KHOA SƯ PHẠM
------O0O------
TRẦN THỊ THANH PHƯƠNG
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
Hà nội – 2007
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Cấu trúc luận văn
Chương 1: C¬ së lý luËn cña ®Ò tµi
1.1.
S¬ l-îc lÞch sö vÊn ®Ò nghiªn cøu
1.2.
Mét sè kh¸i niÖm c¬ b¶n liªn quan ®Õn ®Ò tµi
1.2.1. Quản lí và các khái niệm liên quan đến vấn đề về quản lý
1.2.1.1. Quản lí
1.2.1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lí
1.2.1.4. Các biện pháp quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục, quản lý trường học
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
1.2.2.2. Quản lý trường học
1.2.3. Quản lý hoạt động dạy – học
1.2.3.1. Hoạt động
1.2.3.2. Hoạt động dạy – học
1.2.3.3. Quản lý hoạt động dạy – học
1.3.
Quản lý HĐD-H nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở Đại học
1.3.1. Đào tạo
1.3.2. Chất lượng
1.3.3. Chất lượng đào tạo
1.3.4. Chất lượng đào tạo Đại học
1.3.5. Đặc thù của hoạt động dạy – học ở Đại học
1.3.6. Quản lý HĐD-H nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở Đại học
Tiểu kết chương 1
1
1
2
2
2
2
2
3
3
4
4
5
5
5
9
10
12
14
14
18
20
20
21
22
24
24
25
26
28
30
33
33
Chương 2: Thùc tr¹ng qu¶n lÝ ho¹t ®éng d¹y – häc ë
Tr-êng §¹i häc §iÖn lùc
2.1.
Một vài nét về trường Đại học điện lực
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Điện lực
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Trường và đội ngũ GV, CB, công nhân viên
2.1.4. Quy mô, chất lượng đào tạo
2.1.5. Hệ thống cơ sở vật chất sư phạm
2.2.
Thực trạng hoạt động dạy - học ở trường Đại học điện lực
2.2.1. Thực trạng hoạt động giảng dạy của giảng viên
2.2.2. Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên
2.2.3. Thực trạng CSVC, trang thiết bị, phương tiện – kỹ thuật phục vụ HĐD-H
2.3.
Thực trạng QL hoạt động dạy - học ở trường Đại học điện lực
2.3.1. Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên
2.3.2. Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên
2.3.3. Thực trạng quản lý việc sử dụng CSVC, trang thiết bị, phương tiện –
kỹ thuật phục vụ HĐD-H.
Tiểu kết chương 2
Chương 3: biÖn ph¸p qu¶n lÝ Ho¹t ®éng d¹y - häc nh»m n©ng
cao chÊt l-îng ®µo t¹o ë tr-êng §¹i häc §iÖn lùc
3.1.
Cơ sở và nguyên tắc để xây dựng các biện pháp
3.1.1. Các cơ sở xây dựng các biện pháp quản lý
3.1.2. Các nguyên tắc xây dựng các biện pháp quản lý
3.2.
Các biện pháp quản lý HĐD-H ở trường Đại học điện lực
3.2.1. Nhóm biện pháp QL hoạt động XD, thực hiện và quản lý kế hoạch
3.2.2. Nhóm biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên
3.2.3. Nhóm biện pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên
3.2.4. Nhóm biện pháp quản lý nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả
CSVC, trang thiết bị, phương tiện – kỹ thuật phục vụ HĐD-H
3.2.5. Mối liên quan giữa các biện pháp
3.3.
Kiểm chứng tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
34
34
34
34
35
36
38
39
39
45
50
51
52
60
62
64
65
65
65
67
67
67
76
84
92
94
95
97
98
101
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Trang
Hình 1.1:
Quan hệ chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý
9
Hình 1.2:
Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL
10
Hình 1.3:
Quản lý các thành tố của quá trình dạy – học
20
Hình 1.4 :
Nội dung quản lý hoạt động dạy - học ở nhà trường.
24
Hình 1.5:
Quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo
28
Hình 2.1:
Bộ máy của nhà trường
35
Hình 2.2:
Mối liên hệ giữa các hệ và ngành nghề đào tạo của Trường
37
Bảng 2.1:
Thống kê số HSSV tốt nghiệp các ngành đào tạo tính từ 1966 đến 9/2007
36
Bảng 2.2:
Mức độ đáp ứng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của
GV
39
Bảng 2.3:
Kết quả khảo sát thực trạng các hoạt động giảng dạy của GV
41
Bảng 2.4:
Thực trạng sử dụng PPD-H và phương tiện dạy – học của GV
44
Bảng 2.5:
KQ khảo sát nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bỏ giờ học của SV
47
Bảng 2.6:
Kết quả khảo sát thực trạng về phương pháp học tập của SV
48
Bảng 2.7:
Kết quả thi học phần môn Kỹ thuật điện của SV
49
Bảng 2.8:
Thực trạng quản lý hoạt động lập kế hoạch của GV
52
Bảng 2.9:
Thực trạng quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp của GV
53
Bảng 2.10: Thực trạng QL việc thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy
54
Bảng 2.11: Thực trạng QL hoạt động cải tiến nội dung, PP, hình thức tổ D-H
và đánh giá giờ dạy
56
Bảng 2.12: Thực trạng quản lý hoạt động KT - ĐG kết quả học tập của SV
58
Bảng 2.13: Thực trạng QL thực hiện quy định về hồ sơ chuyên môn của GV
59
Bảng 2.14: Thực trạng quản lý hoạt động học tập của SV
60
Bảng 2.15: Thực trạng quản lý việc sử dụng CSVC, trang thiết bị, phương
tiện - kỹ thuật phục vụ HĐD-H
63
ĐVHT
ĐH - CĐ
ĐTB
BGH
CBGD
CBQL
CNTT
CNXH
CSVC
GD&ĐT
GV
GVBM
GVCN
HĐ
HĐD-H
HĐGD
HĐHT
HSSV
HTQT
KH
KT
KT-XH
NCKH
NXB
PP
PPD-H
QL
QLGD
SV
THCS
TNCS
TNKQ
VD
XD
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Đơn vị học trình
Đại học - cao đẳng
Điểm trung bình
Ban giám hiệu
Cán bộ giảng dạy
Cán bộ quản lý
Công nghệ thông tin
Chủ nghĩa xã hội
Cơ sở vật chất
Giáo dục và Đào tạo
Giáo viên / Giảng viên
Giáo viên bộ môn
Giáo viên chủ nhiệm
Hoạt động
Hoạt động dạy - học
Hoạt động giảng dạy
Hoạt động học tập
Học sinh, sinh viên
Hợp tác quốc tế
Khoa học
Kiểm tra
Kinh tế, xã hội
Nghiên cứu khoa học
Nhà xuất bản
Phương pháp
Phương pháp dạy - học
Quản lý
Quản lý giáo dục
Sinh viên
Trung học cơ sở
Thanh niên cộng sản
Trắc nghiệm khách quan
Ví dụ
Xây dựng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của quá trình dạy - học với việc
nâng cao chất lƣợng đào tạo tại các trƣờng cao đẳng, đại học
Giáo dục ở bất kỳ thời đại và quốc gia nào cũng có vị trí quan trọng trong
sự phát triển của xã hội. Trong những năm gần đây, xu thế xã hội phát triển mạnh
mẽ về nhiều mặt đã đặt cho GD nói chung và GDĐH nói riêng đòi hỏi phải đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, có thể thích nghi tốt với thị trường lao
động thời hội nhập. Quản lý quá trình HĐD-H nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
là một vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học, nhà QLGD, Đảng và nhà nước
quan tâm và là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Tính cấp bách không chỉ được toàn
ngành GD&ĐT quan tâm mà còn được thể hiện trong đường lối lãnh đạo công
tác GD&ĐT của Đảng và luật pháp của nhà nước. Ví dụ: Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010, Luật giáo dục (2005).
1.2. Xuất phát từ thực trạng còn nhiều bất cập của quá trình dạy – học ở các
trƣờng cao đẳng, đại học
Được sự chỉ đạo của các cấp quản lý nhà nước, quá trình D-H nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo đã được triển khai trong các trường cao đẳng, đại học nhưng chưa
thực sự đạt kết quả như xã hội mong muốn. Thực trạng D-H chay, lý thuyết suông
còn phổ biến, PP, phương tiện, hình thức tổ chức D-H lạc hậu, chương trình, giáo
trình chưa cập nhật, CSVC chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.
1.3. Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân lực của ngành Điện nói riêng và
của xã hội nói chung theo xu thế hội nhập và mục tiêu đào tạo và định hƣớng
phát triển của trƣờng
Trong thời đại ngày nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiến
trình hội nhập kinh tế thế giới thì tri thức con người là một trong những yếu tố cơ
bản nhất để phát triển đất nước. Chất lượng đào tạo là điều kiện tồn tại và phát
triển đối với các cơ sở đào tạo hiện nay, góp phần nâng cao nguồn nhân lực cho
xã hội để phục vụ mục tiêu chung của đất nước, của xã hội.
Nhu cầu phát triển nguồn lực của ngành Điện không nằm ngoài những đòi
hỏi trên của xã hội mà còn cần phát triển những nhà quản lý giỏi, những cán bộ
khoa học kỹ thuật có trình độ cao và những công nhân kỹ thuật lành nghề để đáp
ứng được sự phát triển của xã hội.
1.4. Xuất phát từ thực tế hoạt động dạy - học của trƣờng Đại học Điện lực
Trường Đại học Điện lực trực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt nam là cơ sở
đào tạo cán bộ có trình độ Đại học, Cao đẳng và các bậc học thấp hơn theo cơ cấu
khung của hệ thống GD quốc dân thuộc lĩnh vực ngành Điện. Bốn mươi năm qua,
1
trường đã đóng góp đáng kể nguồn nhân lực đã qua đào tạo cho ngành Điện, đáp
ứng phần nào nhu cầu lao động cho toàn ngành và cho xã hội, bước đầu khẳng
định uy tín và vị thế của nhà trường trong hệ thống GD quốc dân. Trong thực tế,
số lượng, chất lượng và hiệu quả đào tạo vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và
thế mạnh của Trường và đòi hỏi mà xã hội đặt ra. Có nhiều nguyên nhân và lý do
khác nhau ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, trong đó cần phải kể đến một
nguyên nhân rất quan trọng đó là công tác quản lý HĐD-H còn nhiều bất cập. Vì
vậy, cần phải có cái nhìn khách quan, khoa học trong việc đánh giá thực trạng,
tìm ra biện pháp tăng cường quản lý HĐD-H ở Trường Đại học Điện lực.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tế nêu trên, tôi chọn: “Biện pháp
quản lý hoạt động dạy - học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học
Điện lực” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy - học
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học Điện lực.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy - học ở trường Đại học Điện lực.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Biện pháp quản lý HĐD-H ở trường Đại học Điện lực hướng vào việc nâng
cao chất lượng đào tạo ở trường này.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng D-H ở trường Đại học Điện lực hiện nay vẫn còn có những bất
cập và hạn chế, trong đó có thể do nguyên nhân từ công tác quản lý. Nếu có sự
nghiên cứu XD và áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hợp lý, khoa học và đồng
bộ các biện pháp quản lý HĐD-H sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của
trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy – học ở trƣờng Đại
học Điện lực
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy – học nhằm nâng cao
chất lƣợng đào tạo ở trƣờng Đại học Điện lực
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số biện pháp quản lý HĐD-H ở hệ Cao
đẳng và Đại học chính quy của trường Đại học Điện lực.
2
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các PP nghiên cứu lý luận: thu thập, đọc, phân tích, xử lý tài liệu, hệ
thống hoá lý thuyết.
7.2. Nhóm các PP nghiên cứu thực tiễn: điều tra chọn mẫu, phỏng vấn, thu thập
thông tin, lấy ý kiến chuyên gia, xử lý KQ khảo sát bằng thống kê toán học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn được trình bày
trong 3 chương có tên như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chƣơng 2: Thực trạng quản lí HĐD-H ở Trường Đại học Điện lực
Chƣơng 3: Biện pháp quản lí HĐD-H nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo trong trường Đại học Điện lực
Cuối luận văn là phần danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục.
3
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lƣợc lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ hơn hai nghìn năm trước đây, trên thế giới đã có rất nhiều nhà chính trị,
tư tưởng nghiên cứu về quản lý và đưa ra những luận điểm về quản lý, đồng thời
áp dụng vào thực tế và đã có những thành công lớn trong lĩnh vực này.
Ở phƣơng Đông, nổi lên hai nền văn hoá lâu đời đó là Trung Hoa cổ đại và
Ấn Độ cổ đại. Đặc biệt là Trung Hoa cổ đại đã sản sinh ra những nhà tư tưởng về
quản lý như Khổng tử (551 - 479 Tr CN), Mạnh tử (372 - 289 Tr CN), Hàn Phi Tử
(280 - 233 Tr CN), Thương Ưởng (390 - 338 Tr CN), v.v... Tuy tư tưởng về quản
lý của họ có khác nhau về quan điểm, như Khổng Tử, ông chú trọng về “đức trị”
để quản lý xã hội và cai trị dân. Còn Hàn Phi Tử, Thương Ưởng thì thiên về “pháp
trị”. Nhưng cho đến nay, những quan điểm trên vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến
phong cách quản lý của các nước châu Á. Ví dụ nước Nhật bản, họ coi sự thành
công về kinh tế của ngày hôm nay là do sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa tư bản
phương Tây với tư tưởng Khổng giáo về quản lý kinh tế ở đất nước này.
Ở phƣơng Tây cổ đại, thì có nhà triết học Socrat (Thế kỷ IV - III Tr CN) cũng đề
cập đến quản lý. Còn Hy lạp cổ đại thì có Platon (427 - 346 Tr CN). Theo ông, muốn cai trị
nước phải biết đoàn kết dân lại và phải vì dân, tiêu chuẩn của người đứng đầu là ham hiểu
biết, trung thực, tự chủ, điều độ, ít tham vọng về vật chất và phải được đào tạo kỹ lưỡng.
Trong thời kỳ lịch sử cận đại thì có Chales Babrage (1792 – 1871), H.Fayol
(1841 – 1925), Elton Mayor (1850 – 1947), F.Taylor (1841 – 1925), .... là những
người đã đóng góp cho khoa học quản lý và làm cho nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Lịch sử Việt nam đã ghi lại những tư tưởng QL có từ xa xưa. Thời kỳ tiền
Lê, tư tưởng QL là pháp trị. Thời kỳ nhà Lý, tư tưởng chủ đạo trong QL là đức trị.
Nhưng sang thời hậu Lê thì hướng cả vào đức trị và pháp trị. Trong tác phẩm “Đức
trị và pháp trị trong nho giáo”, Giáo sư Vũ Khiêu phân tích về ảnh hưởng của
đường lôi pháp trị của triều đại Lê Thánh Tông như sau: “.... Có thể nói đó là thời
kỳ kết hợp hài hoà giữa đức trị và pháp trị ở đỉnh cao của văn hoá dân tộc” [20,
tr33]. Như vậy, tư tưởng QL thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn của lịch sử.
Bước vào thế kỷ 21, trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế, tri thức
được coi là nguồn lực quyết định sự phát triển và tăng trưởng nền kinh tế, GD và
QLGD là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng góp phần cho sự phát triển
của đất nước ta. Thời kỳ gần đây, chúng ta đã có hàng loạt thành tựu khoa học
quản lý nói chung, khoa học QLGD nói riêng. Mặc dù khoa học QLGD ở nước ta
còn non trẻ nhưng phát triển nhanh cả về cơ sở lý luận và thực tiễn. Sự nghiệp
đổi mới GD ở nước ta hiện nay cho thấy công tác nghiên cứu về QLGD có vai trò
4
rất quan trọng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề QLGD,
nâng cao chất lượng GD&ĐT của Việt nam ở nhiều góc độ khác nhau và những
biện pháp quản lý HĐD-H nhằm nâng cao chất đào tạo của các tác giả, nhà
nghiên cứu và các nhà QLGD như: Đặng Quốc Bảo, Đặng Bá Lãm, Phạm Minh
Hạc, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Ngọc Quang,...
Trong kỷ yếu Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ III,
(6/2002) và trong Chiến lược phát triển GD 2001 – 2010, Bộ GD&ĐT, cũng đề cập
đến tính cấp thiết của vấn đề QL và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc
ĐH.
Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII “Về định
hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
và nhiệm vụ đến năm 2000” đã chỉ rõ: "GD&ĐT hiện nay phải có một bước chuyển
nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo,
nhất là chất lượng D-H trong các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa GD&ĐT đáp
ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp XD và phát triển đất nước" [21].
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Tiếp tục nâng cao
chất lượng GD toàn diện, đổi mới nội dung, PPD-H, hệ thống trường lớp và hệ
thống QLGD, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" [22].
Trong bài tham luận tại Hội thảo GDĐH trước những thách thức đầu thế kỷ
21 tổ chức mới đây ở Việt Nam, Giáo sư Lâm Quang Thiệp, nguyên Vụ trưởng Vụ
Đại học, cho rằng những vấn đề quan trọng cần lưu ý trong khi áp dụng vào GDĐH
Việt Nam, những tư tưởng của Hội nghị Paris tổ chức cuối năm 1998 thảo luận xung
quanh 4 thách thức chủ yếu mà GDĐH phải đối mặt trong thế kỷ 21 là sự phù hợp,
tăng cường chất lượng, quản lý và cung cấp tài chính và hợp tác quốc tế.
Nghiên cứu về vấn đề quản lý HĐD-H đã có nhiều tác giả như: Phan Tiềm
(2002), Giang Lê Nho (2006), Trịnh Văn Dũng (2006), Đỗ Văn Tải (2006),…
Trong quá trình GD, HĐD-H là hoạt động trọng tâm, quyết định sự thành
công của quá trình GD. Từ đó việc quản lý HĐD-H là một vấn đề quan trọng của
một trường, của ngành GD và của toàn xã hội. Một nhà trường nói chung và
Trường Đại học Điện lực nói riêng, việc quản lý giảng dạy của GV và học tập
của SV là nhiệm vụ hàng đầu, trọng tâm và then chốt. Vận dụng các kiến thức đã
tiếp thu trong quá trình học chuyên ngành QLGD tác giả sẽ nghiên cứu thực trạng
quản lý HĐD-H của nhà trường, từ đó đề xuất “Một số biện pháp quản lý HĐD-H
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong trường Đại học Điện lực”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1 Quản lý và các khái niệm liên quan đến vấn đề về quản lý
5
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu đời của
con người. Nó phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội. Quản lý là một
hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con người và là một nhân tố
của sự phát triển xã hội. Lý luận về quản lý vì vậy được hình thành và phát triển qua
các thời kỳ và trong các lý luận về chính trị, kinh tế xã hội. Tuy nhiên chỉ mới gần
đây người ta mới chú ý đến “chất khoa học” của quá trình quản lý và dần dần hình
thành các “lý thuyết quản lý”. Từ khi F.W. Taylor phát biểu các nguyên lý về quản
lý thì quản lý nhanh chóng phát triển thành một ngành khoa học. Bất cứ một tổ
chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của
một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp, đến một tập thể thu nhỏ như tổ
sản xuất, tổ chuyên môn, bao giờ cũng có hai phân hệ: Người QL và đối tượng bị
QL.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý tuỳ thuộc vào các cách tiếp cận,
góc độ nghiên cứu và hoàn cảnh xã hội, kinh tế, chính trị. Có thể điểm qua một số
lý thuyết đó như sau:
- K.Marx: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để
điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [31, tr.480].
- F.W. Taylor (1856 – 1915) là người được mệnh danh là cha đẻ của lý
luận quản lý khoa học, đã cho rằng cốt lõi trong quản lý là: “Mỗi loại công việc
dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. “Quản lý là
nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng
phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” [16, tr.1].
- Henry Fayol (1841 – 1925) thì lại coi quản lý là một loại công việc đặc
thù, khác với các loại công việc khác của xí nghiệp và trở thành một hệ thống độc
lập, phát huy tác dụng riêng có của nó mà các hệ thống khác của xí nghiệp không
thể nào thay thế được. Ông nói về nội hàm của khái niệm quản lý như sau: “Quản
lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [22, tr.59]. Năm
yếu tố trên đã tồn tại như những chuẩn mực được tuân theo một cách phổ biến
trong quản lý hiện đại.
- H.Koontz (Mỹ): “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức).
Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người
6
có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất” [30, tr.33].
- Mary Parker Follett (1868 – 1933) đã có những đóng góp lớn lao trong
thuyết hành vi trong quản lý khẳng định: “Quản lý là một quá trình lao động, liên
tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại” [14, tr.33].
- P. Drucker luôn nhấn mạnh QL sinh ra từ thực tiễn và trở về với thực tiễn. Ông quan
niệm: “Quyền uy duy nhất của QL chính là thành tựu mà nó có thể đạt được” [22, tr.338].
- Theo Đại từ điển tiếng Việt: quản lý là “tổ chức, điều khiển hoạt động
của một đơn vị, một cơ quan”, là “trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì” [51,
tr.1363]. Nghĩa Hán Việt của “Quản” là trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu
nhất định, duy trì sự vật ở trạng thái ổn định; quá trình “Lý” bao gồm sửa sang,
sắp đặt công việc, đổi mới, đưa hệ thống đó vào phát triển. Trong “quản” phải có
“lý” thì toàn hệ mới có thể phát triển, trong “lý” phải có “quản” thì sự phát triển
của hệ mới ổn định, bền vững [16, tr.2]. Hai quá trình này phải được gắn bó chặt
chẽ với nhau thì toàn hệ mới đạt được thế cân bằng động, tồn tại và phát triển phù
hợp trong mối tương tác với các yếu tố bên trong và bên ngoài.
- Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những
người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước” [16,
tr.23].
- Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho
trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [20, tr.225]. Hoặc
“Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình
thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của
nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách
thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức quản lý là khoa
học” [19, tr.33].
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Bản chất của hoạt động QL nhằm làm cho hệ
thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái có tính chất lượng mới”.
Quản lý = Quản + Lý
Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định .
- Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển.
Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát triển
mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Vậy: Quản lý = ổn định + phát triển
7
- Theo tác giả Trần Khánh Đức: “Quản lý là một hoạt động có chủ đích,
được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để
thực hiện những mục tiêu xác định của công tác quản lý” [26, tr.1].
- Nghiên cứu về khoa học quản lý, các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn
Thị Mỹ Lộc cho rằng định nghĩa rõ hơn cả về quản lý đó là: “Quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra” [2, tr.1]. Hoạt động quản lý là: “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ
thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ
chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [15, tr1].
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận quản lý, song các định nghĩa đều đề cập
tới bản chất chung của hoạt động quản lý đó là:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý là sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể và khách thể QL.
- Quản lý xét cho đến cùng, bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp quy luật khách quan.
Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Là một khoa học vì các
hoạt động quản lý luôn là một hoạt động có tổ chức, có định hướng trên những quy
luật, những nguyên tắc và phương pháp hoạt động cụ thể. Chỉ khi nhận biết đúng
các quy luật đó, các đặc điểm của từng cá thể, các đặt trưng tâm lý khác nhau thì
tác động của quản lý mới có kết quả. Mặc dù trong hoạt động quản lý, nhà quản lý
luôn tìm cách đúc kết kinh nghiệm và cải tiến công việc để có hiệu quả, tuy nhiên,
muốn quản lý tốt thì phải học, không thể chỉ làm theo kinh nghiệm được.
Quản lý đồng thời là một nghệ thuật vì hoạt động quản lý là một hoạt động
thực hành trong thực tiễn vô cùng phong phú và đầy biến động. Không có một
nguyên tắc chung nào cho mọi tình huống. Nhà quản lý phải làm sao để có thể xử
lý sáng tạo, thành công mọi tình huống nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề
ra, điều đó phụ thuộc vào bí quyết sắp xếp các nguồn lực, nghệ thuật giao tiếp,
ứng xử, khả năng thuyết phục, kỹ năng sử dụng biện pháp của từng người.
Trong khái niệm quản lý bao gồm các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý: là một cá nhân, một nhóm người hay tổ chức tạo ra
những tác động quản lý. Nó trả lời câu hỏi: ai quản lý ?
- Khách thể quản lý: là đối tượng tiếp nhận các tác động quản lý. Khách
thể quản lý có thể là người (trả lời câu hỏi: quản lý ai?), là vật (trả lời câu hỏi:
quản lý cái gì?) hoặc sự việc (trả lời câu hỏi: quản lý việc gì?)
- Mục tiêu quản lý là quỹ đạo đặt ra cho các đối tượng và chủ thể, chính
mục tiêu là căn cứ cho chủ thể tạo ra các tác động quản lý.
8
Nói một cách tổng quát: “QL là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung” [26, tr.176].
Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của QL càng được nhấn mạnh và nội
dung của hoạt động QL càng phức tạp. Quản lý luôn gắn với tổ chức cụ thể và là
nhân tố quyết định sức sống và sự thành công của tổ chức. Mỗi lĩnh vực hoạt
động quản lý XD riêng cho mình một hệ thống lí luận QL riêng. Mỗi cấp QL
cũng cần ứng dụng lý luận chung và lí luận riêng cho phù hợp với quy mô tổ
chức và đặc thù hoạt động của mình thì những quy luật trong QL mới phát huy
tác dụng. Tác động QL thường mang tính tổng hợp gồm nhiều biện pháp khác
nhau. Vì vậy, trong QL không thể tuân thủ theo những quy định cứng nhắc mà
phải linh hoạt, mềm dẻo.
Quá trình tác động này được thể hiện qua hình sau:
CÔNG CỤ
KHÁCH THỂ
QUẢN LÝ
CHỦ THỂ
QUẢN LÝ
MỤC TIÊU
PHƢƠNG PHÁP
Hình 1.1: Quan hệ chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu QL
1.2.1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý
Chức năng quản lý là hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý. Quản lý có bốn chức năng cơ bản, có quan hệ
chặt chẽ với nhau là: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Kế hoạch hoá: Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng QL.
Kế hoạch hoá bao gồm việc XD mục tiêu, chương trình hành động và quyết định
cách thức, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của một hệ thống
QL để đạt được mục tiêu. Kế hoach hoá giúp nhà QL có cái nhìn tổng thể, toàn
diện, từ đó thấy được hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Việc lập kế hoạch
cho phép lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn lực, tạo hiệu quả
hoạt động cho toàn bộ tổ chức và có khả năng ứng phó với sự thay đổi. Ngoài ra,
nó còn tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm tra. Không có kế hoạch sẽ không thể
xác định tổ chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu và không biết khi nào đạt
được mục tiêu. Cũng do đó kiểm tra trở thành vô căn cứ. Nhà quản lý thông qua
kế hoạch có thể nhìn thấy tương lai, có thể điều chỉnh những quyết định trước đó,
bảo đảm hướng vào mục tiêu đã định.
9
Tổ chức: Tổ chức là việc biến những ý tưởng trừu tượng của kế hoạch
thành hiện thực. Xét về mặt chức năng QL, tổ chức là quá trình hình thành nên
cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm
làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của
tổ chức. Tổ chức làm cho các chức năng khác của hoạt động QL thực hiện có
hiệu quả. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người
QL. Họ cần thiết kế cơ cấu các bộ phận, sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực
sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
Chỉ đạo: Đây là quá trình sử dụng quyền lực quản lý để tác động đến đối
tượng bị quản lý một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ
hướng vào việc đạt mục tiêu chung. Chỉ đạo là chức năng thể hiện năng lực của
người quản lý. Việc chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau việc lập kế hoạch và cơ cấu tổ
chức đã hoàn tất, mà nó hoà quyện và ảnh hưởng đến hai chức năng kia.
Kiểm tra: Đây là chức năng quan trọng xuyên suốt quá trình QL. Mục đích
của KT nhằm bảo đảm các kế hoạch thành công, phát hiện kịp thời những sai lệch,
tìm nguyên nhân và biện pháp điều chỉnh các sai lệch nhằm làm cho toàn bộ hệ thống
đạt mục tiêu đã định. KT là một quá trình bao gồm các bước: XD các tiêu chuẩn; đo
lường việc thực hiện; đánh giá các tiêu chuẩn so với các kế hoạch. KT là tai mắt của
QL, là việc làm bình thường, không được cản trở đối tượng thực hiện mục tiêu.
Bốn chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra tạo thành hệ thống
QL thống nhất với một trình tự nhất định. Ngoài bốn chức năng trên trong hệ thống
QL, yếu tố thông tin luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn với vai trò là điều kiện
phương tiện không thể thiếu được đối với việc thực hiện các chức năng QL. Hệ
thống thông tin QL có vai trò đặc biệt quan trọng, nếu thiếu thông tin hoặc thông
tin sai lệch thì công tác QL sẽ gặp khó khăn, dễ dẫn đến những quyết định sai.
Mối quan hệ giữa các chức năng QL với hệ thống thông tin QL được thể hiện qua
hình sau:
Lập kế hoạch
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
Lãnh đạo/Chỉ đạo
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý
10
Các nguyên tắc QL là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn, hành vi mà
các cơ quan QL, các nhà lãnh đạo phải tuân thủ trong quá trình QL theo đúng kế
hoạch của mục tiêu QL đã định.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc quan trọng tạo khả năng quản lý một cách khoa học, có
sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cơ quan quyền lực với sức mạnh sáng tạo của
quảng đại quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu quản lý. Tập trung trong
quản lý được hiểu là toàn bộ các hoạt động của hệ thống được tập trung vào cơ
quan quyền lực cao nhất, cấp này có nhiệm vụ vạch đường lối, chủ trương,
phương hướng mục tiêu tổng quát và đề xuất các giải pháp cơ bản, chủ yếu để
tiến hành thực hiện.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện thông qua chế độ một thủ trưởng - người
chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ công nhân viên về toàn bộ hoạt động của đơn vị,
tổ chức mình. Dân chủ trong QL được hiểu là sự huy động trí lực của mọi thành viên
trong tổ chức để tiến hành QL. Dân chủ được thể hiện ở chỗ: các chỉ tiêu, phương
hướng hành động đều được tập thể tham gia bàn bạc, kiến nghị các biện pháp thực thi
trước khi đi đến quyết định. Các tổ chức quần chúng, người lao động còn được tham
gia thực hiện các chức năng QL: tham gia XD kế hoạch, KT, đánh giá, giám sát.
Tập trung và dân chủ có quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau, có dân
chủ thì mới phát huy tốt sức sáng tạo của quần chúng, động viên quần chúng tích
cực lao động và tham gia bàn bạc thống nhất hành động thì tập trung càng cao và
ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nguyên tắc này thường nảy sinh hai thái
cực: tập trung quá dẫn đến quan liêu, độc đoán chuyên quyền và dân chủ thái quá
dẫn đến vô chính phủ. Cả hai thái cực này dẫn đến làm suy yếu hiệu lực quản lý.
Bởi vậy, để thực hiện chức năng lãnh đạo, người quản lý phải phối hợp hài hoà
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích xã hội:
Quản lý trước hết là quản lý con người, con người có những lợi ích, những
nguyện vọng và những nhu cầu nhất định, do đó một trong những nhiệm vụ quan
trọng của quản lý là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích, động
viên tính tích cực của họ. Lợi ích là một động lực to lớn nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động của con người, vì vậy trong quản lý phải kết hợp hài hoà lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội.
-Nguyên tắc hiệu quả:
Hiệu quả là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của một tổ chức. Vấn
đề đặt ra là làm thế nào để một cơ sở vật chất kỹ thuật, một nguồn tài sản, một
lực lượng lao động hiện có của tổ chức có thể tạo ra được một thành quả lớn nhất,
11
chất lượng tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Hiệu quả không những là nguyên tắc
quản lý mà còn là thước đo trình độ tổ chức, lãnh đạo và tài năng quản lý.
- Nguyên tắc nắm khâu trọng yếu:
Nguyên tắc này đòi hỏi người quản lý phải có khả năng phân tích chính
xác các tình thế của hệ thống trong quá trình xây dựng và phát triển để tìm ra các
khâu, các việc chủ yếu, những vấn đề then chốt có ý nghĩa quan trọng trong sự
thành bại của tổ chức. Nắm vững nguyên tắc này người quản lý khắc phục được
tình trạng dàn trải chung chung, tập trung vào những vấn đề then chốt quyết định
trong việc quản lý tổ chức thực hiện mục tiêu.
- Nguyên tắc kiên định mục tiêu
Đây là nguyên tắc đòi hỏi người quản lý các tổ chức phải có ý chí kiên định
thực hiện cho được mục tiêu đã xác định. Bởi vì một tổ chức dù mục tiêu đúng đắn
nhưng không phải lúc nào cũng được xã hội chấp nhận, đồng tình ủng hộ. Nếu
người quản lý thiếu tự tin, không quyết tâm thì mục tiêu không thể đạt được.
1.2.1.4. Biện pháp quản lý
Biện pháp, theo Đại từ điển tiếng Việt (1999) do Nguyễn Như Ý chủ biên,
được xác định là: “Cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể,
một công việc cụ thể nào đó” 51, tr.161.
Trong quản lý, biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tác động của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để
giải quyết những vấn đề trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt
mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan và nâng
cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục tiêu đã đặt ra. Biện pháp quản lý đòi
hỏi sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Như vậy, biện pháp quản lý là việc người quản lý sử dụng các chức năng
quản lý, công cụ quản lý một cách phù hợp cho từng tình huống vào đối tượng mà
mình quản lý để đưa đối tượng, đơn vị mình quản lý đạt mục tiêu mà chủ thể quản
lý XD, đưa chất lượng quản lý lên một vị trí mới, tình trạng mới tốt hơn hiện tại.
Các biện pháp quản lý rất đa dạng và phải luôn được nhà quản lý sử dụng
linh hoạt, sáng tạo để xử lý các tình huống cụ thể trong một môi trường luôn biến
đổi. Do vậy, đòi hỏi ở người quản lý phải có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm
để gắn kết những biện pháp với nhau, giải quyết các mâu thuẫn giữa các biện
pháp, biết tiên liệu trước các hoàn cảnh, tình huống mà đối tượng quản lý đặt ra.
Có biện pháp quản lý đúng đắn sẽ giúp cho các tổ chức hạn chế được các nhược
điểm của mình, liên kết gắn bó mọi con người trong tổ chức, tạo niềm tin, sức
mạnh và truyền thống của tổ chức. Biện pháp quản lý cần được xây dựng trên cơ
12
sở vận dụng những kinh nghiệm đã được đúc kết, khái quát hoá thành những
nguyên tắc, phương pháp và kỹ năng quản lý cần thiết.
Biện pháp quản lý là yếu tố động, thường được thay đổi theo đối tượng và tình
huống. Mỗi biện pháp đặc trưng cho một thủ pháp, tạo động lực thúc đẩy đối tượng
QL.
Từ đó, có thể hiểu biện pháp quản lý là tổng thể cách thức tác động của
chủ thể quản lý lên đối tƣợng quản lý trong quá trình tiến hành các hoạt
động nhằm đạt đƣợc mục tiêu đề ra.
Căn cứ vào sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, biện
pháp quản lý được chia thành các nhóm cơ bản như sau:
- Biện pháp thuyết phục: là cách tác động vào nhận thức của con người
bằng lý lẽ làm cho con người nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu
cầu của quản lý từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu đó. Đây là
biện pháp cơ bản để giáo dục con người, nhà quản lý chỉ tác động đến đối tượng
bằng lời lẽ của mình để thay đổi nhận thức của đối tượng.
- Biện pháp tổ chức- hành chính: là cách tác động trực tiếp của hệ quản
lý đến hệ bị quản lý trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính bằng
mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định. Biện pháp này dựa vào quyền uy tổ chức của
người quản lý để bắt buộc người dưới quyền phải thực hiện mệnh lệnh quản lý,
đó là biện pháp mang tính mệnh lệnh và tính kế hoạch, là quan hệ chỉ huy - thực
hiện. Đây là biện pháp cưỡng bức đơn phương, một bên ra quyết định, một bên
phục tùng, mức độ cưỡng bức tuỳ theo từng trường hợp, tính chất của bộ máy.
Biện pháp này thể hiện sức mạnh của tổ chức, xác lập trật tự, kỷ cương của bộ
máy, giúp cho các quyết định quản lý được thi hành nhanh chóng và chính xác,
tăng hiệu quả hoạt động quản lý.
- Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể QL tới đối tượng QL
thông qua các lợi ích kinh tế tạo động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt động.
Hay nói cách khác, biện pháp kinh tế là sự tác động một cách gián tiếp lên đối
tượng QL không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng cơ chế kích thích, con
đường tự nguyện, tạo ra sự quan tâm nhất định về lợi ích vật chất để người thực
hiện tự mình điều chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ, cho đối tượng lựa
chọn theo khả năng của họ hoặc tạo ra những lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể
phù hợp với lợi ích chung.
Sử dụng biện pháp này có ưu điểm không hạn chế về quan hệ tổ chức và
không phụ thuộc về mặt hành chính, đồng thời biện pháp này tăng cường được
tính chủ động cho cá nhân và tập thể, giảm bớt được sự kiểm tra đôn đốc vụn vặt
chi li của nhà quản lý.
13
- Biện pháp tâm lý – giáo dục: (còn được gọi là biện pháp tuyên truyền giáo dục)
là cách tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua đời sống tâm lý cá
nhân, các hệ tư tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng... của họ. Biện pháp này dựa trên
cơ sở các chức năng quy luật tâm lý của con người và dựa vào uy tín của người quản lý
để lôi cuốn các thành viên trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia công việc. Biện pháp
tâm lý – giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý vì đối tượng quản lý trước hết là con
người. Do vậy khi tác động tới con người trước hết phải sử dụng các tác động tâm lý
nhằm khai thác tiềm năng của con người, kích thích ý thức tự giác, sự say mê của con
người chủ động sáng tạo trong hoạt động của mình. Biện pháp tâm lý – giáo dục không
tồn tại tự thân mà thường phối hợp với các biện pháp khác, nhưng hướng chủ yếu là tác
động vào tâm lý con người, vào lòng tự trọng và lương tâm nghề nghiệp của người lao
động.
Trên đây là các biện pháp đặc thù của quản lý, trong thực tiễn quản lý cho
thấy không có biện pháp nào là vạn năng, biện pháp nào cũng có mặt ưu điểm,
mặt nhược điểm. Bởi vậy, chủ thể quản lý cần biết phối hợp các biện pháp một
cách linh hoạt nhằm khai thác được những mặt mạnh, hạn chế được những nhược
điểm của từng biện pháp. Như vậy, khi vận dụng các biện pháp, người quản lý
phải biết sử dụng đúng người đúng việc, tuỳ hoàn cảnh điều kiện, thời gian cụ thể
để lựa chọn các biện pháp phù hợp, giúp cho đối tượng quản lý thực hiện nhiệm
vụ một cách tự giác và tích cực.
Vận dụng các biện pháp có thành công hay không phụ thuộc vào tài năng của
nhà quản lý, nghệ thuật sử dụng các biện pháp đòi hỏi nhà quản lý sự sáng tạo, còn
bản thân các biện pháp không phải là cái quyết định thành công của các nhà QL.
1.2.2. Quản lý giáo dục, quản lý trường học
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
GD là một dạng hoạt động đặc trưng của con người, nó có từ khi sinh ra
loài người. Bởi vì trong quá trình lao động, con người có tích luỹ kinh nghiệm và
con người truyền lại cho thế hệ sau, ban đầu là tự phát sau dần trở thành tự giác,
có ý thức, có mục đích và có chương trình. Ngày nay GD là hoạt động xã hội
rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích và nghĩa vụ, quyền lợi của mọi công
dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội đồng thời có tác dụng mạnh mẽ đến tiến trình
phát triển của đất nước. Dưới góc độ coi GD là một hoạt động chuyên biệt thì
QLGD là QL các hoạt động của một cơ sở GD như trường học, các đơn vị phục
vụ đào tạo, là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đạt được mục tiêu
đào tạo. Dưới góc độ xã hội, QLGD là QL mọi hoạt động GD trong xã hội
QLGD là một khoa học quản lý chuyên ngành được nghiên cứu trên nền
tảng của khoa học nói chung, đồng thời cũng là bộ phận của khoa học GD. Cách
phổ biến trong sự phát triển lý thuyết là áp dụng các mô hình quản lý công việc
14
và bối cảnh GD. Vào giữa những năm 1990, QLGD từ chỗ là một lĩnh vực
nghiên cứu mới mẻ đã trở thành một lĩnh vực có lý luận riêng và có dữ liệu thực
nghiệm với độ tin cậy được kiểm tra trong GD. Cũng giống như khái niệm quản
lý, khái niệm QLGD có nhiều cách hiểu và được nhiều tác giả định nghĩa khác
nhau.
Có khái niệm như sau: QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV và SV, đến những lực
lượng GD trong và ngoài nhà trường làm cho quá trình này hoạt động để đạt
những mục tiêu dự định, nhằm điều hành phối hợp các lực lượng xã hội thúc đẩy
mạnh mẽ công tác GD thế hệ trẻ, theo yêu cầu phát triển xã hội.
Trong QLGD, quan hệ cơ bản là quan hệ giữa người quản lý với người dạy
và người học, ngoài ra còn các mối quan hệ khác như quan hệ giữa các cấp bậc
khác, giữa GV với SV, giữa nhân viên phục vụ với công việc liên quan đến hoạt
động giảng dạy và học tập, giữa GV – SV và CSVC phục vụ cho GD.
Ngày nay, theo quan điểm học tập thường xuyên, học tập suốt đời, GD
không còn giới hạn cho thế hệ trẻ mà là GD cho mọi người, cho nên QLGD được
hiểu là sự điều hành hệ thống GD quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Theo lý luận GD hiện đại, QLGD được hiểu như việc thực hiện đầy đủ các
chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đối với toàn bộ các hoạt
động giáo dục 3, tr.17. Quá trình của hệ quản lý này dựa trên cơ sở của việc ra
những quyết định đúng đắn, việc điều chỉnh linh hoạt và việc xử lý thông tin về
các hoạt động GD một cách kịp thời.
Theo P.V.Khuđôminxki (nhà lý luận của Liên xô trước đây): “QLGD là
tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý
ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống GD (từ bộ đến trường) nhằm
mục đích đảm bảo việc GD Chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ trẻ, đảm bảo phát
triển toàn diện và hài hoà cho thế hệ trẻ ”.
Trong cuốn “Những vấn đề về QLGD” [22, tr124], chuyên gia GD Liên xô
cũ M.I.Kônđacốp cho rằng: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức
và hướng đích của chủ thể QL ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho
thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những qui tắc chung của xã hội cũng
như những quy luật của quá trình GD, của sự phát triển tâm thế và tâm lý trẻ em”.
Trong cuốn Giáo dục học, Phạm Viết Vƣợng đã viết: “Mục đích cuối
cùng của QLGD là tổ chức giáo dục có hiệu quả để đào tạo ra lớp thanh niên
thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và xã hội” [42, tr206].
15
- Xem thêm -