Đào tạo Liên kết, Đào tạo Từ xa ... nên kiến thức, phát âm và nghiệp vụ sư phạm chưa được chuẩn và vững, thêm vào đó họ hợp đồng đã nhiều năm nên mức lương cũng 9 nhận được khác nhau, tùy vào điều kiện của từng trường. Giáo viên dạy trực tiếp làm kiểm tra đánh giá, không theo một chuẩn nào và thời lượng dạy một tiết Tiếng Anh ở tiểu học chỉ khoảng 20 đến 30 phút. Hiện nay giáo trình Tiếng Anh từ lớp 6 đến lớp 12 được biên soạn học theo đường hướng giao tiếp cụ thể. Giáo trình lớp 6-7 chủ yếu giới thiệu ngữ liệu ngôn ngữ mới, giáo trình lớp 8-9 và giáo trình từ lớp 10-12 nội dung chương trình nặng về ngữ pháp, từ vựng, bên cạnh đó còn chú trọng đến chủ điểm để dạy theo vòng tròn đồng tâm, kỹ năng nghe và nói chưa được chú trọng. Việc kiểm tra thi cử theo hình thức tự luận trong hoàn cảnh một lớp học có tới 50 học sinh. Tình trạng quay cóp trong thi cử được xem như là quốc nạn nên kết quả kiểm tra thi cử không phản ánh đúng sự thật, kết quả của 10 năm học ngoại ngữ đối với nhiều học sinh giống như bắt đầu học. Hoạt động dạy và học ngoại ngữ ở tỉnh Hà Tây những năm đầu cũng ở tình trạng tương tự như vậy, nội dung chương trình đang dần đi vào thống nhất theo đúng quy định của Bộ GD & ĐT, không đảm bảo tính liên thông, ở nhiều nơi còn tồn tại tình trạng học sinh học tiếng Anh từ lớp 3 tới lớp 9 nhưng khi lên bậc THPT các em lại phải học tiếng Pháp hoặc tiếng Nga, chỉ vì một lý do các thầy cô giáo vốn được đào tạo ngoại ngữ Nga hoặc Pháp nay tuổi đã cao không thể đào tạo lại tiếng Anh. Trường hợp thầy, cô được đào tạo cấp tốc chứng chỉ A, B, C, tiếng Anh để về dạy không phải hiếm. Thực tế như vậy thì chất lượng dạy và học ngoại ngữ không thể nói là tốt. Việc kiểm tra đánh giá dạy và học còn nặng về hình thức, thành tích. Trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học hầu như không có, giáo viên chủ yếu dạy chay. Có thể nói dạy và học ngoại ngữ ở các địa phương cũng như trên cả nước trong nhiều năm qua đều ở trong tình trạng manh mún dàn trải, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Muốn dạy và học ngoại ngữ đem lại kết quả thực sự cần hội đủ các yếu tố như số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, trang thiết bị, phương pháp dạy và học, cách thức kiểm tra đánh giá, tất cả cần được đặt trong một cơ chế quản lý khoa 10 học, hiệu quả. Tuy nhiên việc quản lý dạy và học ngoại ngữ ở Việt Nam tới nay vẫn chưa thấy có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào, người làm công tác quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hoặc sự chỉ đạo dập khuôn từ cấp trên. Quản lý dạy và học ngoại ngữ vẫn được đặt chung một cách với quản lý các môn học khác mà chưa tính đến nét đặc thù bộ môn. Việc xây dựng cơ sở lý luận cho quản lý hoạt động dạy và học ngoại ngữ sẽ giúp cho nhà quản lý có cơ sở điều hành công việc chuyên môn của nhà trường nói chung và hoạt động dạy và học nói riêng đạt kết quả tốt. 1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan quan đến đề tài 1.2.1. Quản lý; chức năng quản lý 1.2.1.1. Khái niệm quản lí Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu đời của con người. Nó "xưa cũ như chính con người vậy” (14, tr. 10). Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19 khoa học quản lý mới bắt đầu hình thành. Có thể điểm qua một số định nghĩa sau: Theo K. Marx: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người đọc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng" (31,tr. 408) H. Koontz (Mỹ): "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môn trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất" [30, tr. 33]. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước’’[16, tr 23]. 11 Hoạt động QL còn được định nghĩa như là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra [10, tr.1]. Thuật ngữ "quản lý" thể hiện được bản chất hoạt động này trong thực tiễn, nó gồm hai quá trình tích hợp với nhau: quá trình “ quản" gồm sự coi sóc, giữ gìn duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”, và quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, điều chỉnh, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển’’ (3,tr.15). Theo tác giả Trần khánh Đức : “Quản lý là một hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện những mục tiêu xác định của công tác quản lý’’ [26, tr 1] Như vậy có thể thấy có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, song tựu trung các định nghĩa trên đều thể hiện: - Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển. - Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý. - Quản lý là một hoạt động được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội. - Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật chính vì vậy trong hoạt động quản lý người quản lý phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo để chỉ đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích. Các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, nhưng tất cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lí, đó là trả lời câu hỏi: Ai quản lí? (chủ thể quản lí); quản lí ai? quản lí cái gì? (khách thể quản lí); quản lí như thế nào? (phương thức quản lí); quản lí bằng cái gì? (công cụ quản lí); quản lí nhằm làm gì (mục tiêu) và từ đó chúng ta nhận thức được: Bản chất của quản lí là những hoạt động của chủ thể quản lí tác động vào khách thể quản lí để đảm bảo cho hệ thống tồn tại, ổn định và phát triển lâu dài vì mục tiêu và lợi ích của hệ thống. 12 C«ng cô Chñ thÓ qu¶n lÝ Kh¸ch thÓ qu¶n lÝ Chøc n¨ng qu¶n lÝ Môc ®Ých Ph­¬ng ph¸p Sơ đồ 1.1: Thể hiện quá trình quản lí 1.2.1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lí là hệ thống gồm bốn chức năng: - Kế hoạch: Đây là khâu đầu tiên của chu trình quản lí. - Tổ chức: Sự chuyển hóa những ý trưởng trong kế họach thành hiện thực. - Chỉ đạo: Điều khiển hệ thống là cốt lõi của chức năng quản lý, nó tích hợp với hai chức năng trên. - Kiểm tra: Là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lí. Trong một chu trình quản lí cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp và đan xen vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu trình này sang chu trình khác theo hướng phát triển trong đó thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lí và là cơ sở cho việc ra quyết định quản lí. KÕ ho¹ch KiÓm tra ®¸nh gi¸ Th«ng tin ChØ ®¹o Sơ đồ 1.2: Chu trình quản lí 1.2.1.3. Biện pháp quản lý 13 Tæ chøc Nghiên cứu về khoa học quản lý, tác giả Trần Quốc Thành nêu ra 4 biện pháp quản lý chính. Đó là: Biện pháp thuyết phục; Biện pháp hành chính - tổ chức; Biện pháp kinh tế; Biện pháp tâm lý - giáo dục. - Biện pháp thuyết phục: là cách tác động của chủ thể QL vào đối tượng QL bằng lý lẽ làm cho họ nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu cầu của nhà quản lý, từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu này. Đây là biện pháp cơ bản để giáo dục con người. Biện pháp thuyết phục gắn với tất cả các biện pháp quản lý khác và phải được người quản lý sử dụng trước tiên vì nhận thức là bước đầu tiên trong hoạt động của con người. - Biện pháp hành chính - tổ chức: là cách tác động của chủ thể QL vào đối tượng QL trên cơ sở quan hệ quyền lực tổ chức, quyền hạn hành chính. Cơ sở của biện pháp này là dựa vào quy luật tổ chức, bởi lẽ bất cứ một hệ thống nào cũng có quan hệ tổ chức. Khi sử dụng biện pháp hành chính - tổ chức, chủ thể QL phải nắm chắc các văn bản pháp lý, biết rõ giới hạn, quyền hạn trách nhiệm. Các quy định phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn, phải kiểm tra và nắm được thông tin phản hồi. - Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể QL vào đối tượng QL thông qua lợi ích kinh tế. Cơ sở của biện pháp này là dựa vào quy luật kinh tế, thông qua quy luật này để tác động tới tâm lý của đối tượng. Nội dung của biện pháp này là nhà quản lý đưa ra các nhiệm vụ, kế hoạch... tương ứng với các mức lợi ích kinh tế. Đối tượng bị QL có thể lựa chọn phương án thích hợp để vừa đạt được mục tiêu của tập thể vừa đạt được lợi ích kinh tế của cá nhân. Khi sử dụng biện pháp này cần tránh dẫn đến chủ nghĩa thực dụng hay sự mất đoàn kết nếu thiếu công bằng. - Biện pháp tâm lý - giáo dục: là cách tác động vào đối tượng QL thông qua tâm lý, tình cảm, tư tưởng con người. Cơ sở của biện pháp này dựa vào quy luật tâm lý con người và chức năng tâm lý của con người. Nội dung của biện pháp này là kích thích tinh thần tự giác, sự say mê của con người. Muốn QL thành công người QL cần phải hiểu rõ tâm lý của bản thân mình và của đối tượng QL. 14 Tóm lại, quản lý vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Các nhà quản lý cần phải biết vận dụng các biện pháp quản lý một cách linh hoạt, sáng tạo và mềm dẻo để xử lý các tình huống cụ thể trong một môi trường luôn biến đổi. Điều này đòi hỏi sự khôn ngoan, tinh tế của các nhà QL để đạt được mục đích. Ngày nay, trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế - xã hội nói chung, càng đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra được các biện pháp quản lý sự thay đổi một cách tài tình, khéo léo. 1.2.2. Quản lý giáo dục; quản lý nhà trường 1.2.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục Quản lý giáo dục là một loại hình của quản lý xã hội vì giáo dục là một hiện tượng xã hội, một chức năng của xã hội loài người được thực hiện một cách tự giác. Cũng giống như mọi hoạt động khác của xã hội loài người, giáo dục cũng cần được quản lý. Quản lý giáo dục có thể được hiểu là quản lý quá trình GD - ĐT trong đó bao gồm quá trình dạy học diễn ra ở các cơ sở giáo dục khác nhau hay là quản lý một hệ thống các cơ sở giáo dục đóng trên địa bàn dân cư. Có nhiều định nghĩa về quản lý giáo dục như sau: Trong cuốn "Những vấn đề về QLGD" [22, tr 124] chuyên gia GD Liên xô cũ M.I Kônđacôp cho rằng "QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể QL ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ bộ đến trường) nhằm đích đảm bảo hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy tắc chung của xã hội cũng như quy luật của quá trình GD, của sự phát triển tâm thế và tâm lý trẻ em”. Tác giả Nguyễn Quốc Chí: "Quản lý giáo dục là được hiểu như việc thực hành đầy đủ các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra trên toàn bộ các hoạt động giáo dục và tất nhiên cả những cấu phần tài chính và vật chất của các hoạt động đó nữa" [26, tr.17] Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, "QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng thể hiện được tính chất của nhà 15 trường XHCN Việt nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học-giáo dục thế hệ trẻ, đưa GD tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [23, tr.35] Tóm lại, quản lý giáo dục có thể được hiểu một cách đơn giản là quá trình vận dụng những nguyên lý, phương pháp, khái niệm…, của khoa học quản lý vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể, một ngành chuyên biệt - ngành giáo dục. Hệ thống quản lý giáo dục bao gồm các thành tố: - Chủ thể quản lý giáo dục: Là hệ thống quản lý giáo dục các cấp từ trung ương đến địa phương. - Đối tượng/ Khách thể quản lý giáo dục: + Điều kiện cơ sở vật chất, nguồn lực cho giáo dục. + Quá trình giáo dục. + Con người tham gia hoạt động giáo dục. - Cơ chế quản lý giáo dục, gồm các cơ chế chính thức và không chính thức: + Cơ chế chính thức là những quy định đã thành văn bản mang tính pháp lý, được thực hiện nhằm duy trì quan hệ giữa chủ thể và khách thể do Nhà nước, Bộ Giáo dục - Đào tạo và các cơ quan chức năng có thẩm quyền được Bộ uỷ quyền ban hành. + Cơ chế không chính thức là những quy định không thành văn bản nhưng được sử dụng nhằm duy trì quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý được mọi thành viên trong hệ thống quản lý thừa nhận và tôn trọng. - Mục tiêu của quản lý giáo dục Việt Nam: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ nhân lực có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”. Quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển xã hội và sự phát triển của ngành giáo dục. Trong bài phát biểu tại buổi khai mạc hội thảo về quản lý giáo dục tại trường Quản lý Cán bộ Giáo dục Trung ương I ngày 26/3/1996, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo 16 dục - Đào tạo Nguyễn Minh Hiển đã khẳng định: "Quản lý giáo dục là yếu tố quan trọng để tạo ra nội lực cho ngành trong điều kiện đất nước còn nghèo”. 1.2.2.2. Quản lý nhà trường Nhà trường là một tổ chức giáo dục cơ sở, trực tiếp làm công tác đào tạo, thực hiện việc giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ. Thành tích tập trung nhất của nhà trường là chất lượng và hiệu quả giáo dục, được thể hiện ở sự tiến bộ của HSSV, ở việc đạt mục tiêu giáo dục của nhà trường. “Nhà trường là vầng trán của cộng đồng" và đến lượt mình "cộng đồng là trái tim của nhà trường”. Từ nhà trường, hai quá trình "xã hội hoá giáo dục" và "giáo dục hoá xã hội" quyện chặt với nhau để hình thành "xã hội học tập”, tạo nên sự đồng thuận xã hội, tăng trưởng kinh tế cho mỗi quốc gia với mục tiêu phát triển nhân văn đưa giáo dục cho mỗi người và huy động tiềm năng, nguồn lực của xã hội cho giáo dục. Quản lí xã hội lấy tiêu điểm là quản lí giáo dục thì giáo dục phải coi nhà trường là nút bấm và quản lí nhà trường phải lấy quản lí việc dạy học là khâu cơ bản, việc dạy học phải xuất phát và hướng vào người học. QLNT và những đổi mới trong QLNT đang được chính phủ rất quan tâm và tạo điều kiện phát triển. Thực chất của quá trình QLNT là quá trình tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra hoạt động giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của trò, đồng thời quản lý những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và tinh thần cho quá trình dạyhọc nhằm đạt được mục đích của giáo dục đào tạo. Quá trình giảng dạy, học tập trong nhà trường cần được vận hành đồng bộ trong sự kết hợp chặt chẽ các thành tố chủ yếu của nhà trường với nhau trong môi trường nhà trường và môi trường xã hội. Do vậy, cho dù chỉ quản lý việc thực hiện phương pháp giảng dạy trong trường, nhà quản lý vẫn cần phải quan tâm đến các thành tố khác trong hệ thống nhà trường. Dưới đây là mô hình khái quát các thành tố trong một nhà trường, dựa trên tập bài giảng Phát triển nhà trường- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Đặng Quốc Bảo [26, tr.134]. 17 (M: Mục tiêu, N: Nội dung, P: Phương pháp, Th: Thầy, Tr: Trò) Môi trường quốc tế Môi trường: KT, VH, XH, Gia đình, SX, Kinh doanh... Hình thức tổ chức M Th Nhà trường Quản lí Điều kiện Tr Môi trường N P Kiểm tra, đánh giá Sơ đồ 1.3: Các thành tố trong quản lý nhà trường Tóm lại, Quản lý nhà trường là một quá trình tác động có ý thức (Tác động thông qua các chức năng quản lý, theo các nguyên tắc định hướng vào mục tiêu giáo dục, bằng các biện pháp quản lý hợp với các đối tượng quản lý...) của bộ máy quản lý nhà trường lên khách thể quản lý (Mọi người tham gia quá trình giáo dục và đào tạo của nhà trường, các nguồn lực, điều kiện cho hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường) làm cho các thành tố trong một nhà trường vận hành, liên kết chặt chẽ với nhau nhằm đưa những kết quả quản lý đạt được mục đích và chất lượng, hiệu quả mong muốn. 1.2.3. Khái niệm hoạt động dạy học, quá trình dạy học và quản lý hoạt động dạy học 1.2.3.1. Hoạt động dạy học Theo tác giả Phạm Minh Hạc "Dạy học là một chức năng xã hội, nhằm truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được, nhằm biến kiến thức, kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân" [11,tr. 18]. HĐDH giúp người học lĩnh hội tri thức, hình thành và phát triển nhân cách của người học. Vai trò chủ đạo của HĐDH được biểu hiện với ý nghĩa là 18 tổ chức và điều khiển hoạt động học của người học, giúp người học nắm được kiến thức, hình thành kĩ năng, thái độ. Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động khác trong nhà trường, là con đường trực tiếp và thuận lợi nhất để giúp học sinh lĩnh hội tri thức của loài người. Hoạt động dạy học làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, lao động và đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của học sinh, hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu CNXH, đó chính là động cơ học tập trong nhà trường và định hướng hoạt động của học sinh. Vì vậy, có thể nói hoạt động dạy học trong nhà trường đã tô đậm chức năng xã hội của nhà trường, đặc trưng nhiệm vụ của nhà trường và là hoạt động giáo dục trung tâm, là cơ sở khoa học của các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. 1.2.3.2. Quá trình dạy học QTDH được tổ chức trong nhà trường bằng PP sư phạm đặc biệt, nhằm trang bị cho HS hệ thống kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Theo tác giả Hà Thế Ngữ, và Đặng Vũ Hoạt: "Quá trình dạy học là một quá trình sư phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển giáo dục và giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ thống những tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và thực hành" [20, tr. 25]. Dạy học là sự tổ chức điều khiển quá trình học sinh chiếm lĩnh, lĩnh hội tri thức hình thành và phát triển nhân cách. Quá trình dạy học có vai trò chủ đạo được thể hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển sự học tập của học sinh giúp học sinh nắm kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Dạy có chức năng kép là truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học. 19 1.2.3.3. Quản lý hoạt động dạy học Quản lý hoạt động dạy học là quản lý một quá trình xã hội, một quá trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố cấu trúc như: Mục đích và nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học tập, kết quả dạy học. Dạy và học là hoạt động trọng tâm của nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp của nhà trường đều hướng vào hoạt động trung tâm đó. Vì vậy trọng tâm của việc quản lý trường học là quản lý hoạt động dạy học và giáo dục. Đó chính là quản lý hoạt động lao động sư phạm của người thầy và hoạt động học tập, rèn luyện của trò mà nó được diễn ra chủ yếu trong hoạt động dạy học. Quản lý hoạt động dạy học là quản lý một quá trình xã hội, một quá trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố cấu trúc như: Mục đích và nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học tập, kết quả dạy học. Quản lý hoạt động dạy học là phải tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Cụ thể hoá mục tiêu dạy học qua các nhiệm dạy học nhằm nâng cao tri thức, kỹ năng, bồi dưỡng thái độ và hình thành phát triển những năng lực phẩm chất tốt đẹp cho người học. - Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung dạy học. Nội dung dạy học phải đảm bảo bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người học cần phải nắm vững trong quá trình dạy học. - Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên (Biên soạn giáo trình, giáo án, chuẩn bị đồ dụng dạy học, lên lớp) - Quản lý kiểm tra - đánh giá kết quả học sinh học tập. - Quản lý hoạt động học tập của học sinh (nề nếp, thái độ, kết quả học tập). 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất